TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ THU LAN
GIỌNG ĐIỆU THƠ LƯU QUANG vũ
TRONG TUYỂN TẬP GIÓ VÀ TÌNH YÊU
THÔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
• •
• •
Chuyên ngành: Lí luận văn học
HÀ NỘI - 2015
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với Thạc sĩ Nguyễn Thị Vân
Anh, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Lí luận văn học khoa Ngữ
Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
LỜI CẢM ƠN
Tôi cũng xin gửi tới người thân, gia đình, bạn bè, những người đã luôn động viên giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu lời cảm ơn sâu sắc.
Vì điều kiện thời gian có hạn nên đề tài không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tôi rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để khóa luận hoàn thiện hơn.
Tôi xỉn chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015 Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Lan
Tôi xin cam đoan khóa luận “Giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ trong tuyến tập Gió và
tình yêu thổi trên đất nước tôi ” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn
khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Thị Vân Anh. Khóa luận không sao chép từ một tài liệu có
sẵn nào. Neu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015 Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Lan
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞĐẰU..........................................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................................................5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................................................5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................................................5
6. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................................................5
7. Đóng góp của khóa luận................................................................................................................6
8. Bố cục khóa luận............................................................................................................................6
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................................7
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VÈ GIỌNG ĐIỆU.....................................................................7
1.1.Khái niệm giọng điệu....................................................................................................................7
1.2.Vai trò của giọng điệu................................................................................................................10
CHƯƠNG 2. GIỌNG ĐIỆU THƠ LƯU QUANG vũ TRƯỚC NĂM 1975................13
2.1.Cơ sở hình thành giọng điệu......................................................................................................13
2.1.1.
Bối cảnh lịch sử, văn hóa - xã hội............................................................................... 13
2.1.2.
Yeu tố gia đình, quê hương và
nhữngkỉ niệm tuổi học trò.................................14
2.2.Một số giọng điệu chủ đạo trongcác sáng tác trước năm
1975...............................15
2.2.1.
Giọng đắm đuối đến mê hoặc.........................................................................................15
2.2.2.
Giọng tâm tình, ngợi ca..................................................................................................22
2.2.3.
Giọng lạc quan tin tưởng..............................................................................26
2.2.4.
Giọng cô đơn, khắc khoải...............................................................................................27
2.2.5.
Giọng đượm buồn, xót xa, cay đắng.............................................................................29
CHƯƠNG 3. GIỌNG ĐIỆU THƠ LƯU QUANG vũ SAU NĂM 1975.........................41
3.1.Cơ sở hình thành giọng điệu......................................................................................................41
3.1.1.
Bối cảnh lịch sử, văn hóa - xã hội ...............................................................................41
3.1.2.
Yeu tố đời tư của nhà thơ...............................................................................................41
3.2.Một số giọng điệu chủ đạo trong các sáng tác sau năm 1975 .............................43
3.2.1.......................................................................................................................................Gi
ọng trăn trở, xót xa......................................................................................................43
3.2.2.......................................................................................................................................Gi
ọng suy tư, chiêm nghiệm triết lí..............................................................................45
3.2.3.......................................................................................................................................Gi
ọng dịu dàng, đằm thắm..............................................................................................49
PHẢN KÉT LUẬN......................................................................................................................55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ
thể sáng tạo. Nó cũng là một nhân tố cốt yếu trong cấu trúc hình thức nghệ
thuật của tác phẩm văn học. Nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật của nhà thơ
sẽ giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn thế giới tâm trạng, cảm xúc của chủ
thể trữ tình và đặc biệt là thấy được cá tính sáng tạo, phong cách nghệ
thuật của mỗi nhà văn.
1.2. Từ trước đến nay, nhắc đến Lưu Quang Vũ là ta biết đến một
kịch gia nối tiếng của sân khấu kịch nói Việt Nam. Ông đế lại hơn 50 vở
kịch và được đánh giá là “nhà viết kịch lớn nhất thế kỉ này của Việt Nam”
(thế kỉ XX - Phan Ngọc), là “Moliere ở Việt Nam”. Với tư cách là một kịch
gia, Lưu Quang Vũ đã khầng định được vị trí và sự ảnh hưởng mạnh mẽ
của mình trên “địa hạt sân khấu” hiện đại Việt Nam. Song, ít ai biết rằng
thơ mới chính là lĩnh vực, là mien sâu tham, là tâm hồn và là đời sống của
Lưu Quang Vũ. Thơ ông thể hiện khát vọng được bày tỏ tâm hồn mình với
thế giới xung quanh, được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống,
được trao gửi và dâng hiến. Hay nói như là nhà thơ Vũ Quần Phương,
người thơ cùng thế hệ với Lưu Quang Vũ: “Có cảm giác anh viết kịch để
sống với mọi người và làm thơ để sống với riêng mình... Tôi thấy thơ mới
là nơi anh kí thác nhiều nhất và tôi tin nhiều bài thơ của anh sẽ thắng được
thời gian” và “về lâu dài, sự đóng góp của Lưu Quang Vũ với thơ ca còn
lớn hơn về kịch”.
Sau khi Lưu Quang Vũ qua đời, các tập thơ của ông đã lần lượt được giới thiệu
và xuất bản. Đen năm 2010, tuyển tập thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của
Lưu Quang Vũ được Nxb. Hội Nhà văn ra mắt bạn đọc. Ngay sau đó tập thơ đã được
Hội Nhà văn Hà Nội trao giải “Thành tựu trọn đời về thơ”. Cuốn sách tập hợp 137 thi
phẩm của Lưu Quang Vũ, trong đó có cả những tác phẩm chưa từng được công bố của
ông. Lần đầu tiên, bạn đọc được nhận diện một cách đầy đủ và trọn vẹn về thơ Lưu
6
Quang Vũ cả về số lượng lẫn chất lượng. Những cảm xúc nồng nàn được thể hiện bởi
nghệ thuật tài hoa khiến thơ Lưu Quang Vũ tạo được ấn tượng sâu đậm trong lòng độc
giả.
1.3. Tiếp cận tập thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi từ góc
nhìn giọng điệu chúng tôi muốn góp thêm một cái nhìn tương đối hệ thống
về gương mặt thơ độc đáo này. Qua đó, thấy được, bên cạnh một nhà soạn
kịch tài năng còn có một nhà thơ tài hoa Lưu Quang Vũ. Thực tế cho thấy,
hiện nay thơ Lưu Quang Vũ chỉ mới được một số người biết đến và chưa
được dạy ở các cấp học, bậc học. Do đó, lựa chọn đề tài này, cũng là cách
chúng tôi tạo ra sợi dây đồng cảm, yêu thích và trân trọng di sản thơ Lưu
Quang Vũ ở nhiều bạn đọc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thi đàn Việt Nam, Lưu Quang Vũ xuất hện với một phong cách thơ đôn
hậu, hiền hòa và thiết tha tình nghĩa. Chính vì thế, thơ ông dễ đi vào lòng người, gây
được cảm tình với độc giả. Với Lưu Quang Vũ, thơ luôn là một phần của tâm hồn, của
cuộc đời và lẽ sống. Nhưng, so với kịch, thơ Lưu Quang Vũ lại chịu sự thách thức và
sàng lọc kĩ lưỡng của thời gian. Trong khoảng thời gian dài, độc giả dường như đã
quên thơ Lưu Quang Vũ bởi sự ra đời rầm rộ hơn 50 vở kịch của ông. Và phải đến khi
Lưu Quang Vũ qua đời, nhất là sau khi tập thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi
nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội thì việc đánh giá, ghi nhận về vai trò, vị trí
của thơ Lưu Quang Vũ trong đời sống văn học nước nhà sôi động và tích cực hơn
nhiều.
Điểm lại các bài phê bình, giới thiệu, nghiên cứu về thơ Lưu Quang Vũ chúng
ta có thế tổng kết những nội dung sau:
2.1. Một số bài nghiên cứu khẳng định Lưu Quang Vũ trước hết và
trên hết là một nhà thơ tài hoa.
Đầu tiên phải kể đến ý kiến của Hoài Thanh, trong bài viết Một cây bút có
nhiều triển vọng đã đánh giá những vần thơ của Lưu Quang Vũ: “nó là vàng thật, đúng
7
nó là thơ”; “Lưu Quang Vũ có nhiều câu nhiều đoạn đúng là thơ, lại có một bài thơ rất
hay. Năng khiếu của anh đã rõ. Miễn anh đi đúng nhất định anh sẽ đi xa”.
PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thái trong bài viết Thơ tình Lưu Quang Vũ thì cho
rằng: “Trong tính cách sáng tạo của con người tài hoa trẻ trung Lưu Quang Vũ thì thơ
là hồn cốt nhân hậu nhất” [10, tr. 92], và “Đi suốt chiều dài đời thơ Lưu Quang Vũ, tôi
có cảm giác như đi vào một kho báu. Ở những câu thơ ta nhặt vô tình nhất cũng óng
ánh một vẻ đẹp riêng, không hiểu sao chỉ có ở thơ Lưu Quang Vũ - một vẻ đẹp trong
vắt của thi ca” [10, tr. 95].
Vũ Quần Phương trong bài Đọc thơ Lưu Quang Vũ đã nhận thấy: “Đọc hết các
bản thảo anh để lại, tôi thấy thơ mới là nơi anh kí thác nhiều nhất và tôi tin nhiều bài
thơ của anh sẽ thắng được thời gian”; “Tôi thấy trước sau cốt cách thi sĩ vẫn là nét trội
nhất trong tâm hồn của anh. Tôi trộm nghĩ, về lâu dài sự đóng góp của Lưu Quang Vũ
về thơ còn lớn hơn về kịch” [10, tr. 33].
Tác giả Anh Ngọc cũng cho rằng, chỉ chiếm phân nửa trong tập Hương cây Вер lửa cũng đủ đế Lưu Quang Vũ: “Có một vị trí vững vàng, bởi một hồn thơ dào dạt,
một tài thơ sắc sảo với vẻ hồn nhiên đến như là ngẫu hứng, với một mạch nguồn hình
ảnh và từ ngữ đầy trục cảm và đột biến tuôn ra dường như bất tận” [10, tr. 109].
Chân dung và tài năng thi ca của Lưu Quang Vũ còn được khẳng định trong
cuốn tiếu luận Những gương mặt tiêu biếu của thi ca Việt Nam (2006) của Kiều Văn.
Đọc thơ Lưu Quang Vũ, Kiều Văn phải “bàng hoàng và kính phục” khi nhận ra trong
đó chân dung của “một nhà thơ giàu tư tưởng và có một tầm tư duy rất cao, trước
những tình cảm sâu sắc và rộng lạ thường, trước một chất người hết sức tinh túy và
cao quý, và trước một nghệ thuật thơ chân chất nhưng thượng thăng” [17, tr. 389].
Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra được những đóng góp “sáng giá” của Lưu Quang Vũ cho
đất nước, cho văn học.
Như vậy qua những đánh giá cảm nhận ở trên, ta thấy các nhà nghiên cứu đã
khẳng định Lưu Quang Vũ trước hết và trên hết là một nhà thơ tài hoa.
2.2. Trong những bài nghiên cứu, phê bình cũng đã đi sâu vào tìm
hiểu cách thức thể hiện trong thơ Lưu Quang Vũ.
8
-
Một yếu tố được các nhà phê bình rất chú ý đó là những biểu
tượng của thế giới nghệ thuật trong thơ Lưu Quang Vũ. Trong bài viết Lưu
Qung Vũ tâm hồn trở gió in trên Tạp chí nghiên cứu văn học, tác giả Phạm
Xuân Nguyên đã phát hiện “gió” là một biểu tượng, tượng trưng cho toàn bộ
thế giới thơ Lưu Quang Vũ, làm nên bản sắc riêng của thế giới nghệ thuật ấy.
Tác giả đã có những phát biểu sâu sắc về sức sáng tạo của Lưu Quang Vũ qua
những câu thơ “nổi gió” của ông và khẳng định: “Đời anh là gió, thơ anh là
mây. Gió thổi mát và mây che mát. Mây cho gió dừng chân và gió cho mây bay
bổng. Gió và mây hợp lại có thế làm mưa, mưa tưới nhuần mặt đất. Gió lòng
anh thổi tới lòng ta” [7, tr. 34].
Vương Trí Nhàn lại khám phá một biêu tượng khác: “mưa” - biêu tượng này
thường gắn với rất nhiều bài thơ tài hoa của Lưu Quang Vũ: “Trong các thi sĩ đương
thời, Vũ là người nhạy cảm với mưa, thân thuộc với mưa hơn ai hết”. “Ở anh, mưa cho
thấy sự trôi chảy của thời gian mà con người thấy bất lực, không sao níu kéo nổi. Mưa
làm cho hiện tại trở nên vô nghĩa và tương lai trở nên lờ mờ không xác định” [8, tr.
69].
Còn trong bài viết Nôi lao lung của một hồn thơ mới bước vào đời, Phan Trọng
Thưởng chú ý den biểu tượng “bầy ong” như hình bóng của tác giả: “Hình như anh
cảm thấy sự đồng than, đồng phận nào đó giữa mình với con ong: sự cần mẫn, ý thức
chắt chiu, tìm kiếm, nhở nhoi giản dị” [16].
-
Yeu tố thứ hai về cách thức biểu hiện trong thơ Lưu Quang Vũ
được nói đến khá nhiều là giọng điệu.
Hoài Thanh đã nhận thấy “Câu thơ Lưu Quang Vũ thường ngọt ngào hiền hậu”.
Trong bài viết Lưu Quang Vũ, hồn thơ đắm đuối, Vũ Quần Phương đã chỉ ra ở Lưu
Quang Vũ một “giọng thơ đến đắm đuối” và khẳng định: “Đắm đuối là bản sắc cảm
xúc của Lưu Quang Vũ”, “Tìm ra những yếu tố cấu thành cái chất đắm đuối này cũng
là cách tìm ra bản chất thi pháp Lưu Quang Vũ” [19, tr. 357]. Lưu Khánh Thơ, Bích
Thu cũng dùng từ “đắm đuối” để nói về giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ. Đe cập đến vấn
đề này, Bích Thu trong bài Những bài thơ sổng với thời gian đã có nhận xét: “Thơ của
9
Vũ lôi cuốn người đọc không chỉ ở sự trau chuốt lời lẽ, ngôn từ với những kĩ xảo ngón
nghề mà chính ở hồn thơ đắm đuối chân thành giản dị mà nồng nàn da diết” [10, tr.
101]. Lê Đình Kỵ trong bài viết Hương cây - Вер lửa - Đất nước đời ta đã nêu ý kiến
“Thơ Lưu Quang Vũ có một điệu tâm hồn riêng và không thể thiếu tâm tình” [10, tr.
29].
Như vậy, có thế thấy, qua những bài viết về thơ Lưu Quang Vũ, các nhà nghiên
cứu đã phát hiện ra những nét đặc sắc khác nhau trong thơ của ông. Chúng ta có thể
thấy đã có một số bài viết nghiên cứu thơ ông dưới góc độ giọng điệu nhưng chưa phải
là nhiều. Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiếu thơ Lưu Quang Vũ, chúng tôi nhận thấy
vấn đề về giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ còn nhiều vấn đề chưa được triên khai, làm
rõ. Trong phạm vi khóa luận tôt nghiệp này, chúng tôi mong muốn tìm hiếu những đặc
trưng giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ đế thấy được những nét riêng trong thơ ông, từ đó
khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của Lưu Quang Vũ trên thi đàn.
3. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lí thuyết về giọng điệu để tiếp cận thơ Lưu Quang Vũ nhằm thấy
được đặc điểm cũng như những biểu hiện phong phú về phương diện giọng điệu thơ
Lưu Quang Vũ qua tuyển tập Gió và tình yêu thoi trên đất nước tôi.
Góp phần làm sáng tỏ phong cách thơ Lưu Quang Vũ và chỉ ra những đóng góp
của tác giả đối với nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận trình bày những vấn đề lí thuyết về giọng điệu.
Chỉ ra những đặc sắc, độc đáo trong giọng điệu tập thơ Gió và tình yêu thổi
trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ để thấy được sự đóng góp của một gương mặt thơ
rất riêng, giàu cá tính.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ trong tuyến tập Gió và tình yêu thổi
trên đất nước tôi”, chúng tôi xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
như sau:
1
0
Đối tượng nghiên cứu: Yeu tố giọng điệu trong tập thơ Gió và tình yêu thoi
trên đất nước tôi.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung khảo sát 137 bài thơ được in trong tuyển tập
Gió và tình yêu thôi trên đất nước tôi.
6. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận phối hợp vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu
sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp hệ thống
Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp phân tích văn học
7. Đóng góp của khóa luận
Trên cơ sở, phát hiện được giọng điệu chủ âm và các sắc giọng phong phú khác
trong thơ Lưu Quang Vũ, khóa luận một mặt cho thấy những nét độc đáo trong tư duy
nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Mặt khác, cũng góp một tiếng nói khẳng định và ghi
nhận Lưu Quang Vũ ở một tầm cao mới, xứng đáng hơn trên bình diện thơ ca chứ
không dừng lại ở một cây bút thơ được mọi người biết đến.
8. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Ket luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của khóa luận
được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát về giọng điệu
Chương 2: Giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ trước năm 1975
Chương 3: Giọng điệu thơ Lưu Quang Vũ sau năm 1975
PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VÈ GIỌNG ĐIỆU
1.1.Khái niệm giọng điệu
Từ trước tới nay trong văn học, chúng ta thường bắt gặp khái niệm “hơi văn”,
“khí văn”, hay “tone”. Đó đều là những cách gọi khác nhau của giọng điệu. Với tư
cách là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, giọng điệu đâ thu hút được sự
1
1
quan tâm của giới phê bình nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã nhận
ra vai trò quan trọng của giọng điệu nghệ thuật trong việc khắng định tài năng, phong
cách người nghệ sĩ. Trong Những vẩn đề thi pháp học hiện đại giáo sư Trần Đình Sử
khắng định: “Phân tích tác phẩm văn học mà bỏ qua giọng điệu tức là tước đi cái phần
quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo của nhà văn”. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến
lại cho rằng: “Câu văn có hồn là câu văn có giọng, ngữ điệu, bởi vì từ ngữ của bài văn
được chọn có thông báo nhiều điều quan trọng nhưng bài văn không có giọng điệu đọc
lên vẫn nhạt nhẽo vô vị. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước
hết là ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được chúng cái
giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phâm mình”.
Cho đến nay, mặc dù đã xuất hiện không ít các công trình nghiên cứu, nhưng
giọng điệu vẫn là một khái niệm cần tìm hiểu để được lập luận một cách chặt chẽ hơn.
Nói một cách khác, khái niệm này dường như vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Vì
vậy, chúng ta vẫn thấy một sự thật, đó là giữa các nhà nghiên cứu vẫn chưa có sự
thống nhất cao về khái niệm này.
Theo nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc trong Bách khoa thư Mỹ có định nghĩa: “Tone
là âm thanh được xét trong sự can thiệp của trường độ, cường độ, âm sắc và âm lượng
của nó”. Đây chính là cách quan niệm về giọng điệu trên lập trường của ngôn ngữ học.
M.H. Abrams trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra nhận định về “tone”:
“tone” có nghĩa “là thái độ của người phát ngôn văn học đối với người nghe của anh
ta” [1].
1
2
M.B. Khrapchenco trong Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triến của văn
học, khi bàn về giọng điệu nghệ thuật lại cắt nghĩa theo một phạm vi hết sức rộng:
“Giọng điệu, hiếu theo nghĩa rộng của từ đó không phải chỉ là màu sắc xúc cảm của
thiên truyện hay của hành động kịch mà là một cái gì hơn thế”.
Giáo sư Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp Truyện Kiều đã cho rằng: “Giọng
điệu trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật toát ra từ bản thân tác phâm và mang
một nội hàm tư tưởng thẩm mĩ... Giọng điệu văn học là hiện tượng “siêu ngôn ngữ
học”, phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm, khuynh hướng nghệ thuật của
tác giả và của thời đại. Giọng điệu là biểu hiện của thái độ, cảm xúc của chủ thể đối
với đời sống”. Hay trong một công trình khác, ông khẳng định: “Giọng điệu là một yếu
tố đặc trưng của hình tượng tác giả... Giọng điệu ở đây không đơn giản là một tín hiệu
âm thanh có âm sắc đặc thù để nhận ra người nói mà là một giọng điệu mang nội dung
tình cảm, thái độ ứng xử trước các hiện tượng đời sống” [12, tr. 142]. Có thế thấy,
trong quan niệm của Trần Đình Sử, giọng điệu là một hiện tượng đã vượt ngoài “tầm
kiểm soát” của ngôn ngữ, và được tạo nên bởi mối quan hệ giữa thái độ, cảm xúc của
nhà văn với hiện thực cuộc sống. Như vậy, quan niệm này không chỉ chú ý tới khía
cạnh thái độ cảm xúc, lập trường tư tưởng, tình cảm của tác giả, mà còn chú ý tới tính
chi phối của phạm vi hiện thực tới giọng điệu.
Theo cách khác, Lê Huy Bắc trong bài viết Giọng và giọng điệu trong văn xuôi
hiện đại lại không thể hiện trực tiếp quan niệm của mình, mà thông qua việc phân biệt
giọng và giọng điệu để giới hạn nội hàm của khái niệm. Theo ông: “Giọng điệu là âm
thanh xét ở góc độ tâm lí, biểu hiện các thái độ: buồn, vui, hờ hững,
Với các giới hạn này, có thể nói Lê Huy Bắc đã phát hiện ra bản chất của giọng điệu.
Tuy nhiên nó vẫn chưa là một khái niệm đầy đủ.
Trong chuyên luận Giọng điệu trong thơ trữ tình, PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp
đã có sự nghiên cứu khá kĩ càng về giọng điệu trong văn học. Tác giả đã bày tỏ khá rõ
nét quan niệm về vấn đề này. Nguyễn Đăng Điệp đã cho rằng: “Giọng điệu biếu thị
thái độ, cảm xúc, tư thế của chủ thế phát ngôn qua lời văn nghệ thuật. Không thế có
giọng điệu nếu không có những rung động sâu sắc, những nỗi đau, những xót xa trước
thân phận con người, không chia sẻ với họ niềm vui và tình yêu cuộc sống” [2, tr. 57].
Nhìn một cách tổng quát các ý kiến ta thấy rằng, tuy chưa hoàn toàn thống nhất
với nhau nhưng các nhà phê bình, nghiên cứu đều ít nhiều có sự gặp gỡ nhau ở khía
cạnh này hay khía cạnh khác trong quan niệm về giọng điệu. Từ các quan niệm, nhận
thấy giọng điệu đã được nhìn nhận chủ yếu theo khuynh hướng: giọng điệu là biểu
hiện của lập trường tư tưởng, thái độ của nhà văn với hiện thực cuộc sống.
Theo Từ điến thuật ngữ văn học, mục từ “Giọng điệu”, các soạn giả đã đưa ra
khái niệm về giọng điệu như sau: “Thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của
nhà văn đối với đối tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn qui định cách xưng hô,
gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay
suồng sã, ngợi ca hay châm biếm (...) Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ
tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn tạo nên phong cách nhà văn
và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa
thế viết ra một tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật.
Không nên lẫn lộn giữa giọng điệu và ngữ điệu là phương tiện biểu hiện của lời nói,
thể hiện qua cách lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu chỗ ngừng. Giọng
điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật, kể
chuyện hay nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí, có giọng điệu. Giọng điệu trong tác
phẩm gắn với cái giọng điệu “trời phú” của mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái
quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm thường đa
dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng cơ bản, chủ đạo, chứ không đơn điệu” [4,
tr. 134].
Như vậy, xét về mọi phương diện thì khái niệm trên đây là tương đối hoàn
chỉnh, có thế bao quát mọi khía cạnh của giọng điệu. Chúng tôi chấp nhận khái niệm
này như một lí thuyết công cụ đế soi sáng cho sự nghiên cứu của mình.
Tuy nhiên đế tránh sự hiếu lầm về yếu tố giọng điệu, chúng tôi thấy cần có sự
phân biệt khái niệm này với một số khái niệm gần gũi với nó.
1
4
Trước hết cần thấy rằng, giọng điệu nghệ thuật khác với giọng điệu tác giả vốn
có ngoài đời: Giọng điệu của tác giả ngoài đời là giọng điệu của con người cụ thể, là
giọng điệu ngôn ngữ trong đời sống với những nét đặc thù về tính cách, phong tục,
nghề nghiệp, thói quen, trình độ,...; còn giọng điệu nghệ thuật luôn mang nội dung tình
cảm, thái độ, cách ứng xử của tác giả trước những hiện tượng đời sống được miêu tả.
Việc đồng nhất giọng điệu nghệ thuật và giọng điệu tác giả vốn có ngoài đời là một
việc làm mang tính khiên cưỡng, thậm chí sai lệch về bản chất vấn đề.
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần phân biệt giọng điệu với ngữ điệu. “Không nên
lẫn lộn giữa giọng điệu với ngữ điệu là phương diện biểu hiện của lời nói thể hiện qua
cách lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh ...” [4, tr. 135]. Tuy cả hai khái niệm này
cũng có cùng một phương tiện biểu hiện là âm thanh, nhưng chúng lại thuộc hai lĩnh
vực khác nhau. Ngữ điệu thuộc phạm vi của ngôn ngữ học, là hiện tượng của câu và nó
có các chức năng biểu cảm. Còn giọng điệu lại là hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, thuộc
phạm vi của lí luận văn học, nó phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm,
khuynh hướng nghệ thuật của tác giả và cả thời đại.
1.2.Vai trò của giọng điệu
Giọng điệu nghệ thuật là một trong những vấn đề phức tạp nhất của thi pháp
học hiện đại. Tuy nhiên, việc tìm hiểu giọng điệu trong tác phẩm văn chương lại cung
cấp những tri thức về một phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của văn
học, một thước đo không thế thiếu đế xác định tài năng và phong cách độc đáo của
người nghệ sĩ.
Nhìn một cách khái quát, giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình
cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả. Từ đây giọng điệu có vai trò rất quan trọng trong
việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc.
Dấu ấn phong cách trong giọng điệu chính là “chất riêng” độc đáo, không thế
lẫn của mỗi nhà văn, mà nói như Turghenev là: “không thể tìm thấy trong bất kì cổ
họng của người khác” [5, tr 90]. Tại sao giọng điệu lại là yếu tố hàng đầu thể hiện
phong cách nghệ thuật của nhà văn? Có thê lí giải theo cách của M.B. Khrapchenco
trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triến của văn học\ “Do chỗ giọng
1
5
điệu gắn liền với việc dùng hình tượng đế miêu tả đối tượng của sáng tác, cho nên nó
có đặc điếm của cách nhìn nhận riêng của cá nhân đối với đời sống”.
Lê Huy Bắc trong Giọng và giọng điệu văn xuôi hiện đại khắng định: “...giọng
điệu là một bộ phận style (phong cách), chúng thoát thai từ các cơ sở rồi góp phần tạo
nên style cho mỗi tác phẩm, tác giả” [3, tr. 411].
PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Giọng điệu là một yếu tố cơ bản thuộc
phong cách nghệ thuật, giọng điệu văn chương vừa cho phép người đọc nhận ra vẻ
riêng của nghệ sĩ, vừa có ý nghĩa như một tiêu chí xác định chân tài nhà văn”.
Trong Nam sơn tùng thoại nhận xét rất tinh tế: “Văn như con người của nó, văn
nhân hậu thì con người của nó trầm mà tĩnh, văn ôn nhu thì con người của nó khiêm
mà hòa, văn cao khất thì con người của nó đam mà giản; văn hùng hồn thì con người
của nó cương mà nhanh, văn uyên sâu thì con người của nó thuần túy mà đứng đắn”.
Trong Lí luận văn học, giọng điệu được biểu hiện như là lập trường, thái độ, thể
hiện qua hệ thống lời văn nghệ thuật, với các yếu tố như: cách xưng hô, cách gọi tên
sự vật, cách xây dựng hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, cách dùng từ ngữ,... Giọng
điệu trong tác phẩm thường có giá trị đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở giọng điệu
cơ bản, chủ đạo chứ không hề đơn điệu. Nói như M.B. Kharapchenco: “Giọng điệu
không những không loại trừ mà còn cho phép tồn tại trong tác phẩm văn học những sắc
điệu khác nhau” - Tức là, trong một tác phẩm văn học có sự xuất hiện của “giọng điệu
chủ yếu” (hay còn gọi “giọng chủ đạo” - giọng điệu cơ bản, xuyên suốt tác phẩm, thể
hiện một cách sâu sắc lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác
giả với sự vật hiện tượng được miêu tả) và các “sắc điệu bao quanh” với tư cách là bè
đệm. Như thế, về thực chất, giọng điệu cũng là một hệ thống. Hệ thống ấy được kiến
tạo trong sự kết hợp hài hòa giọng điệu chung (giọng chủ đạo) và những sắc điệu khác
nhau được thể hiện trong tác phẩm. Do đó, khi khai thác giọng điệu trong tác phẩm
văn học bất kì, ta phải xem xét theo hệ thống ấy.
Khác hắn với văn xuôi tự sự, “Thơ trữ tình chủ yếu được nói đến như một bản
tự thuật tâm trạng” bởi thế, giọng điệu trong thơ trữ tình chủ yếu là giọng đơn. Giọng
điệu trữ tình được thế hiện ở nhiều cấp độ: Giọng điệu trữ tình chịu sự quy định của
1
6
chủ thể trữ tình, cảm hứng chủ đạo và góc độ giao tiếp, giọng điệu in đậm dấu ấn cá
tính sáng tạo của nghệ sĩ - vì cá tính sáng tạo là thế hiện tập trung nhất, rực rỡ nhất
của cái cá biệt, chủ quan...
Có thể nói, giọng điệu là yếu tố không thế thiếu trong bất kì tác phẩm văn
chương nào, trong đó có thơ. Neu không có giọng điệu, tác phẩm nghệ thuật sẽ không
còn là tác phẩm nghệ thuật nữa. Giọng điệu trong thơ thể hiện quan điểm, tình cảm,
thái độ của tác giả đối với cách nhìn về cuộc sống và sự vật.
Lưu Quang Vũ là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Lưu Quang Vũ đã nhanh chóng tạo cho mình một giọng điệu riêng. Đó là giọng
điệu trẻ trung, trong sáng, tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống trong thời kì đầu, là
giọng cay đắng xót xa trước những va vấp và những mất mát của bản thân. Xuyên suốt
các tác phẩm thơ là giọng đắm đuối nồng nàn. Với giọng điệu thơ độc đáo đó, thơ Lưu
Quang Vũ vừa mới xuất hiện đã thu hút được sự chú ý đặc biệt của độc giả.
Chương 2
GIỌNG ĐIỆU THƠ LƯU QUANG vũ TRƯỚC NĂM 1975
2.1.Cơ sở hình thành giọng điệu
2.1.1.
Bối cảnh lịch sử, văn hóa - xã hội
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tuy đã trở
thành một nước độc lập nhưng vẫn đứng trước những thách thức to lớn. Cũng như bối
cảnh xã hội lúc ấy, văn học vừa diễn ra xu hướng hội tụ, vừa tiếp tục phân hóa thành
nhiều khuynh hướng. Trong thời kì chống Pháp, văn học đã được xây dựng để phục vụ
cho cuộc chiến đấu của người Việt Nam mà hạt nhân là Việt Minh. Văn học được định
hướng theo phương châm do Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định từ “Đe cương văn
hóa Việt Nam” năm 1943 là Dân tộc - Khoa học - Đại chúng còn đối với văn học thì
làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng. Trong kháng chiến chống Pháp,
khấu hiệu “Kháng chiến hóa văn hóa - Văn hóa hóa kháng chiến” của Hồ Chí Minh
cũng phản ánh mục tiêu và đi kèm với nó là phương pháp chi phối văn hóa nói chung
và văn học nói riêng trong giai đoạn ấy.
về phong cách, để có thể kháng chiến hóa văn
1
7
hóa, văn học phải nhằm đến đối tượng quần chúng đông đảo mà chủ yếu là nông dân
và do vậy văn học giai đoạn này đều hướng đến phong cách hiện thực, đại chúng.
Trong bối cảnh đó, những người sáng tác mà trong số họ có rất nhiều nhà thơ
của phong trào Thơ mới, những nhà văn hiện thưc phê phán với không ít cây bũt tài
năng băn khoăn về câu hỏi: Viết cho ai? Viết cái gì? Viết như thế nào? Người ta im
lặng, hoặc cảm thấy bứt rứt vì không thể viết như cũ cũng chưa thế viết được cái mới
như ý muốn của mình. Trong thời gian này đã nảy sinh những cuộc tranh luận về nghệ
thuật, trong đó người nghệ sĩ băn khoăn; đem nghệ thuật phục vụ chính trị có phải là
rẻ rúng nghệ thuật không? Quần chúng có khả năng thưởng thức nghệ thuật không?
Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trường kì suốt 30
năm đã tác động sâu sắc, toàn diện tới đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc, trong
đó có văn nghệ, tạo nên những đặc điêm riêng biệt của Iiiột nền văn học hình thành và
phát triến trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ, ác liệt.
Nen kinh tế nghèo nàn và chậm phát triến, điều kiện giao lưu văn hóa bị hạn
chế (chủ yếu tiếp xúc và chịu ảnh hưởng văn hóa các nước xã hội chủ nghĩa, cụ thể là
Liên Xô và Trung Quốc ...).
Trong hoàn cảnh như vậy, văn học giai đoạn 1945 - 1975 vẫn phát triển và đạt
được nhiều thành tựu, đóng góp cho lịch sử văn học những giá trị riêng.
2.1.2.
Y eu tố gia đình, quê hương và những kỉ niệm tuổi học trò
Lưu Quang Vũ mang nợ thơ từ trong huyết thống. Cha ông - Lưu Quang Thuận
sinh ông cùng lúc với thơ. Có thể nói, Lưu Quang Thuận là một tính cách thơ đằm
thắm, dạt dào và mặn mòi như biến Đà Nang quê ông. Ngay từ thuở mới lên năm, lên
sáu, nhà thơ Lưu Quang Thuận đã sớm phát hiện ra tâm hồn đa cảm, tài hoa của đứa
con trai đầu lòng và ông “đã tin chắc rằng sau này lớn lên con trai của mình sẽ trở
thành thi sĩ” [13]. Còn mẹ Lưu Quang Vũ là một phụ nữ tảo tần, đảm đang, giàu lòng
yêu thương và đức hi sinh. Bà đã để lại trong tâm trí nhà thơ những hình ảnh ngọt
ngào của tuổi thơ “mải chơi trốn học”, “những tối mẹ ngồi khâu lại áo”... Đó là những
kỉ niệm một thời không thế quên đã in dấu trong các sáng tác của Lưu Quang Vũ sau
này.
1
8
Hình thành nên diện mạo, tâm hồn thơ Lưu Quang Vũ còn có sự góp mặt của
vùng quê trung du Bắc Bộ - thôn Chu Hưng “ấm những ngày gian khổ khó quên nhau”.
Đúng vậy, quê hương từ xưa đến nay vốn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn
trong thơ. Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi thấm đượm biết bao kỉ niệm, là
nơi ta gửi gắm tình cảm sâu đậm. Chính ở nơi đây, Lưu Quang Vũ được sinh ra trong
mối tình nồng thắm của cha mẹ và sự yêu thương, bao bọc của làng xóm. Vì thế cái tên
Chu Hưng đi vào trong thơ Lưu Quang Vũ một cách rất giản dị tự nhiên không chỉ như
một địa danh, một nơi chôn nhau cắt rốn mà còn như nguồn cội sáng tạo đời thơ Lưu
Quang Vũ.
Và ngay từ thuở còn cắp sách tới trường, Lưu Quang Vũ đã là một cậu bé đa
cảm. Cậu học sinh lớp 9 họ Lưu từng rung động, xuyến xao trước một cô bạn nhỏ mến
thương:
“Suối nào mát bằng suối hồi còn bc
vẫn tắm mùa hè xao động nắng trưa
Câu thơ nào hay bằng câu ca dao tập đọc Ai
xinh bằng cô bạn nhỏ mến thương?”
(Tuôi thơ)
Tuổi học trò đầy mộng mơ, lãng mạn khi nhìn vào “đôi mắt mở to” của cô bạn
cùng lớp: “Cô bé con có đôi mắt mở to/ Đã đánh mất kho vàng và tiếng hát” (Những
ngày chưa có em) hay: “Gương mặt em mưa ướt át/ Đôi
mắt to tan vỡ cả
trời chiều”. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, nhìn vào đôi mắt ta như hiểu được
tâm
tư,
tình cảm. Trái tim chàng trai mười lăm tuổi như nghẹt thở, bối rối khi nhìn vào đôi
mắt long lanh của cô bạn cùng lớp. Đó là những rung động đầu tiên tuổi học trò trong
trẻo, hồn nhiên và tươi trong của một cậu bé thiếu niên.
Khi là chàng trai mười bảy, mười tám:
“Mắt người trong như giếng nước ban đầu
Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau”
(Đêm hành quân)
1
9
Những ai đã trải qua rung động đầu đời có lẽ sẽ không bao giờ nguôi ngoai nỗi
nhớ. Đôi mắt trong veo của người con gái như “giếng nước” ấy khiến chàng trai luôn
đau đáu một nỗi nhớ nhung, để rồi Lưu Quang Vũ sáng tạo ra những hình ảnh mới lạ
giàu sức biểu cảm: “Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau”...
Đó là nỗi nhớ nhẹ nhàng, sâu lắng mà da diết. Neu không phải là một tâm hồn
nhiều cảm xúc, lắm mộng mơ thì sẽ không có những rung động đẹp đẽ, trong sáng đến
như vậy. Chính những tháng ngày mộng mơ vô tư, hồn nhiên, trong sáng ấy đã nuôi
dưỡng và chắp cánh những vần thơ của ông.
2.2.Một số giọng điệu chủ đạo trong các sáng tác trước năm 1975
2.2.1.
Giọng thơ “đằm đuối đến mê hoặc”
Giọng điệu văn chương là một phạm trù quan trọng của thi pháp học có nhiệm
vụ tìm hiểu một trong những hình thức bộc lộ cái chủ quan của nhà văn trong tác phẩm
văn học. Việc cảm nhận giọng điệu có từ lâu nhưng mãi đến đầu thế kỉ XX, với sự xuất
hiện của M.Bakhtin và các công trình khoa học nổi tiếng của ông, vấn đề giọng điệu
văn chương mới thật sự trở thành một đối tượng tự giác của khoa học văn học. Cùng
với sự lớn mạnh của thi pháp học hiện đại, việc nghiên cứu giọng điệu như một hiện
tượng nghệ thuật đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Ngày nay, khi tìm hiểu
một nhà văn hay một thời đại văn học, người ta không thể không quan tâm đến giọng
điệu với tư cách là một yếu tố then chốt tạo nên sự độc đáo của nhà văn và thời đại văn
học ấy. Trong văn học, giọng điệu thể hiện thái độ, lập trường, cách nhìn nhận của chủ
thể phát ngôn về đối tượng được nói đến và đối tượng mà lời văn đó hướng tới.
Tìm hiểu giọng điệu trong tập thơ Gió và tình yêu thoi trên đất nước tôi của
Lưu Quang Vũ, chúng tôi nhận thấy giọng điệu chủ đạo được nhà thơ sử dụng trong
tập thơ đó là giọng “đắm đuối đến mê hoặc” khi viết về quê hương, đất nước và những
người thân yêu của anh.
Giọng điệu đó cũng là một đặc trưng mang tính thi pháp của thơ Lưu Quang
Vũ. Tâm hồn tươi trẻ với những khao khát mãnh liệt được gắn bó với cuộc đời đã tạo
nên trong thơ anh chất men nồng nàn, đắm say. Ngay từ những vần thơ đầu tay, Lưu
2
0
- Xem thêm -