SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
Người thực hiện : Hoàng Thị Lệ
Chức vụ : Giáo viên giảng dạy
SKKN thuộc lĩnh vực: Giáo dục công dân
THANH HÓA NĂM 2013
MỤC LỤC
1
Đặt vấn đề.........................................................................................Trang3
Giải quyết vấn đề...............................................................................Trang4
Cơ sở lý luận......................................................................................Trang4
Thực trạng trước khi thực hiện đề tài.................................................Trang 5
Các biện pháp tiến hành giáo dục......................................................Trang 6
Những yêu cầu sư phạm đối với GVCN............................................Trang 6
Những kỹ năng cần giáo dục cho HS.................................................Trang 6
Những biện pháp để giáo dục kỹ năng cho HS..................................Trang 7
Kiểm nghiệm.....................................................................................Trang 16
Kết luận và đề xuất.......................................................................... Trang 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
1.Báo giáo dục và thời đại:
2.Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm( NXB Hà Nội).
3.Kỹ năng sống (UNICEF)
4.Hoạt động giáo dục giá trị sốngvà kỹ năng sống cho học sinh trung
học( Nguyễn Thi Mỹ Lộc-Đinh Thị Kim Thoa)
5. Hạt giống tâm hồn và ý nghĩa cuộc sống ( NXB tổng hợp TP.Hồ Chí
Minh)
QUY ĐỊNH VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
1. Giáo viên: GV
2. Giáo viên chủ nhiệm: GVCN
3. Học sinh: HS
4. Kỹ năng sống: KNS
5. Hoạt động ngoài giờ lên lớp: HĐNGLL
6. Thể dục thể thao: TDTT
7. Trung học phổ thông: THPT
8. Ban giám hiệu:
BGH
3
ĐỀ TÀI: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông
qua công tác chủ nhiệm.
A. ĐĂT VẤN ĐỀ
Rèn luyện kỹ năng sống có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi người để có thể
đương đầu với thử thách trong cuộc sống và hoàn thiện mình hơn.Trong những
năm gần đây, chương trình giáo dục của Bộ Giáo Dục đã hướng đến việc rèn
luyện KNS cho học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế Nhà trường và coi đây là
một trong những trọng điểm của chương trình.
Hiện nay, một bộ phận không nhỏ HS nói chung và HS THPT Triệu Sơn I
nói riêng sa vào tệ nạn xã hội, hư hỏng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng học tập, nề nếp của nhà trường. Sự gia tăng những biểu hiện của thiếu kỹ
năng sống như; không thể hiện được khả năng của bản thân, khó hoà nhập, lúng
túng khi xử lý tình huống, hay gây mâu thuẫn, bất hoà với bạn bè, thầy cô...
Nguyên nhân không nhỏ của tình trạng trên là do các em chưa được trang bị
KNS một cách đầy đủ, để có thể đương đầu với sự biến động và cám dỗ trong
xã hội hiện nay. Do vậy việc giáo dục KNS cho HS là rất cần thiết.
Thực tế cho thấy việc giáo dục KNS trong nhà trường chưa được quan tâm
đúng mức, mới chỉ dừng lại ở bộ môn GDCD và một số buổi sinh hoạt tập thể.
Do vậy, chưa đáp ứng được mục tiêu của Bộ Giáo Dục đề ra.
Để giáo dục KNS cho HS cần có sự phối hợp của gia đình- nhà trường và
xã hội. Một trong những yếu tố góp phần quan trọng để hoàn thành mục tiêu
này là đội ngũ GV. Đặc biệt là GVCN.
Có thể nói GVCN là người đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa
nhà trường với HS, là người gần gũi, tiếp xúc thường xuyên với HS. Là kênh
truyền đạt những mong muốn, suy nghĩ của các em tới BGH nhà trường và
ngược lại.Trong tuần GVCN có ít nhất một buổi sinh hoạt lớp vào cuối tuần để
gặp gỡ, trao đổi với HS. Hiện nay Trường THPT Triệu Sơn I có chủ trương
4
GVCN tham gia sinh hoạt 15 Phút đầu giờ cùng với HS. Như vậy, thời gian để
GVCN tiếp xúc với học sinh nhiều hơn. Nhưng hầu hết các buổi sinh hoạt đều
diễn ra khô khan và cứng nhắc, chủ yếu là xử lý các trường hợp vi phạm. Thời
gian sinh hoạt 15 phút đầu giờ thì diễn ra nhàm chán, lặp đi lặp lại như; tập hát,
chữa bài tập…
Từ những vấn đề nêu trên, với tư cách là một người GV, nhất là GVCN, tôi
nhận thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có ý nghĩa quan trọng.
Do vậy tôi chọn đề tài “ Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT qua công
tác chủ nhiệm”
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Trên thế giới đã tồn tại nhiều khái niệm, nhiều định nghĩa khác nhau về
KNS, mỗi định nghĩa, mỗi khái niệm được thể hiện dưới những hình thức khác
nhau. Thông thường, KNS được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con
người cần để có sự an toàn , cuộc sống khoẻ mạnh với chất lượng cao.
Theo UNICEFF, KNS là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý, xã hội và giao
tiếp của mỗi cá nhân, giúp con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao
tiếp một cách có hiệu quả, phát triển kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân
nhằm giúp họ có cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Từ KNS có thể thể hiện
bằng hành động của cá nhân và những hành động của người khác cũng như
những hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành
mạnh.
Như vậy, KNS giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và hành động
theo hướng tích cực và mang tính xây dựng.
5
Ông cha ta đã từng nói “ Nhân chi sơ, tính bản thiện” nhân cách của trẻ chịu
sự tác động của các môi trường giáo dục; gia đình, nhà trường và xã hội. Trong
đó nhà trường đóng vai trò là người phát hiện, thiết kế và hướng dẫn để HS có
thể tự nhận thức, lĩnh hội và trau dồi nhân cách, kỹ năng sống cho mình
Ở lứa tuổi mới bước vào đời , bắt đầu sống độc lập, làm việc và sẽ có
những va chạm xã hội các em cũng rất cần được trau dồi kỹ năng sống. Theo
một nghiên cứu mới được nghành giáo dục công bố, có trên 95% HS chưa nhận
thức đúng về kỹ năng sống. Từ hiện trạng này cho thấy, việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh là rất cần thiết nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với
đầy đủ các mặt “đức, trí, thể , mỹ” “ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” hay “ nhân, nghĩa,
trí, tín, dũng, liêm...”. Hồ Chủ Tịch đã từng nói:
“ Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Giáo dục KNS chính là định hướng cho các em những con đường sống tích
cực trong xã hội hiện đại trong ba mối quan hệ cơ bản: con người với chính
mình; con người với tự nhiên; con người với các mối quan hệ xã hội. Nắm được
KNS, các em sẽ biết chuyển dịch kiến thức – “cái mình biết” và thái độ, giá trị “cái mình nghĩ, cảm thấy, tin tưởng”…thành những hành động cụ thể trong thực
tế - “làm gì và làm cách nào” là tích cực và mang tính chất xây dựng. Tất cả đều
nhằm giúp các em thích ứng được với sự phát triển nhanh như vũ bão của khoa
học công nghệ và vững vàng, tự tin bước tới tương lai. Cụ thể là:
- Trong quan hệ với chính mình: Giáo dục KNS giúp HS biết gieo những kiến
thức vào thực tế để gặt hái những hành động cụ thể và biến hành động thành thói
quen, rồi lại gieo những thói quen tích cực để tạo ra số phận cho mình.
- Trong quan hệ với gia đình: Giáo dục KNS giúp HS biết kính trọng ông
bà, hiếu thảo với cha mẹ, quan tâm chăm sóc người thân khi ốm đau, động viên,
an ủi nhau khi gia quyến có chuyện chẳng lành…
- Trong quan hệ với xã hội: Giáo dục KNS giúp HS biết cách ứng xử thân
thiện với môi trường tự nhiên, với cộng đồng như: có ý thức giữ gìn trật tự an
6
toàn giao thông; giữ vệ sinh đường làng, ngõ phố; bảo vệ môi trường thiên
nhiên…Từ đó, góp phần làm cho môi trường sống trong sạch, lành mạnh, bớt đi
những tệ nạn xã hội, những bệnh tật do sự thiếu hiểu biết của chính con người
gây nên; góp phần thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực để hài hoà
mối quan hệ giữa nhu cầu – quyền lợi – nghĩa vụ trong cộng đồng.
Do những ý nghĩa đặc biệt nêu trên, việc giáo dục hình thành nhân cách
cho HS nói chung và đối với giáo dục KNS nói riêng ngày càng trở nên quan
trọng và cấp thiết.
Tuy nhiên, việc giáo dục kỹ năng sống chưa được quan tâm đúng mức
trong nhà trường, chưa đáp ứng được nhu cầu rèn luyện kỹ năng cho các em.
Vì vậy, vai trò của GVCN rất quan trọng trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh.
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
1. Thuận lợi:
a: Về phía giáo viên: -Rèn luyên kỹ năng sống cho HS là một trong những
chương trình trọng điểm của Bộ Giáo Dục. Do vậy được áp dụng cho tất cả
các môn học, cấp học.
-Nhà trường đang thực hiện phong trào thi đua xây dựng “ Trường học thân
thiện, học sinh tích cực”. Trọng điểm của phong trào là rèn luyện KNS cho
HS.
-GV đã được tập huấn giảng dạy KNS cho học HS ở những khoá tập huấn do
Sở GD-ĐT tổ chức.
-Sự quan tâm của nhà trường về nề nếp, kỷ luật, cơ sở vật chất tạo điều kiện
thuận lợi cho GVCN làm tốt vai trò của mình.
b: Về phía học sinh:
-Học sinh đã được giáo dục kỹ năng sống từ các cấp học dưới.
-Sự phát triển của Internet, công nghệ thông tin đã giúp học sinh hiểu và hình
thành cho mình một số kỹ năng sống thiết yếu.
2.Khó khăn:
7
A:Về phía giáo viên
-Việc giảng dạy KNS trong nhà trường chưa được đồng bộ.
- Tài liệu về giáo dục KNS trong thư viện nhà trường còn ít.
-Sự phối kết hợp giữa GVCN và GV bộ môn chưa thực sự hiệu quả trong giáo
dục.
b: Về phía học sinh:
-Phần đa học sinh còn chưa chú trọng đền việc học và rèn luyện KNS cho
mình.
- Phụ huynh HS chỉ quan tâm đến việc học theo khối của con em mình, một số
mải mê với công việc phó mặc việc dạy dỗ cho nhà trường.
III. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH GIÁO DỤC
1. NHỮNG YÊU CẦU SƯ PHẠM ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM..
GVCN phải xác định mình là người đóng vai trò quan trọng trong việc giáo
dục KNS cho HS, phải có lòng nhiệt tình và sự đam mê. Bởi vì, GVCN là linh
hồn của lớp, là người tiếp xúc thường xuyên với HS, là người nắm rõ tâm lý,
tính cách của từng HS. Do vậy, GVCN có thể hiểu được năng lực, thái độ ưu
điểm và nhược điểm của từng HS. Đây là yêu cầu rất quan trọng. Bởi công tác
chủ nhiệm lớp đòi hỏi điều đầu tiên của GV là lòng nhiệt tình và sự đam mê.
Làm chủ nhiệm là một “ nghệ thuật”, nếu không có sự nhiệt tình sẽ không đem
lại kết quả như mong muốn. Khi xác định được vai trò của mình GVCN sẽ gần
gũi được HS, chiếm được cảm tình từ phía HS, từ đó sẽ có những biện pháp
thiết thực để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
GVCN phải biết lập được kế hoạch chủ nhiệm cho riêng mình để có thể
giáo dục được KNS cho HS. Căn cứ vào kế hoạch chung của Sở GD, của nhà
trường, đặc điểm của lớp, của địa phương GVCN phải lập được cho mình một
kế hoạch cụ thể, chi tiết, khoa học cho từng tuần, từng tháng và trong cả năm
8
học. Phải biến việc giáo dục KNS cho HS thành một thói quen, thành kỹ năng
của mình trong suốt quá trình làm công tác chủ nhiệm.
GVCN phải là tấm gương cho HS soi vào về đạo đức, lối sống, hành vi. Có
thể nói; để giáo dục được HS thì người GV nói chung và GVCN nói riêng phải
là người biết dùng nhân cách của mình để dạy HS “Dùng nhân cách để giáo
dục nhân cách”. GVCN phải là người có tấm lòng khoan dung, độ lượng, là
quan toà mẫu mực trong khi giải quyết tình huống. Đặc biệt, GVCN phải hết
lòng thương yêu HS, xem HS như con, em của mình, phải mở lòng mình với
HS, có như vậy GVCN mới được học sinh tin tưởng, gần gũi, gửi gắm tâm sự.
Đây cũng là kênh thông tin quan trọng để GVCN có phương pháp tốt để giáo
dục đạo đức và KNS cho HS.
GVCN phải là người có năng lực quản lý và năng lực tổ chức. Không phải
lúc nào GVCN cũng ở trên lớp cùng với HS. Do vậy, GVCN phải xây dựng đội
ngũ cán sự lớp có năng lực và trách nhiệm, điều hành một tập thể tự quản.
GVCN còn phải biết ứng xử, giải quyết đúng các mối quan hệ giữa HS đối với
nhau, giữa HS với GV, giữa GV bộ môn đối với GVCN, giữa GVCN với Đoàn
thanh niên,... với cha mẹ HS. Thầy cô chủ nhiệm phải là cầu nối quan trọng
kết nối ba môi trường giáo dục; gia đình, nhà trường và xã hội.
2. NHỮNG KỸ NĂNG CẦN GIÁO DỤC CHO HỌC SINH
Có rất nhiều kỹ năng cần giáo dục cho học sinh, trong phạm vi đề tài này tôi
xin đưa ra phương pháp giáo dục một số KNS như sau:
Kỹ năng tự nhận thức giá trị bản thân
Kỹ năng tư duy phê phán
Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định
Kỹ năng giải quyết xung đột
Kỹ năng hợp tác
9
Kỹ năng kiên định
Kỹ năng học tập và định hướng nghề nghiệp
3. CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ ĐỂ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH.
-3.1. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt 15 phút và buổi sinh hoạt cuối
tuần:
Trong các biện pháp để giáo dục KNS cho HS trong công tác chủ nhiệm tôi
coi trọng biện pháp này nhất. Bởi thời gian để GVCN tiếp xúc nhiều nhất với
HS là thông qua các buổi sinh hoạt 15 phút và sinh hoạt cuối tuần.
3.1.1: Lồng ghép chương trình giáo dục kỹ năng sống trong những buổi
sinh hoạt 15 phút đầu giờ ;
Đây là giải pháp quan trọng. Trong suốt năm học, GVCN là người thường
xuyên bám lớp trong những giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ. Vì vậy việc lồng
ghép giáo dục KNS cho học sinh là việc làm bổ ích, tránh được những buổi
sinh hoạt nhàm chán, lặp đi , lặp lại, mà lại gây được hứng thú cho HS trong
những buổi sinh hoạt 15 phút, đồng thời, giáo dục được KNS cho HS. Trong
buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ thời gian ít. Vì thế, GVCN có thể áp dụng các
phương pháp giáo dục KNS như; thảo luận nhóm, động não, nghiên cứu tình
huống, hoặc tổ chức những trò chơi (có thời gian ngắn.)
3.1.1.1: Phương pháp hoạt động nhóm:
Tổ chức tốt phương pháp này, GVCN sẽ tạo cơ hội cho HS tự tin, thoải mái
chia sẻ sự hiểu biết của mình với người khác. Đồng thời, tiếp nhận sự phê phán,
góp ý của bạn, giúp cho sự hiểu biết của HS trở nên sâu sắc hơn, toàn diện hơn
giúp cho buổi sinh hoạt trở nên sôi nổi, hứng thú.
Tuy nhiên phương pháp này sẽ gây ra sự ồn ào, mất trật tự cho các lớp bên
cạnh, đặc biệt dễ gây sự nhàm chán cho một số HS. Do đó yêu cầu, GVCN phải
làm tốt những việc sau:
10
- Phải tạo ra một không khí thảo luận cởi mở, tôn trọng lẫn nhau giữa HS với
nhau.
- Vấn đề được đưa ra để HS thảo luận phải phù hợp với lứa tuổi, phải khơi
gợi được khả năng tư duy phê phán, khả năng sáng tạo của HS.
Ví dụ1:
*Khi giáo dục kỹ năng “tự nhận thức giá trị bản thân”. GVCN cho HS tiến
hành các hoạt động nhóm trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ
Hoạt động : Chia sẻ về tự nhận thức bản thân
GV phát các tờ rơi in sẵn mệnh đề
- Sở thích của em là gì?(đọc báo, xem TV, xem bóng đá....)
- Cuốn truyện/ sách, chương trình TV mà em thích nhất.
- Điểm mạnh và năng khiếu của em là gì?
- Ai là người bạn thân nhất của mình? Người đó như thế nào?Có đặc điểm
gì nổi bật?
- Mình muốn làm nghề gì trong tương lai?
GV chia lớp thành những nhóm
nhỏ gồm có 3 người mỗi em tự suy nghĩ và điền vào tờ rơi trong vòng 5
phút, sau đó chia sẻ với những bạn trong nhóm mình.
Tiếp theo GVCN cho đại diện các nhóm trình bày những quan điểm chung
của các thành viên trong nhóm mình, chia sẻ với các nhóm khác?
Ví dụ 2:
*Khi giáo dục kỹ năng kiên định, trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ
GVCN cho HS tiến hành hoạt động: Tranh luận đôi bên.
GVCN chia lớp thành hai nhóm: Yêu cầu các em đưa ra các tình huống lôi
kéo của bạn bè hay gặp nhất( hút thuốc, trốn học, chơi điện tử...). Phân một
nhóm chuẩn bi lý lẽ ủng hộ ý kiến (nên hút thuốc), một nhóm chóng lại ý kiến
(không nên hút thuốc).Để hai nhóm chuẩn bị lý lẽ trong vòng 7 phút. Sau đó
cho hai nhóm tranh luận, chất vấn.
Sau khi HS tranh luận xong GVCN hướng dẫn HS đi đến thống nhất ý kiến
11
Là “nên” hoặc “không nên”. Nếu không nên hút thuốc thì phải làm gì? GVCN
cung cấp cho HS các bước để hình thành kỹ năng kiên định. Tầm quan trọng
của kỹ năng kiên định đối với HS.
3.1.1.2: Phương pháp nghiên cứu tình huống:
Áp dụng phương pháp này GVCN sẽ huy động khả năng động não, khả
năng tư duy, khả năng giải quyết vấn đề và ra quyết định của HS, lôi kéo các
em vào những ình huống có thực và bắt buộc các em phải giải quyết.
Tuy nhiên để thành công khi áp dụng phương pháp này GVCN phải đưa ra
những tình huống sát thực với cuộc sống của các em, đang đựơc các em quan
tâm và suy nghĩ, các em phải quyết định. Tất nhiên đó phải là tình huống giáo
dục, để đem lại kết quả giáo dục.
Ví dụ:
*Khi giáo dục kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định, kỹ năng học tập và
định hướng nghề nghiệp. GVCN ra tình huống cho HS.
Giả sử em rất muốn thi vào trường đại học mà em thích, nhưng bố mẹ em
không đồng ý. Em sẽ làm gì? Tại sao em quyết định nhu vậy
GVCN chia lớp thành bốn nhóm, cho các em trao đổi, tranh luận với nhau
trong vòng 5 phút. Sau đó, cử đại diện các tổ đưa ra ý kiến tranh luận của mình
trong vòng 10 phút. Vào các buổi sinh hoạt tếp theo, GVCN tổng kết và đưa ra
nhận xét, hướng dẫn HS trong cách chọn nghề phải căn cứ vào các yếu tố:
Năng lực, sở trường của mình, nhu cầu và sự phát triển của xã hội.
Ví dụ em thích được du ngoạn, khám phá những điều mới lạ, em có khả năng
về các môn văn, ngoại ngữ... nên thi vào trường du lịch.
1.1.1.3;Phương pháp trò chơi:
Phương pháp này mang lại cho HS khả năng giao tiếp , khả năng quyết
định lưạ chọn, kỹ năng nhận xét đánh giá .Tạo không khí vui vẻ, sôi động trong
buổi sinh hoạt.
12
Tuy nhiên, phương pháp này dễ gây sự lộn xộn trong lớp, gây ồn ào cho
các lớp bên cạnh. Do vậy, GVCN phải chuẩn bị được những trò chơi có nội
dung phù hợp với thời gian ngắn, hấp dẫn, ít gây sự xáo trộn trong tổ chức lớp.
Ví dụ:
Khi giáo dục kỹ năng tư duy phê phán, GVCN tổ chức cho HS chơi trò chơi
“cùng nhau viết tiếp câu chuyện” trong vòng 15 phút. Cho HS đứng thành
vòng tròn trong lớp, GVCN ra nhan đề cho câu chuyện như “ Tôi học như thế
nào”. Sau đó GVCN cho một em viết câu mở đầu như “trước tiên tôi học bằng
chính nghị lực của mình”. Sau đó chuyền cho các em tiếp theo viết tiếp các câu
sau theo logic của câu trước thành một câu truyện.
3.1.2: Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt cuối tuần:
Phần lớn các tiết sinh hoạt chủ nhiệm hiện nay chủ yếu được thực hiện
dưới hình thức là tổng kết, đánh giá và đề ra phương hướng tuần tới. Hình thức
sinh hoạt này dễ gây cho học sinh sự nhàm chán, đặc biệt là gây áp lực về các
lỗi mà các em mắc phải trong tuần qua. Vì lẽ đó mà một số em cảm thấy không
thích tiết sinh hoạt chủ nhiệm, thậm chí là sợ hãi. Người thầy chủ nhiệm trong
quá trình đánh giá ưu khuyết điểm của học sinh trong tuần vừa qua thường chủ
quan xem việc vi phạm nội quy và những biểu hiện chưa tốt của học sinh là do
các em không cố gắng, đôi khi xem đó là biểu hiện đạo đức không tốt. Biện
pháp thường được áp dụng là xử lí kỉ luật, làm tờ tự kiểm và đôi lúc là hạ hạnh
kiểm.
Điều này dễ dẫn đến việc học sinh không tin vào thầy cô, bạn bè và có khi
là không tin vào bản thân mình. Các em cần sự hướng dẫn và giáo dục của giáo
viên chủ nhiệm. Trong tiết sinh hoạt lớp, GVCN sẽ cung cấp cho học sinh
những hiểu biết thông qua các hoạt động sinh hoạt chuyên đề sinh động và vui
nhộn. Sự sinh động và hứng thú của việc được tham gia vào các hoạt động có
liên quan sẽ giúp học sinh nâng cao ý thức một cách tự nhiên và dễ dàng. Cũng
nhờ vào các hoạt động này cùng với sự tin tưởng và sẻ chia của thầy cô mà các
em sẽ có được niềm tin, định hướng và nghị lực để phát triển nhân cách.
13
Thứ nhất: GVCN xử lý hành vi vi phạm của HS phải gắn việc giáo dục
kỹ năng sống , xử lý khoa học, nhẹ nhàng nhưng phải nghiêm khắc, gắn
với kỷ luật.
Ví dụ1:
Trong buổi lao động của lớp , mặc dù tôi đã phân công cụ thể cho từng
tổ nhưng trong quá trình thực hiện, nhưng một số HS vẫn còn đùn đẩy nhau,
dẫn đến công việc hoàn thành không đúng kế hoạch. Mặc dù rất bực bội nhưng
tôi không nói gì. Vào buổi sinh hoạt cuối tuần tôi đã gọi lớp trưởng trình bày lý
do, lớp trưởng cho biết: Một số bạn đến muộn hơn nên các bạn đến sớm chừa
lại phần việc cho các bạn ấy làm. Tôi dùng phương pháp giáo dục KNS “
nghiên cứu tình huống”, bình tĩnh kể cho HS nghe mẫu chuyện “ sức mạnh”
và nhấn mạnh lời người cha căn dặn con “ trong cuộc sống, không phải lúc
nào chúng ta cũng có thể tự mình làm tất cả mọi việc. Sức mạnh của chúng
ta còn nằm ở những người thân, bạn bè- những người luôn quân tâm và
giúp đỡ ta”. Sau khi kể xong tôi đã hỏi một số HS không đi lao động và đến
muộn?
Em không đi làm, hoặc đến muộn thì các bạn phải làm thay em
phần việc đó, em có suy nghĩ gì? Sau đó tôi hỏi một số HS đến sớm? Nếu lần
sau, em có một lý do nào đó mà cũng đến muộn, các bạn cũng chừa lại phần
việc cho em, một mình em làm và công việc không hoàn thành, thì em sẽ suy
nghĩ như thế nào? Quay sang tôi hỏi cả lớp? Nếu muốn công việc hoàn
thành nhanh chóng thì chúng ta phải làm gì?. Thông qua cách này, tôi đã
giáo dục cho HS kỹ năng hợp tác trong cộng đồng và ý nghĩa của sự hợp tác
đó. Tôi vừa phê bình, kiểm điểm được thái độ, tinh thần của HS vi phạm, vừa
giáo dục được kỹ năng cho HS, mà không biến tiết sinh hoạt trở nên căng
thẳng.
Ví dụ 2:
Để xử lý HS vi phạm tôi dùng phương pháp “mô hình mẫu”, tôi
dùng ngay chính hành vi ứng xử,giao tiếp của mình để xử lý. Trước tiên tôi
cho HS trình bày nguyên nhân tại sao lại dẫn đến những vi phạm đó, nếu HS
khó nói thì có thể gặp riêng tôi. Qua đó nhẹ nhàng phân tích cho HS vi phạm
14
cái đúng và cái sai trong hành vi của em, hướng khắc phục, sữa chữa. Nếu lỗi
nặng tôi sẽ áp dụng hình phạt theo nội quy của lớp, nếu lỗi nhẹ tôi có thể cho
qua. Vì vậy, khi HS bị phạt mà vẫn không thấy oan ức, hoặc phản ứng tiêu cực,
mà còn rút ra được kỹ năng khi xử lý tình huống cho mình.
Ví dụ 3:
Vào buổi sinh hoạt cuối tuần, khi xử lý hai HS trong giờ học đã có hành vi
đánh nhau. Tôi dùng phương pháp phát vấn, để hỏi hai HS: Vì sao lại dẫn dến
xung đột giữa hai người? Nếu bình tĩnh như bây giờ em có hành động như
vậy không? Em sẽ xử lý như thế nào? Sau khi cho HS trình bày ý kiến của
mình GV tổng kết lại và phổ biến trước lớp kỹ năng giải quyết xung đột như:
kiềm chế cảm xúc, sử dụng kỹ năng thư giãn ( như thở vào, hít ra, nói ra cảm
xúc của mình bằng giọng kiên định nhưng nhẹ nhàng). Cuối cùng tôi cho hai
HS giảng hoà với nhau và mỗi bạn viết một bản kiểm điểm trình bày trước lớp
về hành vi sai trái của mình.
Thứ hai: Thông qua các buổi sinh hoạt cuối tuần GVCN có thể lồng
ghép các chuyên đề giáo dục KNS cho học sinh
Trong giờ sinh hoạt cuối tuần GVCN dành 15 hoặc 20 phút để tổng kết tuần
và đề ra phương hướng cho tuần sau, hoặc xử lý học sinh vi phạm. Thời gian
còn lại( hoặc có thể là cả buổi tuỳ theo công việc của tuần ít hay nhiều) GVCN
có thể lồng ghép các chuyên đề giáo dục KNS cho HS. GVCN có thể dùng các
phương pháp sau:
31..2.1: Phương pháp “trò chơi”:
Những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp này tôi đã trình bày ở trên.
Để thành công khi áp dụng phương pháp này trong buổi sinh hoạt cuối tuần
GVCN cần phải làm tốt công việc sau:
GVCN phải đưa ra trò chơi mang tính cộng đồng, tập thể, kích thích khả
năng tư duy, động não của các em.
GVCN phải tìm ra một người điều khiển trò chơi có khả năng giao tiếp tốt
và đóng vai trò như một MC để dẫn dắt trò chơi.
15
GVCN nên áp dụng phương pháp này nhiều trong các buổi sinh hoạt cuối
tuần.
Ví dụ1:
Khi giảng dạy kỹ năng “ Hợp tác” trong buổi sinh hoạt cuối tuần tôi tổ chức
hoạt động trò chơi “bão biển ” trong vòng 20 phút. Tôi chia HS thành những
nhóm nhỏ, mỗi nhóm không quá 4 người, mỗi nhóm được trang bị một tờ báo
trải dưới đất, bốn học sinh cùng đứng trên tờ báo. Người điều khiển trò chơi hô
“ bão tới”. Bốn người trên thuyền phải tìm cách chống lại cơn bão, sau 10 phút
bão tan, thuyền bị rách, HS rời khỏi thuyền. Gấp tờ báo lại thành một phần,
GVCN cho HS tiếp tục trò chơi. Trong vòng 10 phút tiếp theo bão đến và
thuyền lại bị rách, cứ như vậy GVCN cho HS chơi ba lần. Khi thuyền đã bị
rách hết rồi, giữa biển bốn người sẽ phải làm gì để vào bờ. GVCN cho cả lớp
thảo luận và giải quyết tình huống. GVCN kết luận, nêu ra bài học và KNS cần
cho HS là phải hợp tác với nhau.
Ví dụ 2:
Để giáo dục kỹ năng “Tự nhận thức bản thân” GVCN tiến hành hoạt động
trò chơi “Người khác nghĩ về mình”.( thời gian 20phút)
Dụng cụ: giấy A0 khổ to, bút dạ màu, giấy khổ to cắt thành chiếc áo khoác
Tiến hành: Cho HS khoác lên mình chiếc áo giấy. Chia lớp thành bốn nhóm,
cho các thành viên trong nhóm viết lên lưng nhau, những ưu điểm, nhược
điểm, tính cách của bạn mình trong vòng 20 phút. .( Tinh thần góp ý, không
phê phán, không làm trò cười cho nhau)
Sau đó GVCN cho một số HS mạnh dạn đứng dậy trình bày những đặc điểm
của mình, vừa được bạn viết lên áo. HS trình bày xong GV đưa ra kết luận:
Một điểm quan trọng của tự nhận thức bản thân đó nhận biết sự đánh giá ,
nhìn nhận của mọi người về mình. Sau trò chơi này GVCN lưu ý HS giữ và
đọc những ưu điểm, nhược điểm của mình đã được bạn chỉ ra để có hướng phát
huy, đồng thời khắc phục những điểm còn thiếu sót để hoàn thiện mình hơn.
Ví dụ 3:
16
Khi giáo dục KNS “ Tư duy phê phán” GVCN cho HS chơi trò chơi “ đoán
chữ”. GVCN cho HS đoán chữ “ Đoàn kết” bằng cách đưa ra câu hỏi thứ nhất.
Cụm từ này gồm tám chữ, đây là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta!.
Nếu HS chưa đoán ra GVCN đưa ra tiếp gợi ý. Truyền thống này được Hồ Chí
Minh đúc kết thành một chân lý, bài học lịch sử của dân tộc ta trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc!. Nếu HS vẫn chưa đoán được. GV đưa ra gợi ý
cuối cùng. Cụm từ này bắt đầu bằng chữ Đ!
31..2.2: Phương pháp thuyết trình kết hợp với các phương pháp khác.
Áp dụng phương pháp này trong buổi sinh hoạt cuối tuần sẽ giúp cho
GVCN và HS có thời gian trò chuỵện, trao đổi với nhau nhiều hơn, giúp HS
hiểu được các KNS có ý nghĩa với con người như thế nào.
Tuy nhiên áp dụng phương pháp này dễ gây cho HS sự nhàm chán nếu
GVCN không khéo léo kết hợp tốt với các phương pháp khác. Do vậy, GVCN
phải lựa chọn các phương pháp tạo ra sự thu hút và nhu cầu muốn tìm hiểu ở
HS.
Ví dụ:
Để giáo dục kỹ năng “ giải quyết vấn đề và ra quyết định”. GVCN đọc cho
học sinh nghe mẫu truyện “ Hãy thử một cách khác” ( Hạt giống tâm hồn và ý
nghĩa cuộc sống). Câu chuyện kể về một chú ruồi cố tìm cách thoát thân bằng
cách chui qua tấm kính của cửa sổ, mặc dù chú đã dồn hết sức lực nhưng vẫn
không qua được và cuối cùng chú đã chết. Trong khi đó chỉ cách mười buớc
chân là một cánh cửa đang rộng mở GV nhấn mạnh chi tiết “Nếu chú ruồi
không khoá chặt mình vào một lối nghĩ duy nhất và thử tìm cách khác, chú đã
tìm ra lối thoát một cách dễ dàng”.
Sau khi đọc xong, GVCN dùng phương pháp thuyết trình kết hợp với
phương pháp động não để tiến hành vói những câu hỏi sau: Em có thích mẫu
truỵên này không? Vì sao em thích? Nếu em ở trong trường hợp như chú ruồi
em sẽ làm gì để thoát thân? Tại sao em lại làm như vậy? Câu chuyện nhắc
nhở chúng ta điều gì?
17
Cho HS lần lượt trả lời xong, GVCN thuyết trình cho các em hiểu về ý nghĩa
của mẫu truyện. Từ đó thuyết trình cho HS hiểu về ý nghĩa của KNS giải quyết
vấn đề và ra quyết định. Năm bước căn bản để giải quyết vấn đề và ra quyết
định như; Xác định vấn đề; động não về các khả năng; đánh giá các khả năng;
lên kế hoạch hành động; đánh giá và điều chỉnh. Trong khi thuyết trình GVCN
phân tích ví dụ để chứng minh.
3.1.2.3Phương pháp đóng vai:
Nếu áp dụng tốt phương pháp này GVCN sẽ tạo được sự hứng thú và khả
năng sáng tạo của HS, khích lệ được sự thay đổi thái độ, hành vi của HS theo
hướng tích cực. Tuy nhiên, nếu tổ chức không tốt có thể trở thành cơ hội để HS
chơi đùa, trêu chọc nhau.
Do vậy, GVCN phải tổ chức sao cho phần “diễn” chỉ là phụ mà quan
trọng hơn là phần thảo luận sau đó. Tình huống đưa ra phải thể hiện được tư
duy phê phán và khả năng sáng tạo. Vừa là nội dung của KNS vừa là phương
tiện để hình thành KNS khác.
Ví dụ:
Khi giáo dục kỹ năng giải quyết xung đột (35 phút). GVCN ra tình huống
cho học sinh đóng vai. Lấy nhóm HS khoảng 5-6 bạn, để đóng vai một tình
huống; Các bạn đang chơi trong sân trường một bạn từ đâu tới xô vào người
bạn trong nhóm, cả hai người cùng ngã. Mặc dù người kia sai, nhưng bạn trong
nhóm vẫn đỡ người đó dậy, nói lời xin lỗi. Tuy nhiên, đáp lại thái độ lịch sự
của bạn trong nhóm, người kia chửi tục và đe doạ bạn trong nhóm.
Khi nhóm HS diễn xong, GVCN đưa ra câu hỏi; Nếu là các em trong tình
huống trên em sẽ xử lý như thế nào? GVCN phân lớp thành bốn nhóm cùng
thảo luận tình huống (10 phút). Sau đó cho đại diện các nhóm đứng lên trình
bày ý kiến của mình bằng cách đóng vai.
Cuối buổi GVCN tổng kết và đưa ra cho HS biết các bước giải quyết mâu
thuẫn.
18
Bước 1: Kiềm chế cảm xúc- sử dụng kỹ năng thư giãn. Tự đưa mình thoát
khỏi tâm trạng/tình huống đó.
Bước 2: Xác định nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn. cần suy nghĩ tích cực, vì
nó tác động mạnh đến cảm xúc và hành vi tích cực.
3.2: Phối kết hợp với GV bộ môn, Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên
và các tổ chức khác trong Nhà trường.
3.2.1:GVCN kết hợp với GV bộ môn :
Hiệu quả giáo dục của một lớp phụ thuộc một phần quan trọng vào hoạt
động và phẩm chất của giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn. Vì vậy
giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn phải có sự phối hợp, trao đổi
thống nhất tác động sư phạm đến học sinh thông qua một số hoạt động:- Giáo
viên chủ nhiệm thường xuyên theo dõi kết quả học tập của học sinh thông qua
giáo viên bộ môn (trao đổi trực tiếp với giáo viên bộ môn, thông qua nhận xét
đánh giá của giáo viên bộ môn ở sổ theo dõi tiết học, sổ gọi tên ghi điểm của
lớp mình quản lý).- Giáo viên chủ nhiệm thông qua việc dự giờ trên lớp các
giáo viên bộ môn lớp mình quản lý để quan sát thái độ, hứng thú học tập từng
bộ môn của học sinh lớp mình chủ nhiệm.- Giáo viên chủ nhiệm có thể trao đổi
với giáo viên bộ môn về hoàn cảnh gia đình, sức khỏe, tâm lý,năng lực, sở
trường… của từng học sinh. Từ đó có những đề xuất với giáo viên bộ môn về
phương pháp hướng dẫn học sinh học tập và cũng thông qua đó tiếp thu những
ý kiến phản ánh của giáo viên bộ môn về lớp mình phụ trách. Bên cạnh đó,
giáo viên chủ nhiệm cũng nên nêu những nguyện vọng của lớp đối với giáo
viên bộ môn.Thông qua nhận xét của giáo viên bộ môn, kết hợp với sự theo dõi
và quan sát của giáo viên chủ nhiệm, mỗi người giáo viên chủ nhiệm sẽ tìm
được một giải pháp phù hợp với thực trạng của lớp, với việc giảng dạy kỹ năng
sống phù hợp với đặc điểm học sinh của mình.
19
Ví dụ:
Học sinh A có khả năng về môn toán, GVCN có thể gặp giáo viên môn toán
để phối kết hợp, có biện pháp bồi dưỡng và định hướng tương lai cho HS.
3.2.2: GVCN phối kết hợp với Đoàn thanh niên, Ban giám hiệu và các tổ
chức khác trong Nhà trường.
Trước hết GVCN phải phối kết hợp thường xuyên với Ban giám hiệu và tổ
chức Đoàn thanh niên. Dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu, một trong những
vai trò của Đoàn là đảm nhận hoạt động bề nổi như: tổ chức các hoạt động
26/3; kỷ niệm ngày 20/11... thông qua các hoạt động của đoàn GVCN có thể dễ
dàng giáo dục KNS cho HS. Bởi vì, nhân cách của HS được hình thành qua hai
con đường cơ bản: con đường dạy học trên lớp và con đường hoạt động ngoài
giờ lên lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp(HĐGDNGLL) là một bộ
phận hữu cơ của quá trình giáo dục ở nhà trường THPT. HĐGDNGLL là sự
tiếp nối của hoạt động dạy học trên lớp, là con đường gắn lý thuyết với thực
tiễn , tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động , góp phần hình thành
tình cảm, niềm tin cho sự hình thành nhân cách cho các em, là điều kiện thuận
lợi để học sinh phát huy vai trò chủ thể của mình trong hoạt động, nâng cao
tính tích cực hoạt động rèn luyện để phát triển nhân cách.
Ví dụ:
Thông qua hội thi văn nghệ, làm báo tường, thi kéo co đê chào mừng ngày
thành lập nhà giáo Việt Nam, ngày thành lập Đoàn (26/3)GVCN có thể lồng
ghép giáo dục KNS: hợp tác, hoà nhập, kỹ năng lãnh đạo cho HS lớp mình
thông qua cách phân công nhiệm vụ cho từng cá nhân trong lớp, phát huy tinh
thần chủ động , tích cực của các em để làm sao đó để lớp mình có thể đem lại
thành tích cao nhất trong cuộc thi.
Ngoài ra, GVCN phải thường xuyên kết hợp với các tổ chức khác trong nhà
trường như tổ giám thị ... để xử lý vi phạm của học sinh một cách thuyết phục
và có hiệu quả.
3.3: GVCN phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh:
20
- Xem thêm -