TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
HOÀNG THỊ THƠ
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT “BỈ VỎ”
CỦA NGUYÊN HỒNG
KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC
•
•
•
C huyên ngành: V ăn học V iệt Nam
HÀ NỘI - 2015
•
TRƯỜNG ĐẠI
• HỌC
• s ư PHẠM
» HÀ NỘI
• 2
KHOA NGỮ VĂN
HOÀNG THỊ THƠ
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT “BỈ VỎ”
CỦA NGUYÊN HỒNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
•
•
•
•
C huyên ngành: V ăn học V iệt Nam
Người hưóng dẫn khoa học
TS. THÀNH ĐỨC BẢO THẮNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của TS.
Thành Đức Bảo Thắng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu
sắc tới thầy.
Tôi cũng xin được gửi lòi cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong tố Văn học
Việt Nam cùng các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn - trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn
thành khóa luận.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Hoàng Thị Thơ
LỜI CAM ĐOAN
Người viết khóa luận xin cam đoan:
1. Khóa luận “Không gian nghệ thuật trong tiếu thuyết B ỉ vỏ của
Nguyên Hồng” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có tham khảo ý kiến
nghiên cứu của những người đi trước và dưới sự hướng dẫn khoa học của giáo
viên hướng dẫn.
2. Khóa luận không phải là sao chép.
3. Khóa luận ít nhiều có những đóng góp nhất định của người viết.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Hoàng Thị Thơ
MỤC LỤC
MỠ Đ Ầ U ................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đ ề ....................................................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên c ứ u ....................................................................... 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................ 3
5. Mục đích nghiên cứu......................................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................4
7. Đóng góp của khóa luận....................................................................................4
8. Cấu trúc của khóa luận......................................................................................4
NỘI DUNG............................................................................................................ 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐÈ CHƯNG.......................................................5
1.1. Không gian nghệ thuật................................................................................... 5
7.7.7. Khái niệm không gian nghệ thuật.............................................................. 5
7.7.2. Các hình thức không gian nghệ thuật trong vãn học................................8
1.2. Tác giả Nguyên Hồng và tiểu thuyết Bỉ vỏ ............................................... 11
1.2.1. Tác giả Nguyên Hồng.................................................................................11
7.2.2. Tiếu thuyết Bỉ vỏ.........................................................................................13
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
TIẺƯ THUYẾT BỈ VỎ CỦA NGUYÊN HÒNG.......................................... 14
2.1. Không gian xã hội........................................................................................ 14
2.1.1. Không gian làng quê tù túng, chật hẹp với những hủ tục, định kiên lạc
hậu......................................................................................................................... 15
2.7.2. Không gian thành thị và những kiêp sông giang h ồ .............................. 25
2.2. Không gian thiên nhiên.............................................................................. 36
2.3. Không gian tâm tưởng..................................................................................46
KẾT LUẬN.........................................................................................................57
TÀI LIỆU THAM KHĂO
MỞ ĐÀU
1. Lí do chọn đề tài
Có nhiều hướng tiếp cận tác phẩm văn học, trong đó việc tìm hiểu tác
phẩm từ góc độ thi pháp không gian nghệ thuật luôn thu hút sự quan tâm của
nhiều người trong quá trình nghiên cứu, bởi bất kì tác phẩm nào khi tồn tại cũng
đều không tách rời khỏi yếu tố không gian. Nhà phê bình văn học Bêlinxki từng
nhận định: “Mọi sản phẩm của thế giới nghệ thuật đều là một thế giới riêng mà
khi đi vào đó ta buộc phải sống theo các quy luật của nó” [18, 15]. Nhà văn
Sơđơrin cũng từng nói: “Tác phẩm văn học là một vũ trụ thu nhỏ, mỗi sản phẩm
nghệ thuật là một thế giới khép kín trong bản thân nó” [18, 17]. Khái niệm thế
giới ở đây đã bao hàm phạm trù không gian. Neu hiểu văn chương là sự cảm
nhận về thế giới và con người thì không gian nghệ thuật chính là một trong
những cách để con người cảm thụ về thế giới, về bản thân mình. Tìm hiếu không
gian nghệ thuật của một hiện tượng văn học chính là tìm hiếu cách cảm nhận
cuộc sống qua lăng kính thấm mĩ chủ quan của người nghệ sĩ. Do vậy, tiếp cận
tác phẩm văn học từ góc độ không gian nghệ thuật là một cách thức hữu hiệu để
tìm hiếu nội dung tư tưởng của tác phấm, đồng thời thấy được phong cách nghệ
thuật của nhà văn. Đúng như M. B. Khrapchencô trong cuốn Cá tính sáng tạo
của nhà văn và sự phát trỉến của văn học từng cho răng: một trong các dâu hiệu
biểu hiện phong cách nghệ thuật nhà văn là cách tổ chức, xây dựng không gian
nghệ thuật trong tác phẩm.
Nguyên Hồng là cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam giai
đoạn 1930 - 1945. Nhiều nhà nghiên cứu đã nói về ông với biết bao trân
trọng: “Nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo thống thiết” [13, 428], “Nhà văn của
những người cùng khổ” [13, 450], “Người suốt đời đi tìm vẻ đẹp và chất thơ
trong khổ đau và đời sống cần lao” [13, 470]... Gắn bó sâu nặng, máu thịt với
cuộc đời và những người cùng khổ, Nguyên Hồng thuộc “Hạng nghệ sĩ tạo ra
sự sống” (Như Phong). Sáng tác của ông là một trong những minh chứng
1
hùng hồn cho đời sống khổ cực của người dân Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám. Bỉ vỏ là cuốn tiểu thuyết đầu tay của nhà văn và là tác phẩm chứa
đựng nhiều giá trị. Với mong muốn được đóng góp thêm một hướng tiếp cận
tác phẩm, đồng thời trang bị cho bản thân những kinh nghiệm trong bước đầu
nghiên cứu khoa học, người viết lựa chọn đề tài “Không gian nghệ thuật
trong tiểu thuyết B ỉ vỏ của Nguyên Hồng”.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyên Hồng là một nhà văn lớn trong trào lưu văn học hiện thực phê
phán 1930 - 1945 nói riêng và văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Nguyên
Hồng và tác phẩm của ông là đối tượng nghiên cứu hấp dẫn trong văn học.
Các nhà nghiên cứu đã có nhiều trang viết hay về ông, đã tìm hiểu ông trên
nhiều góc độ: cuộc đời, thế giới quan, phương pháp sáng tác, phong cách
nghệ thuật,... Có thế kế tên một số công trình nghiên cứu về Nguyên Hồng có
giá trị như:
- Vũ Ngọc Phan, Nguyên Hồng, in trong Nhà vãn hiện đại, quyển tư,
tập 3, NXB Vĩnh Thịnh, H. 1951.
- Nguyễn Đăng Mạnh, Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng, Báo Nhân
dân, số 16, tháng 5/1982.
- Phan Cự Đệ, Nguyên Hồng, in trong Tuyển tập Nguyên Hồng, tập 1,
NXB Văn học, H.1983.
- Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyên Hồng - Con người và sự nghiệp, in
trong Nguyên Hồng - Thân thế và sự nghiệp, NXB Hải Phòng, 1988.
- Nguyễn Đăng Mạnh, Mấy lần được gặp Nguyên Hồng, in trong
Nguyên Hồng - Thân thế và sự nghiệp, NXB Hải Phòng, 1997.
- Vũ Ngọc Phan, Tác phấm Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng
Tám, in trong Nguyên Hồng - Thân thế và sự nghiêp, NXB Hải Phòng, 1997.
- Đặc biệt trong cuốn Nguyên Hồng về tác gia và tác phấm do Hà
Minh Đức giới thiệu, Hữu Nhuận tuyển chọn, NXB Giáo dục, tái bản lần thứ
2
nhất năm 2003 có tập hợp nhiều bài viết của các nhà văn, các nhà nghiên cứu
về Nguyên Hồng và tác phẩm của ông.
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy, các công trình nghiên cứu trên đều ít
nhiều có bàn tới tiểu thuyết Bỉ vỏ nhưng phạm trù không gian nghệ thuật
trong tác phẩm này chưa được các tác giả đề cập một cách cụ thể, ngay cả một
số nhà nghiên cún được coi là có nhiều công sức trong việc tìm hiếu về
Nguyên Hồng như Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có một số bài viết về tiểu
thuyết Bỉ vở:
- Thi pháp hoàn cảnh trong tiếu thuyết “Bỉ vỏ ” của Nguyên Hông trên
tài
liệu
internet:
http://www.123doc.vn/document/895098-thi-phap-hoan-
canh-trong-tieu-thuyet-bi-vo-cua-nguyen-hong-truoc-cach-mang.htm.
- Thi pháp tiếu thuyết “Bỉ vỏ ” của Nguyên Hông trên tài liệu internet:
http://www.tamnhintrithuc.com/tailieu/69528-Thi-phap-tieu-thuyet-bi-vo-cuanguyen-hong.html.
Ở hai bài viết này, các tác giả có đề cập tới hoàn cảnh sống của nhân
vật, thi pháp không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Bi vỏ nhưng mới chỉ
trình bày một cách khái quát, chưa có sự đi sâu nghiên cứu cụ thể.
Tiếp thu phần nào kết quả của các nhà nghiên cứu, khóa luận của chúng
tôi tập trung tìm hiểu không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của
Nguyên Hồng dưới sự soi sáng của lí luận về không gian nghệ thuật, nhằm
làm rõ nội dung tư tưởng cùng nét độc đáo trong nghệ thuật của tác phấm.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cún
- Đối tượng nghiên cứu: Không gian nghệ thuật trong tác phẩm Bỉ vỏ
của nhà văn Nguyên Hồng.
- Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn tìm hiểu tác phẩm Bỉ vỏ của Nguyên
Hồng ở góc độ không gian nghệ thuật.
4. Nhiệm vụ nghiên cún
Thực hiện đề tài, người viết khóa luận hướng đến những nhiệm vụ sau:
3
- Làm rõ khái niệm không gian nghệ thuật trong tác phấm văn học.
- Vận dụng những hiểu biết về lí thuyết trên vào việc tìm hiểu không
gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ.
- Tiến hành so sánh không gian nghệ thuật trong Bỉ vỏ với một số tác
phẩm khác dựa trên những nét tương đồng để thấy được sự độc đáo của
Nguyên Hồng trong việc xây dựng không gian nghệ thuật trong tác phẩm.
5. Mục đích nghiên cún
- Có sự hiểu biết sâu sắc về không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn
học nói chung và trong tiểu thuyết Bỉ vỏ nói riêng.
- Thấy được tài năng của nhà văn Nguyên Hồng trong việc tạo dựng
không gian nghệ thuật trong tác phẩm.
6. Phương pháp nghiên cún
- Phương pháp khảo sát, thống kê;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp so sánh.
7. Đóng góp của khóa luận
- Góp thêm một hướng tiếp cận tác phấm Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên
Hồng.
- Giúp người đọc thấy được một phương diện quan trọng trong tài năng
nghệ thuật của nhà văn và là chất liệu cho các hướng nghiên cứu sau về nhà
văn Nguyên Hồng và tác phẩm của ông.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần M ở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của khóa luận gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Biểu hiện của không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ
của Nguyên Hồng.
4
NỘI DƯNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Không gian nghệ thuật
Trong cuốn Từ đỉến tiếng Việt, Hoàng Phê đã cắt nghĩa, lí giải về không
gian như sau: “Không gian là khoảng không bao la trùm lên tất cả sự vật, hiện
tượng xung quanh đời sống con người”.
Cùng với thời gian, không gian là khái niệm thuộc phạm trù triết học.
Nó là hình thức tồn tại của thế giới vật chất. Không một vật chất nào có thể
tồn tại ngoài không gian. Vật chất nói chung, và đặc biệt là con người nói
riêng luôn luôn phải vận động, tồn tại và thế hiện tính xác định của mình
trong thế giới khách thế ba chiều không gian và phải thích nghi với ba
chiều không gian đó. Trong thế giới vật chất, các vật thể có độ dài và độ
lớn khác nhau, cái này ở cạnh cái kia. Con người có thể nhìn ngắm, đo đạc,
cảm nhận được không gian vật chất một cách trực tiếp, nhưng không gian
nghệ thuật thì khác.
1.1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật
Trong nghiên cứu văn học, có nhiều quan điểm khác nhau về không
gian nghệ thuật. Tuy vậy, giữa các quan điểm đều có sự thống nhất chung
trong nhận định coi không gian nghệ thuật không đồng nhất với không gian
hiện thực, xem không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ
thuật, là mô hình nghệ thuật về thế giới mà con người đang sống, đang cảm
thấy vị trí và số phận của mình ở đó.
Neu như mọi vật trong thế giới đều tồn tại trong không gian ba chiều:
cao, rộng, xa và chiều thời gian, thì không có hình tượng nghệ thuật nào
không có không gian, không có nhân vật nào không có một nền cảnh nào đó.
Cũng như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật là một yếu tố quan
trọng thuộc hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là phạm trù thuộc hình
5
thức nghệ thuật nhưng là hình thức mang tính nội dung. Từ điển thuật ngữ
văn học đã đưa ra định nghĩa: Không gian nghệ thuật là “hình thức bên trong
của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần
thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong
trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn
bộ quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối,
cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật” [3,160]. Các tác
giả của Từ đỉến thuật ngữ vẫn học còn đưa ra các đặc trưng cơ bản của không
gian nghệ thuật.
Thứ nhất, không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên
mang tính chủ quan. Không gian nghệ thuật là không gian được xây dựng
theo quan niệm của người nghệ sĩ, hoàn toàn không đồng nhất với cuộc đời
thực và nó vận động, lưu chuyển linh hoạt đế biểu đạt ý đồ của tác giả. Do
vậy, không gian nghệ thuật là không gian mang tính chủ quan để biểu đạt cảm
nhận riêng của nhà văn về con người và thế giới. Mỗi tác giả có một cách xây
dựng và kiến tạo thế giới theo cách riêng của mình, không gian nghệ thuật vì
thế rất phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào sở trường cũng như cá tính sáng
tạo của mỗi nhà văn. Đồng thời, mỗi thời đại, mỗi giai đoạn văn học lại có
những quan niệm riêng về thế giới và con người, từ đó dẫn đến tri giác về
không gian nghệ thuật ở mỗi giai đoạn văn học là không giống nhau. Không
gian nghệ thuật là một hình thức, một kiểu tư duy nghệ thuật của nhà văn, qua
đó bộc lộ quan niệm, thái độ của tác giả về hiện thực và đời sống. Đặc điểm
này như một dấu hiệu quan trọng để phân biệt không gian nghệ thuật với
không gian khác chỉ có nghĩa là nơi tồn tại của sự vật chứ không phải là
không gian nghệ thuật. Lẽ dĩ nhiên, khi kế câu chuyện về một số phận, về một
hiện tượng, sự việc xảy ra trong đời sống, nhà văn thường đặt nó trong một
bối cảnh không gian nhất định. Tuy nhiên không phải bất cứ không gian nào
6
cũng là không gian nghệ thuật. Trong tác phẩm, có thể ta bắt gặp hình ảnh con
đường, ngôi nhà, dòng sông,... nhưng bản thân các sự vật đó chưa hắn đã là
không gian nghệ thuật. Nó chỉ được xem là không gian nghệ thuật khi bản
thân nó là một hình thức ngầm ẩn bên trong của hình tượng nghệ thuật nhằm
biểu hiện mô hình thế giới của con người.
Thứ hai, ngoài không gian vật thế, có không gian tâm tưởng. Do vậy
không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, không quy được vào
không gian địa lí. Khi tìm hiểu không gian nghệ thuật, bên cạnh không gian
vật thế tạo thành thứ ngôn ngữ nghệ thuật biếu đạt tư tưởng, cá tính sáng
tạo cũng như phong cách nghệ thuật nhà văn, người ta còn chú ý tới không
gian tâm tưởng. Không gian tâm tưởng là không gian diễn ra bên trong
nhân vật, trong tâm trạng của người kể chuyện. Nó có tác dụng khắc sâu
thêm tính cách nhân vật, giúp người đọc hiểu sâu thêm thế giới bên trong
tâm hồn con người. Giữa không gian vật thể và không gian tâm tưởng
thường có sự tác động qua lại lẫn nhau, hoặc là không gian vật thể tác động
vào không gian tâm tưởng, hoặc là không gian tâm tưởng chi phối tới
không gian vật thể. Nói như Nguyễn Du thì “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
- Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Thứ ba, không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mô
hình hóa các mối liên hệ của bức tranh thế giới như thời gian, xã hội, đạo đức,
tôn ti trật tự. Không gian nghệ thuật có thể mang tính địa điểm, tính phân giới,
tính cản trở,... Thế giới không gian nghệ thuật có thể chia thành các tiểu không
gian, giữa các tiểu không gian có các đường ranh giới có thể vượt qua hoặc
không thể vượt qua. Đó có thể là không gian điểm, không gian tuyến hoặc không
gian mặt phang. Không gian trong văn học được biếu thị qua các “không gian
điểm” mang tính ước lệ, tượng trưng (Ôlimpơ, Tây Trúc, Thiên đình, làng quê,
địa ngục,...); bằng các từ không gian vốn đã mã hóa sẵn về ý nghĩa trong đời
7
sống (cao, thấp, dài, ngắn, tối, sáng,...). Không gian nghệ thuật tập trung vào cái
nhìn, điểm nhìn không gian (xa, gần, cao, thấp,...); điểm nhìn tâm lí, tư tưởng
(nhớ lại, dạo ấy,...). Không gian có thể thể hiện qua kết cấu, sự phân giới nội tại
của tác phẩm, sự liên kết các không gian, mức độ tính liên tục, rời rạc,...
Thứ tư, không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại
của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm
về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai đoạn văn học. Nó
cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu
loại hình của các hình tượng nghệ thuật.
Tóm lại, không gian nghệ thuật không phải là không gian vật lí mà là
hình tượng không gian, là hình thức tồn tại của hình tượng con người trong
thế giới nghệ thuật. Nó là mô hình nghệ thuật về cái thế giới mà con người
đang sống, đang cảm thấy vị trí và số phận của mình. GS. Trần Đình Sử đã
khẳng định: “Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm
biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống, do đó
không thể quy nó về sự phản ánh giản đơn không gian địa lí hay không gian
vật lí, vật chất” [18, 108]. Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của sự
sống con người, gắn liền với ý niệm về giá trị và sự cảm nhận về giới hạn giá
trị của con người. Không gian nghệ thuật gắn liền với quan niệm về con người
và góp phần biểu hiện cho quan niệm ấy.
Việc tìm hiểu không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có vai trò
đặc biệt quan trọng. Nó cho phép khám phá phong cách và cá tính sáng tạo
của người nghệ sĩ một cách khoa học, từ đó khẳng định ý nghĩa và giá trị mà
tác phẩm đem lại cho bạn đọc.
1.1.2. Các hình thức không gian nghệ thuật trong văn học
Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, không gian nghệ thuật trong văn
học đã tồn tại qua nhiều hình thức, từ nền văn học sơ khai cho đến một nền
văn học cận hiện đại về sau.
8
1.1.2.
ì. Không gian nghệ thuật trong văn học dân gian và văn học
trung đại
•
Trước hết, trong truyện thần thoại, không gian có tính chất đặc thù,
đó là tính nguyên sơ, hoang dã của nơi xuất phát đầu tiên của các sự kiện.
Đồng thời nó còn có tính chất khác là phân biệt linh và phàm, gắn liền với ý
thức tôn giáo. Ngoài ra, đặc điếm thường thấy của không gian thần thoại là
tính chất hư ảo. Không gian còn mang tính quy ước, khuôn mẫu: trời tròn, đất
vuông; trời đất chia làm bốn phương (Đông, Tây, Nam, Bắc),...
•
Không gian sử thi có nền tảng là không gian thần thoại, đó là không
gian có tính chất hư ảo, diệu kì, không gian thay đổi theo ý thức của thần linh.
Nhưng mặt khác, không gian sử thi còn mang tính địa ngục. Trong nhiều sử
thi có màu sắc tôn giáo, không gian nghệ thuật có ba tầng: thượng giới, trần
gian và địa ngục, có chiều tâm linh hướng vào thế giới siêu hình ở phía bên
kia thực tại.
•
Không gian trong truyện cố tích có đặc trung cơ bản là “tính siêu
dẫn”. Không gian ít chịu sự cản trở của môi trường vật chất mà được mở rộng
đến vô hạn nhưng luôn luôn gắn với hành động của con người. Hành động tới
đâu, không gian mở ra tới đó, nhưng không gian này không có quan hệ với
không gian thực tại, mà đó là một không gian khép kín. Nói khác đi, đó là
miền không gian của mơ ước.
Không gian truyện cố tích có tính chất ngược với không gian tiếu thuyết.
Neu tiểu thuyết trong mỗi bước đi đều gây khó khăn cho nhân vật, đòi hỏi nhân
vật phải vượt qua trở ngại, bộc lộ cá tính thì truyện cổ tích ngược lại, luôn có xu
hướng ủng hộ, tạo thuận lợi cho con người. Đặc điểm này làm cho nhân vật
chính diện luôn nhận được sự trợ giúp để vượt qua những khó khăn, trở ngại.
• Sự thể hiện của không gian nghệ thuật trong văn học viết trung đại
lại vô cùng đa dạng. Tuy nhiên, do cùng hệ quy chiếu là một thế giới quan
9
(ảnh hưởng của học thuyết Nho, Phật, Lão; bị chi phối bởi nền kinh tế nông
nghiệp chậm phát triển) mà không gian nghệ thuật có nét thống nhất.
Không gian trong văn học trung đại là mô hình của “không gian vũ trụ”,
không gian mang tính bất biến, mang đậm dấu ấn chủ quan vì xây dựng
không gian theo cách lấy con người cảm thụ là trung tâm. Con người trung
đại luôn ý thức về vị trí của mình giữa không gian, tự cảm nhận mình như
một khách thể trong vũ trụ, nhìn mình từ bên ngoài, trên cao hoặc ngoài
xa,... Văn học trung đại cũng xây dựng những không gian đối lập để tạo ấn
tượng cảm xúc đặc biệt (thanh cao - phàm tục, cố hương - tha hương,...).
Không gian có tầng thứ, lớp lang. Theo thời gian, không gian vũ trụ có sự
thay đổi về đặc tính (từ hư vô, thoát tục đến trần tục, thế tục). Sự biến đổi
về mô hình không gian nghệ thuật gắn liền với sư thay đổi xã hội, sự tự ý
thức của con người và tư duy nghệ thuật trong văn học.
Như vậy, tuy có những đặc trưng khác nhau nhưng không gian nghệ
thuật trong các thể loại văn học dân gian và ở văn học trung đại đã biểu hiện
một số những nét chung: không gian thường mang tính khép kín, khuôn gọn
trong tác phẩm; không gian mang tính quy ước, khuôn mẫu, gắn liền với ý
thức tôn giáo, với quan niệm chủ quan của con người. Không gian chưa thể
hiện tính độc lập riêng mà thường gắn liền với hành động, tư duy của nhân
vật, lấy nhân vật làm trung tâm. Vì vậy, nó phải phục tùng hành động (hành
động tới đâu, không gian mở ra tới đó); bị chi phối bởi nhận thức, tư duy
(hướng về vũ trụ, tâm linh, có tính bất biến).
1.1.2.2. Không gian nghệ thuật trong văn học cận hiện đại
Do sự thay đối trong quan niệm về xã hội, cá nhân, hoạt động của con
người mà không gian trong văn học cận hiện đại có những điểm khác biệt so
với không gian trong văn học dân gian và văn học trung đại.
Sự thay đổi đó được thể hiện khá rõ nét trước hết ở văn học châu Âu.
G. p .Macôganencô - nhà nghiên cứu văn học Nga nhận định: “Ở văn học Tây
Âu từ thế kỉ XVIII, không gian bên trong tác phẩm văn học có chức năng
10
mới” [18, 119]. Trong Tấn trò đời, Balzac xem xã hội như cái biển lớn, như
một vực sâu đầy bí ẩn. Môi trường sống (không gian nhỏ) thấm nhuần đặc
điểm cá tính nhân vật.
Ở Việt Nam, từ thế kỉ X - XII xuất hiện những truyện văn xuôi viết
dưới dạng các thần phả. Thế kỉ XV - XVIII mới có những truyện viết về đời
tư của những con người bình thường, nhất là những người phụ nữ. Đen khi
Hoàng Lê nhất thong chí ra đời mới có quy mô tiểu thuyết. Không gian trong
Hoàng Lê nhất thống chí bao quát về cuộc sống nhiều mặt nhưng chủ yếu đó
là không gian mang tính chất sử thi vì gắn liền với sự hưng vong của triều đại,
đất nước. Phải sang đến giai đoạn văn học từ đầu thế kỉ XX - năm 1945, nhất
là với dòng tiếu thuyết hiện thực phê phán 1930 - 1945, văn học Việt Nam
mới có những tiểu thuyết hiện đại. Những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan,
Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao,... đã thực sự thế hiện cái nhìn
cuộc sống từ góc độ đời tư. Không gian lịch sử xã hội và không gian sinh hoạt
đời tư được xây dựng trong mối quan hệ khăng khít với nhau.
Như vậy, không gian nghệ thuật là hình thức thế hiện quan niệm về thế
giới và con người. Theo sự chảy trôi của dòng thời gian và sự phát triến của lịch
sử, khi con người có nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về xã hội, quan niệm về thế
giới và bản thân trở nên phức tạp hơn, toàn vẹn hơn thì việc tổ chức không gian
nghệ thuật trong tác phấm cũng có sự biến đổi cả về quy mô và tính chất.
Bỉ vỏ của Nguyên Hồng là cuốn tiểu thuyết ra đời vào giai đoạn văn
học hiện đại Việt Nam đã đạt đến độ trưởng thành về nhiều mặt. Bởi vậy, việc
tổ chức không gian nghệ thuật trong tác phẩm cũng rất đa dạng, thể hiện sâu
sắc nội dung tư tưởng, chủ đề tác phấm.
1.2. Tác giả Nguyên Hồng và tiểu thuyết B ỉ vỏ
1.2.1. Tấc giả Nguyên Hằng
Nhà văn Nguyên Hồng, tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng. Ông sinh
ngày 5/11/1918 tại thành phố Nam Định, mất ngày 2/5/1982 tại tỉnh Bắc
11
Giang. Xuất thân từ một gia đình viên chức sa sút rồi rơi xuống tầng lóp dân
nghèo; cha mất sớm, mẹ đi bước nữa, ông phải sống nhờ một bà cô cay
nghiệt. Khi mẹ ông trở về, hai mẹ con rời quê tới sinh sống trong một xóm
nghèo ở Hải Phòng (xóm cấm). Tại đây, cuộc sống của ông gắn liền với tầng
lóp người dân bần cùng trong xã hội và từ đó hình ảnh của họ đã xuất hiện
trong nhiều tác phẩm của ông.
Với hon bốn mươi năm cầm bút, Nguyên Hồng đã để lại cho văn học
nước nhà hàng vạn trang sách, với số lượng gần 40 tác phẩm, có đủ các thể
loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, thơ, kịch,... trong đó nhiều tác phẩm có
giá trị lâu dài cho nền văn học dân tộc mà tiểu thuyết Bỉ vỏ là tiêu biểu.
Khác với nhiều cây bút cùng thời, ngay từ tác phấm đầu tay, Nguyên
Hồng đã chọn cho mình con đường của chủ nghĩa nhân đạo, hướng về những
lớp người cùng khố nhất trong xã hội cũ. Mục đích cầm bút của ông trước hết
không phải để làm văn chương mà để nói lên một cách tha thiết nhất, sâu sắc
nhất những nỗi thống khổ của loài người. Trong xã hội cũ nghèo đói, bất
công, cố hủ và định kiến, Nguyên Hồng nhận thấy không ai khố hơn những
người phụ nữ. Theo ông, họ là nô lệ của nô lệ - nô lệ ngoài xã hội và nô lệ
trong gia đình. Chính vì vậy, người phụ nữ lao động nghèo khổ luôn là nhân
vật tiêu biểu nhất của tiểu thuyết Nguyên Hồng trước Cách mạng.
Văn Nguyên Hồng là thứ văn bám riết lấy cuộc sống, quấn quýt lấy
cuộc sống; một thứ văn sôi nổi, hăm hở, tràn đầy chất thơ trữ tình lãng mạn.
Xuân Diệu có lần từng nhận định Nguyên Hồng là nhà văn có năng khiếu lớn.
Dường như ông cứ đặt bút xuống là cuộc sống tự nó đã đổ tràn trên mặt giấy
với những chi tiết sinh động, “ngồn ngộn”, “phập phồng tươi rói”. Ông viết
tiểu thuyết bằng trái tim hơn là bằng lí trí. Trong khi phơi bày tình cảnh cực
khố thê thảm của những hạng người bị coi là cặn bã xã hội ấy, Nguyên Hồng
đã dành cho họ một tấm lòng yêu thương thắm thiết, từ đó bênh vực và khẳng
định phẩm chất tinh thần của họ. Ông là người cảm thông sâu sắc và có quan
12
điểm tiến bộ trong việc thế hiện nỗi đau khổ và những khát vọng tình cảm
chính đáng của người lao động, đặc biệt là người phụ nữ. Sự nghiệp văn học
của Nguyên Hồng là một đóng góp lớn của nhà văn đối với đất nước nói
chung và nền văn học hiện đại nước nhà nói riêng.
1.2.2. Tiểu thuyết B í vỏ
Bỉ vỏ là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyên Hồng và là một trong
những sáng tác tiêu biểu nhất của nhàvăn. Tác phẩm được viết năm 1936, khi
ông mới 16 tuổi, đang chập chững những bước đi đầu tiên trên con đường nghệ
thuật. Ngay sau đó, Bỉ vỏ được in báo, được nhận giải thưởng của Tự lực văn
đoàn. Điều đó chứng tỏ giá trị không nhỏ mà tác phẩm đem lại cho bạn đọc
thời ấy và giờ đây càng được khắng định chắc chắn. Tác phẩm là “cuốn tiếu
thuyết về đời trụy lạc của bọn ăn cắp, nhưng có một tâm lí nửa tình cảm, nửa
xã hội, làm cho người đọc phải suy nghĩ và cảm động” [15,1048]. Qua cuộc đời
chìm nổi éo le của Tám Bính, một cô gái thôn quê thật thà, hướng thiện, giàu
tình yêu thương và đức hi sinh, tác giả đã phơi bày bộ mặt bất công của trật tự
xã hội đương thời. Từ bọn cường hào với những thành kiến, hủ tục nặng nề ở
nông thôn cho đến bọn nhà giàu ở thành thị bề ngoài lịch sự mà bụng dạ bấn
thỉu; bọn ma cô, trùm nhà thổ chuyên buôn thịt bán người; bọn cảnh sát, mật
thám, quan tòa vô lương tâm,... tất cả đều được nhà văn phản ánh rõ nét trong
tác phẩm. Hoàn cảnh sống ấy là những nguyên nhân xa gần đấy nhân vật từ
một cô gái thôn quê trong trắng đến con đường lưu manh, trụy lạc. Không chỉ
vẽ lại hiện thực một cách khách quan, ngòi bút Nguyên Hồng còn biết khơi sâu
vào thế giới bên trong tâm hồn nhân vật, phát hiện ra vẻ đẹp bản chất của tâm
hồn họ ngay cả khi họ bị đấy vào giữa vũng bùn tội lỗi.
Một trong những khía cạnh quan trọng của tác phẩm được nhà văn kì
công tạo dựng là không gian nghệ thuật. Tìm hiểu không gian nghệ thuật của
Bi vỏ chính là một trong những chìa khóa giúp giải mã thành công tác phấm
và qua đó nhận thức được phong cách sáng tạo của nhà văn.
13
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TIÉƯ THUYẾT BỈ VỎ CỦA NGUYÊN HÒNG
2.1. Không gian xã hội
Trong cuốn Những vấn đề thi pháp của truyện, nhà nghiên cứu Nguyễn
Thái Hòa cho rằng: Không gian bối cảnh là “môi trường hoạt động của nhân
vật, một địa điểm có tên riêng hay không có tên riêng, trong đó có đủ cả thiên
nhiên, xã hội, con người. Nó là điều kiện cần thiết cho mọi sự kiện, mọi hoạt
động, mọi phạm vi thế giới không thể thiếu... Bối cảnh xã hội bao gồm cuộc
sống của những tầng lớp người và cá nhân này với cá nhân khác. Có khi đó là
những tập quán, phong tục, luật lệ ở một địa phương; có khi là những quan hệ
“có vấn đề” giữa cá nhân này với cá nhân khác hoặc được biểu hiện cụ thể,
hoặc được che giấu kín đáo” [6, 88 - 89]. Nó làm thành một thứ không khí
nuôi dưỡng và thúc đẩy cá nhân phát triển dưới tác động của các chuỗi sự
kiện theo luật nhân quả. Cơ sở lí luận này là căn cứ để người viết khóa luận
triển khai không gian bối cảnh xã hội của tác phẩm Bỉ vỏ thành hai tiểu không
gian: Không gian làng quê và Không gian thành thị.
Ngay từ thế kỉ XIX, tiểu thuyết đã được coi là hình thái chủ yếu của
nghệ thuật ngôn từ. Trải qua một thời gian dài, thể loại này vẫn giữ một vị
trí quan trọng trong đời sống văn học của một dân tộc cũng như toàn nhân
loại. Là một hình thức tự sự cỡ lớn, tiểu thuyết có khả năng tái hiện bức
tranh đời sống với một qui mô lớn ở mọi cấp độ, vô cùng phong phú và đa
dạng cả ở bề rộng và chiều sâu. Đây cũng là thể loại phát triển mạnh trong
dòng văn học hiện thực vốn có tham vọng phản ánh cuộc sống vô cùng sâu
rộng. Vì thế không phải ngẫu nhiên mà các tác phẩm tiêu biểu của chủ nghĩa
hiện thực thường là tiểu thuyết. So với tiểu thuyết lãng mạn, tiểu thuyết hiện
thực quan tâm nhiều hơn đến số phận con người trong những tầng lớp khác
nhau, những cảnh sống khác nhau và đặc biệt quan tâm tới sự đổi thay của
14
con người theo hoàn cảnh. Nếu văn học lãng mạn quan tâm tới con người cá
nhân thì văn học hiện thực lại quan tâm tới con người xã hội, đặc biệt là mối
quan hệ của con người với môi trường, hoàn cảnh. Xuất phát từ mối quan
tâm về con người ở các bình diện khác nhau nên không gian nghệ thuật
trong tiểu thuyết của hai trào lưu này cũng rất khác nhau. Neu không gian
trong tiếu thuyết lãng mạn chỉ bó hẹp trong khung cảnh gia đình, đời tư thì
không gian trong tiểu thuyết hiện thực mở rộng ra trên bình diện xã hội. Từ
không gian bối cảnh mang tính vĩ mô đến không gian cụ thể nơi nhân vật
sống, hành động và nhận thức, qua đó người đọc thấy được khả năng bao
quát xã hội của các nhà văn hiện thực Việt Nam.
Neu một số tiểu thuyết cùng thời với Bỉ vỏ như Những cảnh khốn nạn,
Bưởcđường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tất Tố,... chỉ đề
cập đến một khía cạnh, chọn một vấn đề nào đó của hiện thực đời sống hoặc
nông thôn hoặc thành thị để phản ánh hiện thực một cách tập trung thì Bỉ vỏ
của Nguyên Hồng lại khác. Không gian nghệ thuật trong tác phấm này đã có
xu hướng mở rộng hơn so với các tiểu thuyết hiện thực của các nhà văn trước
đó. Nhân vật không chỉ sinh sống, hoạt động và nhận thức trong một không
gian sống nhất định mà nhà văn còn đưa bước chân nhân vật vào nhiều không
gian sống khác nhau, qua đó bộc lộ rõ tính cách, tư tưởng, số phận nhân vật.
2.1.1.
Không gian làng quê tù túng, chật hẹp vói nhũng hủ tục, định kiến
lạc hậu
Trong mối tương quan với các thể loại khác, tiếu thuyết nối bật lên ở
tính chất gần gũi với đời sống và ở khả năng nhận thức, phản ánh hiện thực
một cách sinh động, toàn vẹn. Là một thế loại tiêu biếu cho phương thức tự sự
nên tiểu thuyết có khả năng bao quát hiện thực trên cả chiều rộng không gian
và chiều dài thời gian. Vì thế, có những tác phẩm được coi là cuốn bách khoa
toàn thư về đời sống bởi hiện thực được phản ánh trong đó vô cùng rộng lớn,
15
- Xem thêm -