TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA BẤT ĐỘNG SẢN & ĐỊA CHÍNH
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO KIẾN THỨC VỀ MÔI GIỚI, ĐỊNH
GIÁ, QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH SÀN GIAO DỊCH BẤT ĐỘNG
SẢN
CHUYÊN ĐỀ
ĐIỀU HÀNH, QUẢN LÝ SÀN GIAO DỊCH BẤT ĐỘNG SẢN
HÀ NỘI - NĂM 2008
I - TỔNG QUAN VỀ BẤT ĐỘNG SẢN VÀ THỊ TRƯỜNG
BẤT ĐỘNG SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm bất động sản
Khái niệm bất động sản
Tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc
tiêu dùng. Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được
bằng tiền và các quyền tài sản. Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể
cả quyền sở hữu trí tuệ. Tài sản bao gồm nhiều loại, tuỳ theo tiêu
thức phân chia khác nhau do nhu cầu quản lý và sử dụng. Nhìn
chung, tất cả các nước đều phân chia tài sản thành 2 loại là bất
động sản và động sản. Hình thức phân chia này đã có cách đây
hàng ngàn năm từ thời La mã cổ đại và được ghi trong Bộ Luật
La Mã.
Điều 181 của Bộ Luật Dân sự nước ta quy định: "Bất động
sản là các tài sản không thể di dời được". Như vậy, BĐS trước
hết phải là tài sản, nhưng khác với các tài sản khác là chúng
không thể di dời được. Hay nói cách khác, BĐS là đất đai và
những vật thể cố định gắn với đất đai. Những vật thể gắn với đất
đai là những vật thể tồn tại trên đất và chỉ có thể được sử dụng
trong trạng thái không tách rời đất hoặc là những vật thể mà khi
dịch chuyển sẽ bị hư hại (tính chất, công năng, hình thái sẽ thay
đổi) hoặc tốn nhiều công sức và chi phí như các công trình kiến
trúc, công trình lắp ghép…
Theo điều 181 của Bộ Luật Dân sự nước ta thì BĐS bao gồm:
- Đất đai:
+ Phải là đất không di dời được hoặc di dời được nhưng
không đáng kể (những đất đai di dời như đất trồng cây
cảnh, đất làm vật liệu xây dựng không phải là BĐS);
+ Phải là đất đai đã được xác định chủ quyền;
+ Đất đai đó phải được đo lường bằng giá trị (căn cứ vào số
lượng và chất lượng của đất đai đó)
- Nhà ở, công trình xây dựng gắn với liền với đất đai, kể cả các
tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đó:
+ Nhà cửa xây dựng cố định không thể di dời, hoặc di dời
không đáng kể: nhà ở, trung tâm thương mại, khách sạn,
văn phòng… (những nhà bạt di động của các gánh xiếc,
các lâu đài làm bằng băng đá, các nhà nghỉ di động trên xe
lăn không phải là BĐS mà là các động sản, hoặc công cụ
2
lao động);
+ Các công trình xây dựng công nghiệp, giao thông: như
đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay, bãi đỗ... được xây
dựng gắn liền với đất đai;
+ Các tài sản khác gắn liền không thể tách rời với công trình
xây dựng đó: máy điều hoà trung tâm, các máy móc thiết
bị điều khiển hoạt động của công trình, các cây cảnh trồng
cố định tạo cảnh quan cho công trình (những tài sản có thể
tháo rời mà giá trị công dụng của nó không thay đổi thì
không phải là BĐS như: máy điều hoà di động, các chậu
cây cảnh trong vườn treo, các tranh ảnh và thiết bị đồ dùng
khác);
+ Các công trình đó phải có khả năng đo lường và lượng
hoá thành giá trị theo các tiêu chuẩn đo lường nhất định.
- Các tài sản khác gắn liền với đất đai:
+ Vườn cây lâu năm: bao gồm cả cây trồng và đất trồng
cây;
+ Các công trình nuôi trồng thuỷ sản, cánh đồng làm muối;
+ Các công trình du lịch, vui chơi, thể thao...
+ Một số công trình khai thác hầm mỏ (hầm lò)…
+ Các tài sản khác do pháp luật quy định:
Những đặc điểm chủ yếu của BĐS
Ngoài những điểm cơ bản ở khái niệm nêu trên, BĐS còn có
những đặc điểm cụ thể sau:
Thứ nhất, bất động sản là hàng hoá có vị trí cố định về vị
trí địa lý, về địa điểm và không có khả năng di dời được. Đặc
điểm này là do BĐS sản luôn gắn liền với đất đai, mà đất đai có
đất đặc điểm là có vị trí cố định và có giới hạn về diện tích và
không gian. Đặc điểm này ảnh hưởng lớn đến thị trường BĐS,
đến kinh doanh BĐS. Do đó, vị trí của BĐS như địa điểm cụ thể,
môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý, cảnh quan, kết cấu
hạ tầng… của hàng hoá BĐS có ý nghiã vô cùng quan trọng đối
với giá trị và giá cả BĐS.
3
Thứ hai, bất động sản là loại hàng hoá có tính lâu bền. Tính
lâu bền của hàng hoá BĐS gắn liền với sự trường tồn của đất đai,
loại tài sản do thiên nhiên ban tặng không thể bị tiêu huỷ (trừ một
số trường hợp đặc biệt như: động đất, núi lửa, sạt lở…). Mặt
khác, các công trình xây dựng, công trình kiến trúc và vật kiến
trúc thường có tuổi thọ cao, có thể hàng trăm năm. Ngay trong
nông nghiệp, BĐS là vườn cây lâu năm cũng có thời gian tồn tại
lâu dài. Tuy nhiên tính lâu bền của hàng hoá BĐS rất khác nhau,
tuỳ theo từng loại BĐS cụ thể. Đặc điểm này ảnh hưởng lớn đến
chiến lược kinh doanh, đến đầu tư BĐS cũng như công tác quản
lý, sử dụng BĐS.
Thứ ba, hàng hoá bất động sản mang tính cá biệt và khan
hiếm. Sở dĩ như vậy là do sự khan hiếm và tính có hạn của diện
tích bề mặt trái đất cũng như của từng vùng, từng địa phương,
từng khu vực, từng thửa đất. Tính phức tạp của đất đai về địa
hình, chất đất, vị trí, cảnh quan… đã tạo nên sự khan hiếm và tính
cá biệt của hàng hoá BĐS. Mặt khác, chính sự đa dạng trong ý
tưởng đến thiết kế xây dựng, chế tạo… của chủ đầu tư cũng như
của các kiến trúc sư, các công trình sư và các nhà thiết kế cũng
tạo nên tính cá biệt (tính dị biệt) của hàng hoá BĐS.
Thứ tư, hàng hoá bất động sản mang nặng yếu tố tập quán,
thị hiếu và tâm lý xã hội. Nhìn chung hàng hoá đều có đặc điểm
này, nhưng với hàng hoá BĐS thì đặc điểm này nổi trội hơn. Sở
dĩ như vậy là vì nhu cầu về BĐS ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi yếu tố tập quán, thị
hiếu và tâm lý xã hội, thậm chí, còn bao gồm cả yếu tố tín
ngưỡng, tôn giáo, tâm linh của dân cư ở đó.
Thứ năm, hàng hoá bất động sản chịu ảnh hưởng lẫn nhau.
Giữa các hàng hoá BĐS có sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau
khá mạnh mẽ. Sự ra đời hay sự hoàn thiện của hàng hoá BĐS này
là điều kiện để ra đời hoặc mất đi, để tăng thêm hoặc giảm bớt giá
trị và giá trị sử dụng của hàng hoá BĐS kia. Thí dụ, việc xây
dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội sẽ làm tăng
vẻ đẹp, sự tiện lợi và giá trị của các công trình xây dựng trong
khu vực. Sự ra đời của một con đường mới sẽ dẫn đến sự ra đời
của những tụ điểm dân cư hay các khu công nghiệp, du lịch,
thương mại, dịch vụ… bám theo trục đường đó.
4
Thứ sáu, hàng hoá bất động sản có chịu sự chi phối mạnh
mẽ của pháp luật và chính sách của Nhà nước. BĐS là loại tài
sản quan trọng của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi cơ quan đơn vị
cũng như của mỗi người dân. Các quan hệ giao dịch về BĐS
thường có tác động rất mạnh đến hầu hết những hoạt động kinh tế
và xã hội. Để tăng cường vai trò của mình, nhà nước phải quan
tâm hơn đến BĐS, dó đó buộc phải ban hành nhiều văn bản pháp
luật, nhiều chủ trương, chính sách nhằm thực hiện việc quản lý
chúng. Mặt khác, BĐS gắn liền với đất đai mà đất đai, ở bất cứ
quốc gia nào cũng có pháp luật về đất đai và do đó, nhìn chung,
BĐS chịu sự chi phối mạnh mẽ của pháp luật và sự quản lý của
Nhà nước.
Thứ bảy, hàng hoá bất động sản phụ thuộc nhiều vào năng
lực quản lý. Vì BĐS thường có giá trị lớn và lâu bền, chịu hao
mòn qua thời gian, gồm nhiều chủng loại nên việc quản lý chúng
khá phức tạp, do đó, đòi hỏi người quản lý phải có năng lực cao
và chi phí quản lí cũng phải cao hơn so với các hàng hoá thông
thường. Đặc biệt vấn đề đầu tư xây dựng các công trình xây dựng
rất phức tạp, vấn đề kinh doanh hay cho thuê đất đai, các công
trình xây dựng, nhà ở, văn phòng… cũng đòi hỏi cần có những
nghiên cứu cụ thể và chi phí cho quản lý cũng rất cao.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của thị trường bất động sản
Thị trường bất động sản
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thị trường bất động sản,
song dù là cách hiểu thế nào đi nữa thì điều quan trọng chúng ta
cần hiểu bản chất của khái niệm này. Bất động sản bao gồm
nhiều loại khác nhau, song mọi bất động sản đều gắn liền không
tách rời yếu tố đất đai. Do vậy, các đặc trưng của hàng hoá và thị
trường đất đai luôn là yếu tố đóng vai trò trọng tâm và chi phối
toàn bộ hoạt động trong thị trường bất động sản. Do đó có thể
hiểu về thị trường bất động sản là nơi diễn ra các quan hệ giao
dịch về bất động sản được thực hiện thông qua các quan hệ hàng
hoá tiền tệ.
Các hình thái thô sơ nhất của thị trường BĐS thông qua
việc mua bán trao đổi đã có từ lâu: Từ thời Trung Hoa cổ đại,
thời Vua Ai Cập và Ba Tư cổ... Ngày nay trải qua nấc thang
5
tiến hoá của nhân loại, các lực lượng thị trường, tức là lực
lượng cung và cầu đã trở thành những thực thể ngày càng đa
dạng, tinh vi, phức tạp giống như “bàn tay vô hình”, hướng
dẫn lâu dài về sự phân phối tài nguyên và các nguồn lực xã
hội đến những nơi sử dụng hiệu quả nhất, mà bất cứ sự can
thiệp thô bạo nào của Nhà nước đối với thị trường cũng có thể
làm cho nó biến dạng và trở nên khó điều khiển hơn. Trong
bối cảnh đó, việc nhận thức quan điểm về thị trường nói
chung, thị trường BĐS nói riêng, nhận dạng các hình thái và
tìm hiểu các phương thức ứng xử của những người tham gia
thị trường đã trở thành vấn đề lý thú và hấp dẫn, nhất là trong
thời đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường như ở nước ta.
Thị trường BĐS là hợp phần bắt buộc của quá trình sản
xuất hàng hoá BĐS. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời
và phát triển của sản xuất hàng hoá BĐS.
Từ những phân tích trên một cách hiểu khái quát và phổ biến
nhất về thị trường BĐS là nơi tổng hoà các quan hệ trao đổi hàng
hoá BĐS, tức là quan hệ giao dịch giữa người mua và người bán,
giữa cung và cầu và thực hiện các quan hệ chuyển dịch về giá trị
BĐS.
Tất cả các quan hệ giao dịch về BĐS thông qua quan hệ hàng
hoá, tiền tệ được coi là quan hệ thị trường và tạo nên thị trường
BĐS. Thị trường BĐS chỉ ra đời khi mà trong xã hội có sự trao
đổi, giao dịch mua bán về hàng hoá BĐS. Theo dòng lịch sử thì
đất đai là loại hàng hoá BĐS đầu tiên. Khi chế độ sở hữu về đất
đai được xác lập, khi mà các hoạt động kinh tế phát triển, nhu cầu
sử dụng đất để phục vụ sản xuất và đời sống tăng lên thì quan hệ
về đất đai cũng phát triển và đất đai trở thành hàng hoá. Như vậy,
sự ra đời và phát triển của thị trường BĐS gắn liền với quá trình
đất đai chuyển thành hàng hoá do tất yếu của nhu cầu sử dụng đất
và sự phát triển của các hoạt động kinh tế - xã hội. Trên thực tế
nội dung cơ bản của thị trường BĐS và cũng là cách quan niệm
phổ biến hiện nay về thị trường BĐS theo nghĩa hẹp, đó là thị
trường nhà đất. Vì BĐS nhà, đất vừa mang ý nghĩa kinh tế vừa
mang ý nghĩa chính trị xã hội to lớn, và trong thị trường BĐS thì
thị trường nhà đất được hình thành rõ rệt và vận hành sôi động
nhất. Thị trường đất đai là một bộ phận của thị trường BĐS. Vì
6
vậy, nó gắn liền với sự ra đời và phát triển của thị trường BĐS.
Thị trường đất đai trước hết được hiểu là nơi diễn ra các hành vi
mua và bán hàng hóa quyền sử dụng đất đai cũng như dịch vụ gắn
liền với hàng hóa đó. Quá trình trao đổi - mua và bán quyền sử
dụng đất luôn vận động và phát triển làm cho các phương thức
giao dịch, trao đổi cũng diễn ra nhiều dạng khác nhau.
Bất động sản khác với các hàng hoá khác ở chỗ chúng
không chỉ được mua bán, mà còn là đối tượng của nhiều giao dịch
khác như cho thuê, thế chấp, chuyển dịch quyền sử dụng. Do đó,
thị trường BĐS hoàn chỉnh không thể chỉ là quan hệ giữa người
mua và người bán về BĐS mà còn là nơi diễn ra các giao dịch
liên quan đến BĐS như cho thuê, thế chấp, bảo hiểm và chuyển
dịch quyền sử dụng BĐS...
Do vậy, thị trường BĐS được hiểu như sau: Thị trường bất
động sản là tổng thể các giao dịch về bất động sản dựa trên các
quan hệ hàng hoá, tiền tệ diễn ra trong một không gian và thời
gian nhất định. Trong cách diễn đạt thông thường, khái niệm thị
trường thị trường BĐS thường được nhắc đến là nơi diễn ra các
quan hệ giao dịch về bất động sản, tại đó những người mua và
người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số
lượng hàng hoá và dịch vụ bất động sản được giao dịch. Trong
cách diễn đạt này, khái niệm "nơi" không phải đơn thuần là chỉ
địa điểm mà nó bao hàm các yếu tố không gian và thời gian khi
các quan hệ giao dịch về BĐS diễn ra.
Những đặc điểm chủ yếu của thị trường bất động sản.
Hàng hoá BĐS là loại hàng hoá đặc biệt, khác với các loại
hàng hoá nên thị trường BĐS cũng có những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, Tính cách biệt giữa hàng hoá với địa điểm giao dịch.
Đối với hàng hoá thông thường, địa điểm giao dịch thường
là ở nơi hiện diện của hàng hoá giao dịch, còn đối với hàng hoá
BĐS, địa điểm giao dịch lại cách biệt với hàng hoá BĐS giao
dịch. Đó là do đặc điểm của hàng hoá BĐS: có vị trí cố định,
không thể di dời được. Hoạt động giao dịch BĐS thường được
tiến hành trên các chợ hàng hoá BĐS ảo. Các chợ này rất đa dạng,
có thể là các trung tâm giao dịch lớn (chợ địa ốc), cũng có thể là
một địa điểm nhỏ hẹp với các vật dụng đơn sơ tối thiểu, cũng có
7
thể tại nhà riêng, tại nhà hàng, quán nước, qua mạng internet ....
đều tạo nên chợ giao dịch BĐS.
Quan hệ giao dịch BĐS không thể kết thúc ngay tại địa
điểm giao dịch hay chợ giao dịch mà phải trải qua các khâu như:
- Đàm phán tại chợ giao dịch, cung cấp cho nhau các thông
tin về BĐS giao dịch;
- Kiểm tra thực địa để xác nhận tính có thực và kiểm tra độ
chính xác của thông tin về BĐS;
- Đăng ký pháp lý.
Từ đặc điểm này cho thấy:
- Kiểm soát thị trường BĐS không thể như với thị trường
các hàng hoá khác bày bán trên sạp hàng: tem nhãn, xuất xứ
nguồn gốc, chất lượng… mà phải thông qua quan hệ đăng ký
pháp lý bắt buộc.
- Quan hệ giao dịch BĐS không thể tiến hành trong một thời
gian ngắn, do đó dễ gặp các biến cố của thực tiễn như biến động
của giá cả, thay đổi của pháp luật hay sự thay đổi của các điều
kiện môi trường… Điều đó buộc các bên phải ấn định quan hệ
giao dịch trong một thời điểm nhất định; thời gian diễn ra các
khâu của quá trình giao dịch càng kéo dài, tính rủi ro càng cao, do
vậy muốn nâng cao tỷ lệ thành công của các giao dịch BĐS thì
điều quan trọng là tìm các giải pháp rút ngắn khoảng thời gian
diễn ra các khâu của quá trình giao dịch.
- Mọi đối tượng tham gia vào thị trường BĐS đều phải trải
qua đầy đủ các khâu giao dịch trên. Đó là điều có tính chất bắt
buộc đối với thị trường BĐS chính thức, có kiểm soát của Nhà
nước.
Thứ hai, thị trường bất động sản thực chất là thị trường giao
dịch các quyền và lợi ích chứa đựng trong bất động sản.
Đặc điểm này do đặc điểm của đất đai quy định. Đặc điểm
của đất đai là không hao mòn hay không mất đi (trừ các trường
hợp đặc biệt) và người có quyền sở hữu hay có quyền sử dụng đất
đai không sử dụng đất đai như các hàng hoá khác. Điều mà họ
mong muốn là các quyền hay các lợi ích do đất đai mang lại. Do
8
đó, khi xem xét giá cả đất đai, không thể xác định giá trị của nó
như xác định giá trị của các hàng hoá thông thường mà phải xác
định dựa trên khả năng sinh lợi của đất đai và khả năng sinh lợi
của vốn đầu tư vào đất đai.
Thứ ba, thị trường bất động sản mang tính vùng và tính khu vực sâu
sắc.
Bất động sản có đặc điểm là không thể di dời được, gắn liền
với những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng vùng, từng
khu vực. Do đó, cung và cầu BĐS ở các vùng, các khu vực rất
phong phú và đa dạng, từ số lượng, kiểu cách, mẫu mã, chất
lượng đến quy mô và trình độ phát triển. Mặt khác, BĐS còn có
đặc điểm là phụ thuộc vào tâm lý, tập quán, thị hiếu, do đó, mỗi
vùng, mỗi khu vực cũng có những đặc trưng riêng về cung và cầu
BĐS. Người ta không thể di dời BĐS từ nơi này sang nơi khác,
cũng như không thể di chuyển tâm lý, tập quán thị hiếu từ vùng
này, khu vực này sang vùng khác, khu vực khác, do đó, thị trường
BĐS mang tính vùng và tính khu vực sâu sắc. Thực tế cho thấy,
thị trường BĐS ở các đô thị, ở các vùng đang trong quá trình đô
thị hoá, ở các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, du lịch…
thường có quy mô, trình độ phát triển cao hơn so với các vùng
khác.
Từ đặc điểm này cho thấy sự biến động các quan hệ giao
dịch BĐS thường chỉ diễn ra ở từng vùng, quan hệ cung cầu giá
cả BĐS chỉ ảnh hưởng trong một vùng, một khu vực nhất định, ít
có ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất chậm đến thị trường BĐS của
các vùng, các khu vực khác. Đồng thời, nghiên cứu thị trường
BĐS phải đặt chúng trong từng vùng, từng khu vực, gắn chúng
với các điều kiện thiên nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội của vùng,
của khu vực. Không thể lấy quan hệ cung cầu hay giá cả BĐS của
vùng này, khu vực này áp dụng cho vùng khác, khu vực khác.
Thứ tư, thị trường bất động sản là thị trường không hoàn hảo
Mặc dù thị trường BĐS có nội dung rất phong phú nhưng là
thị trường không hoàn hảo. Sở dĩ như vậy là do các thông tin về
hàng hoá bất động sản trong thị trường không đầy đủ và phổ biến
rộng rãi như các loại hàng hoá khác. Sự so sánh giữa các BĐS
cùng loại khó chính xác vì các tiêu chí đánh giá bất động sản
9
không chính xác như đối với các hàng hoá khác (các kết cấu công
trình, chất lượng công trình, vẻ đẹp kiến trúc, vị trí địa lý… đều
được đo lường một cách tương đối, khó chính xác). Bất động sản
mang tính vùng và khu vực, chúng không liền kề nhau và không
phải bao giờ cũng tìm được BĐS cùng loại để so sánh cạnh tranh
một cách đầy đủ. Hơn nữa, số lượng người tham gia cung và cầu
về mỗi loại BĐS đều có số lượng nhỏ, không đảm bảo tiêu chí
cho cạnh tranh hoàn hảo.
Đặc điểm này dẫn đến những vấn đề sau:
- Giá cả BĐS không hoàn toàn là giá cả cạnh tranh hoàn
hảo, trong nhiều trường hợp là giá sản phẩm đơn chiếc, do đó,
người bán có lợi thế độc quyền, nhờ đó có thể thu lợi cao. Giá cả
độc quyền luôn mang lại lợi ích cao cho người có quyền đối với
BĐS.
- Khi giá cả biến động tăng, tính độc quyền của người cung
cũng tăng thêm làm giá cả BĐS sẽ được đẩy lên cao tạo nên
những cơn sốt về giá. Thị trường BĐS càng sôi động, càng dễ tạo
nên các cơn sốt giá của BĐS.
Thứ năm, cung về bất động sản phản ứng chậm hơn so với biến
động về cầu và giá cả bất động sản.
Đối với các hàng hoá thông thường, quan hệ cung cầu và
giá cả thường diễn ra theo quy luật chung là: khi cầu tăng đẩy giá
tăng lên sẽ kích thích tăng cung cân bằng với cầu và giá lại quay
trở lại mức cân bằng. Tuy nhiên, đối với hàng hoá BĐS, khi cầu
tăng, cung BĐS không thể phản ứng tăng nhanh như các loại
hàng hoá khác. Đó là do đặc điểm của BĐS là thời gian để tạo ra
chúng thường là lâu vì để xây dựng các công trình xây dựng cần
phải có thời gian tìm hiểu mọi thông tin về đất đai, làm thủ tục
chuyển nhượng, xin phép xây dựng, thiết kế, thi công…
Sự phản ứng của cung không kịp cầu sẽ dẫn đến sự biến
động của giá cả theo hướng tăng lên, hình thành những cơn sốt
giá BĐS. Do vậy, Nhà nước cần phải can thiệp nhằm điều chỉnh
quan hệ cung cầu về BĐS, đặc biệt là có các giải pháp để bình ổn
thị trường BĐS, hạn chế và kiểm soát sự gia tăng của cầu về BĐS
không chính đáng (như nạn đầu cơ sinh ra cầu giả tạo).
10
Thứ sáu, là thị trường khó thâm nhập
Sở dĩ như vậy là vì hàng hoá BĐS không bày bán trên thị
trường như các loại hàng hoá khác, người mua và bán BĐS không
có cơ hội và đủ lượng thông tin để lựa chọn được thị trường phù
hợp với BĐS cần giao dịch. Hơn nữa, vì BĐS thường có giá trị
lớn, người mua và bán BĐS thường ít có kinh nghiệm trong giao
dịch đối với loại hàng hóa này, khi giao dịch lại phải hoàn tất
nhiều thủ tục do đó đối với cả người mua cũng như người bán
đều mất rất nhiều công sức để tìm hiểu thị trường, tìm kiến thông
tin.
Do vậy, khi thực hiện các giao dịch trên thị trường BĐS,
cần phải có các nhà tư vấn, môi giới, đó là những người được đào
tạo cơ bản, có kiến thức kinh doanh, am hiểu pháp luật, nhiều
kinh nghiệm. Với sự tham gia của họ, các giao dịch BĐS sẽ trở
nên dễ dàng hơn. Thực tế cho thấy nếu lực lượng tư vấn môi giới
kém phát triển thì sự vận hành của thị trường BĐS sẽ kém hiệu
quả, chi phí giao dịch BĐS sẽ cao.
Do đó, phải coi tư vấn, môi giới trong giao dịch BĐS là một
nghề chuyên nghiệp độc lập. Ngoài việc tổ chức các tổ chức tư
vấn, môi giới thông thường, cần phát huy vai trò của các tổ chức
tín dụng trong tư vấn, môi giới giao dịch BĐS vì chính các tổ
chức này khi thực hiện nghiệp vụ cho vay đã có những bước thẩm
định pháp lý cần thiết và định giá BĐS.
Thứ bảy, thị trường bất động sản chịu sự chi phối của yếu tố
pháp luật.
Bất động sản là loại tài sản có giá trị lớn, do đó, việc quản
lý của Nhà nước đối với chúng bằng pháp luật là cơ sở để bảo
đảm an toàn cho các giao dịch BĐS. Mọi BĐS đều được Nhà
nước quản lý như đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu,
quyền sử dụng, cũng như các biến động của chúng. Mọi giao dịch
BĐS phải có sự giám sát của Nhà nước, đặc biệt trong khâu đăng
ký pháp lý. Sự tham gia của Nhà nước vào thị trường BĐS thông
qua yếu tố pháp luật sẽ làm cho thị trường BĐS ổn định hơn và
11
an toàn hơn. Bất động sản được đăng ký pháp lý theo đúng pháp
luật sẽ có giá trị hơn, chúng được tham gia vào tất cả các giao
dịch, mua bán, chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, thế chấp, góp
vốn liên doanh, cổ phần… Hơn nữa, thông qua kiểm soát thị
trường BĐS, Nhà nước tăng được nguồn thu ngân sách từ thuế
đối với các giao dịch BĐS.
Thứ tám, thị trường bất động sản có mối liên hệ mật thiết với thị
trường vốn.
Đặc điểm này bắt nguồn từ đặc điểm của BĐS là có giá trị
lớn, do đó, mọi giao dịch đầu tư kinh doanh BĐS đòi hỏi một
lượng vốn lớn. Lượng vốn này phải được huy động từ thị trường
vốn.
Thực tế cho thấy nếu không có một thị trường vốn phát triển
lành mạnh và ổn định, thị trường BĐS cũng không thể phát triển
lành mạnh và ổn định được. Những khủng hoảng tài chính trên
thế giới đều dẫn đến sự khủng hoảng của thị trường BĐS. Khi
BĐS sụt giá nhanh sẽ dẫn đến sự gia tăng các khoản nợ khó đòi,
vì thế, các tổ chức tài chính tín dụng có thể bị phá sản.
Thứ chín, thị trường bất động sản là thị trường mà việc tham gia
hoặc rút ra khỏi thị trường là vấn đề khó khăn, phức tạp và cần
phải có nhiều thời gian.
Sở dĩ như vậy là vì BĐS thường là có giá trị lớn, người mua
trên thị trường này không đông, việc mua bán không thể đơn giản
và nhanh chóng như đối với các loại hàng hoá khác. Bất động sản
là những yếu tố vật chất lâu bền, khó chuyển đổi công năng và
tính chất, do vậy không dễ dàng gì thay đổi định hướng đầu tư
khai thác các công trình BĐS. Đặc điểm này đòi hỏi những nhà
đầu tư tham gia thị trường BĐS phải xác định hướng đầu tư dài
hạn, đồng thời phải tính toán mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và
tuổi thọ vật lý để quyết định hướng đầu tư.
II. PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN
Tuỳ theo mục tiêu nghiên cứu và tiếp cận để phân loại thị
trường. Thông thường người ta phân loại thị trường bất động
sản theo 4 cách:
Phân loại dựa vào hàng hoá bất động sản trên thị trường.
12
Dựa vào loại hàng hoá bất động sản, người ta có thể phân chia
thị trường bất động sẩn thành các thị trường đất đai, thị trường
nhà ở; thị trường bất động sản dùng trong dich vụ; thị trường
bất động sản dùng cho văn phòng, công sở; thị trường bất động
sản công nghiệp...
Phân loại dựa vào tính chất quan hệ trao đổi:
Dựa vào tính chất các mối quan hệ xuất hiện trên thị trường,
người ta phân chia thị trường bất động sản thành thị trường
mua bán; thị trường thuê và cho thuê; thị trường thế chấp và
bảo hiểm. Việc phân chia dựa vào tính chất quan hệ về bất
động sản giúp cho các nhà kinh doanh lựa chọn hướng đầu tư
kinh doanh phù hợp nhất.
Phân loại dựa vào trình tự tham gia thị trường:
Dựa vào trình tự tham gia, người ta có thể phân chia thị trường
bất động sản thành thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng
đất đất (Giao, mua, cho thuê) hay còn gọi chung là thị trường
đất đai; Thị trường xây dựng các công trình bất động sản để
bán và cho thuê (thị trường sơ cấp); Thị trường bán hoặc cho
thuê lại bất động sản (gọi là thị trường thứ cấp)
Phân loại theo mức độ kiểm soát của nhà nước:
Dựa vào mức độ kiểm soát, người ta phân chia thị trường bất
động sản thành Thị trường chính thức hay thị trường có kiểm
soát và Thị trường phi chính thức, hay thị trường không được
kiểm soát.
III- CÁC YẾU TỐ CỦA THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN
1- Cầu và phân loại cầu hàng hoá BĐS
Cầu nhà đất là khối lượng nhà đất mà người tiêu dùng sẵn sàng
chấp nhận và có khả năng thanh toán với một mức giá nhất
định để nhận được khối lượng nhà đất đó trên thị trường.
Sự xuất hiện nhu cầu sử dụng về một dạng nhà đất nào đó mà
mỗi người không tự thoã mãn được và người tiêu dùng có khả
năng thanh toán về nhu cầu đó và phải có thị trường để nhu
cầu có khả năng thanh toán được thực hiện sẽ phản ánh cầu về
BĐS.
13
Cầu về đất đai bao gồm đất đai cho sản xuất, đất đai cho công
nghiệp, giao thông, các công trình công cộng, dịch vụ, du lịch,
cầu về đất xây dựng các loại nhà và các công trình bất động sản
khác cầu về nhà ở, cầu về nhà ở kéo theo đó là đất đai để xây
dựng nhà ở. Cầu về đất ở và nhà ở là cầu xuất hiện rộng rãi
nhất và sôi động nhất trên thị trường bất động sản. Do đó thị
trường nhà đất là thị trường sôi động nhất và là chủ yếu trong
thị trường bất động sản. Trên thị trường bất động sản, trong
quan hệ thương mại, ngoài cầu nhà đất thông thường, còn xuất
hiện cầu giả tạo của những người buôn bán bất động sản. Đó là
cầu của những nhà đầu tư buôn bán bất động sản mua đất và
nhà ở để đầu cơ trục lợi. Điều đó làm tăng giả tạo nhu cầu về
nhà ở, có thể gây ra căng thẳng thêm quan hệ cung cầu nhà ở
và làm giá nhà đất tăng lên tại thời điểm nhất định.
Có nhiều nhân tố là các biến số tác động đến sự thay đổi của
cấu về bất động sản. Sự gia tăng dân số là áp lực lớn làm gia
tăng nhu cầu về đất ở và nhà ở. Dân số tăng làm tăng số lượng
gia đình độc lập dẫn đến nhu cầu về diện tích nhà ở của các hộ
gia đình tăng lên. Dân số tăng kéo theo quy mô từng hộ gia
đình tăng lên dẫn đến diện tích nhà ở cũng tăng lên. Sự gia tăng
dân số không phải làm gia tăng nhu cầu về nhà ở mà còn làm
tăng nhu cầu về hoạt động dịch vụ thương mại, du lịch, văn
hoá, giáo dục .... dẫn đến làm tăng nhu cầu về đất đai, nhất là
tại các vùng trung tâm. Sự thay đổi về mục đích sử dụng đất đai
giữa các hoạt động sản xuất khác nhau, giữa các lĩnh vực khác
nhau sẽ làm nẩy sinh thay đổi cơ cấu cầu về đất đai. Cùng với
quá trình phát triển kinh tế, xã hội, việc chuyển đổi mục đích
sử dụng đất sang phục vụ cho việc phát triển nhà ở, kết cấu hạ
tầng, cho nhu cầu về các loại đất làm công sở, văn phòng, trung
tâm dịch vụ và thương mại tăng lên nhiều. Điều đó làm thay
đổi giá cả trao đổi đối với cùng một loại đất, cùng một vị trí
nhưng khác nhau về mục đích sử dụng. Việc làm mới có thu
nhập là cơ sở, điều kiện nâng cao chất lượng đời sống. Đó là cơ
sở cho phần lớn nhu cầu trở thành các nhu cầu có khả năng
thanh toán (cầu về BĐS). Khi thu nhập tăng thì nhu cầu về nhà
ở và đất ở tăng lên rõ rệt. Quá trình đô thị hoá là quá trình tập
trung dân cư vào các đô thị và mở rộng không gian của đô thị.
14
Quá trình đó tác động làm thay đổi căn bản về cầu và kết cấu
cầu nhà ở đô thị, cũng như các công trình với chức năng làm
văn phòng, thương mại, dịch vụ.... Mốt và thị hiếu nhà ở, sự
phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, những chính
sách của chính phủ.... đều là những biến số quan trọng làm thay
đổi cầu bất động sản.
Để đo lường sự tác động của các nhân tố đến sự thay của cầu,
người ta sử dụng hệ số co giãn. Độ co giãn của cầu về bất động
sản là mối quan hệ so sánh giữa tốc độ thay đổi của cầu so với
tốc độ thay đổi của các yếu tố tác động.
ED = Tỷ lệ % thay đổi số lượng cầu / Tỷ lệ % thay đổi của
yếu tố tác động
Từ công thức trên cho thấy: Hệ số ED càng lớn có nghĩa là số
lượng cầu nhà ở càng nhạy cảm với nhân tố tác động, nhân tố
này sẽ làm thay đổi rất lớn của lượng cầu.
2. Cung bất động sản
Cung bất động sản trên thị trường là toàn bộ khối lượng hàng
hoá bất động sản sẵn sàng đưa ra thị trường để trao đổi tại một
thời điểm nào đó với một mức giá nhất định.
Các điều kiện hình thành cung bất động sản trên thị trường:
Người chủ sở hữu bất động sản có nhu cầu bán, giá cả phải phù
hợp với sức mua (khả năng thanh toán) được coi là giá thị
trường được cả người mua và người bán bất động sản chấp
nhận.
Nguồn cung bất động sản bao gồm nguồn cung từ Nhà nước,
do các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước đầu tư xây dựng nhà ở
bằng nguồn vốn ngân sách và các quỹ nhà ở khác thuộc sở hữu
nhà nước. Thông qua khu vực công cộng, nhà nước can thiệp,
điều tiết vào quan hệ cung cầu bất động sản trên thị trường.
Bên cạnh khu vực Nhà nước, nguồn cung bất động sản chủ yếu
được hình thành từ khu vực tư nhân. Đây là khu vực hoạt động
phát triển bất động sản không bằng vốn ngân sách nhà nước do
các tổ chức, các công ty hoặc cá nhân thực hiện tuân thủ theo
các quy tắc chính thức của nhà nước về quản lý xây dựng và
phát triển nhà ở. Nhà nước điều tiết khu vực này thông qua quy
15
hoạch, các quy tắc quy định và tiêu chuẩn xây dựng. Mục đích
chính của các công ty phát triển nhà ở tư nhân là thu lợi nhuận
tối đa. Do vậy, nếu để phát triển tự do khu vực nhà ở tư nhân
luôn hướng vào việc xây dựng các khu nhà ở có lợi nhuận và
thu nhập lớn, không chú ý đền tính xã hội và môi trường. Khu
vực nhà ở không chính thức là hoạt động xây dựng nhà ở hoàn
toàn độc lập với những khuôn khổ, quy tắc, quy định của chính
phủ. Trong điều kiện luật pháp không được quy định chặt chẽ,
rõ ràng, những quy định về quyền sở hữu và quyền sử dụng nhà
ở không đầy đủ thì hoạt động kinh doanh nhà ở không chính
thức càng phát triển và cơ hội làm giàu cho các nhóm người
thâu tóm “thị trường đen” này. Đây là những nhà ở chưa có đủ
điều kiện để thừa nhận theo các quy định pháp lý. Điều này đòi
hỏi tăng cường quản lý nhà nước thông qua các công cụ pháp
luật, quy hoạch, kế hoạch....
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cung bất động sản trên thị
trường, trong đó nhân tố có tính chất quyết định là cung về quỹ
đất phát triển bất động sản trong quy hoạch của chính phủ. Đây
là cơ sở quan trọng nhất quyết định đến tổng cung về nhà đất.
Sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng cũng là một nhân tố
quan trọng làm thay đổi lượng cung nhà đất. Các yếu tố đầu
vào và chi phí phát triển nhà ở. Nguồn nguyên liệu vật liệu cho
xây dựng nhà sẵn có, phong phú thì làm cho tốc độ xây dựng
nhà ở mạnh hơn. Giá cả nguyên vật liệu xây dựng thấp thì giá
thành xây dựng thấp làm tăng khả năng cung về nhà ở. Pháp
luật và chính sách của Nhà nước mặc dù không làm thay đổi về
yếu tố vật chất song nó lại có vai trò rất lớn trong việc đưa các
nguồn bất động sản vào lưu thông làm thay đổi nguồn cung bất
động sản trên thị trường.
Đối với các hàng hoá thông thường, cung hàng hoá thường có
co giãn thuận chiều so với nhân tố giá cả. Đối với cung về hàng
hoá bất động sản tình hình lại không hoàn toàn như vậy. Độ co
giãn cung nhà đất so với biến động của giá cả nhà đất nói
chung là rất nhỏ. Điều này là do: Khi giá đất ở tăng lên một bộ
phận đất đai thuộc quy hoạch cho đất đang ở tăng lên hoặc các
loại đất khác chuyển sang mục đích sử dụng cho đất ở tăng lên.
Nhưng số lượng cung đất ở đó bị hạn chế bởi tổng quỹ đất ở và
16
sự ràng buộc chặt chẽ về pháp luật và chính sách của chính
phủ. Khi giá nhà đất tăng lên nhưng cung nhà đất không phản
ứng mau lẹ theo sự tăng lên của giá cả, bởi vì việc xây dựng
nhà ở đòi hỏi vốn lớn và thời gian xây dựng dài nên lượng cung
nhà đất đưa vào thị trường cũng bị hạn chế.
3- Quan hệ cung cầu bất động sản
Khi cung nhỏ hơn cầu có nghĩa là khối lượng hàng hoá cung
ứng trên thị trường không đáp ứng được nhu cầu dẫn đến giá cả
thị trường hàng hoá đó tăng lên. Khi cung bằng cầu có nghĩa là
khối lượng hàng hoá đáp ứng đủ nhu cầu sẽ dẫn đến giá cả cân
bằng và không thay đổi. Khi cung lớn hơn cầu tức là khối
lượng hàng hoá cung ứng vượt quá cầu làm giá cả thị trường
giảm xuống.
Trong thị trường cạnh tranh, giá cả điều tiết lượng cung cầu.
Giá cả thị trường của một hàng hoá nào đó tăng lên sẽ kích
thích cung làm cho khối lượng cung tăng lên, đồng thời hạn chế
cầu làm cho cầu giảm xuống. Ngược lại, trong trường hợp giá
cả thị trường giảm xuống thì sẽ kích thích cầu, hạn chế cung
(cầu tăng, cung giảm ). Do đó, thông qua giá cả thị trường nhận
biết được quan hệ cung cầu và tác động trở lại cung cầu, hình
thành cung cầu mới phù hợp với sản xuất và tiêu dùng xã hội.
Giới hạn thấp nhất của giá cả thị trường là chi phí sản xuất, giới
hạn cao nhất là sự chấp nhận của người tiêu dùng. Quan hệ
giữa cung và cầu đối với mọi mặt hàng hoá và dịch vụ trên đây
là quan hệ mang tính chất quy luật, nhưng để nhận biết được sự
vận động của cung cầu thị trường yêu cầu chúng ta phải xem
xét đầy đủ đặc tính và những nhân tố tác động đến lượng cung
cầu bất động sản. Như trên đã trình bày, cung cầu bất động sản
chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Sự thay đổi của bất cứ yếu
tố nào đều có ảnh hưởng đến lượng cung hoặc lượng cầu, làm
cung hoặc cầu chuyển dịch và giá cân bằng trên thị trường bất
động sản sẽ thay đổi.
Mặc dù tổng cung và tổng cầu về bất động sản là cố định. Tuy
vậy, cung đất cho từng mục đích sử dụng cụ thể có thể thay đổi.
Việc xây dựng nhà thường mất nhiều thời gian, bởi vậy cung
17
nhà đất không thể phản ứng nhanh chóng đối với sự thay đổi
của cầu.
Giá
S
Trong ngắn hạn: cung một loại nhà đất cụ thể có thể hoàn toàn
không co giãn. Ví dụ: Nhà ở cho thuê ở một thành phố với số
lượng nhất định. Nhưng
trong một thờiE1
hạn hết sứcD1
ngắn , cầu
P1
thuê nhà ở tăng lên làm cho giá thuêE2
nhà tăng lên.
D2
S nh
P2
Q2
Q1
Q (Sản lượng)
Giá
Như vậy, cung ngắn hạn ít co giãn hơn cung dài hạn và một sự
thay đổi lượng cầu cũng làm cho E1
giá cả nhà đất trong ngắn hạn
thay đổi mạnh
P1 hơn trong dài hạn.
D1
E2
18
P2
Q1 Q2
D2
Q (Sản lượng)
Trong dài hạn: Tiền thuê nhà cao hơn khuyến khích người ta
sửa sang và xây thêm nhà cho thuê, nên lượng cung tăng dẫn
đến giá thuê nhà giảm xuống.
Giá
S dh
Trong ngắn hạn khi cầu tăng, cung nhà đất ít co giãn nên giáĐồcảthị về
đường
tăng mạnh. Trong dài hạn, cung dài hạn co giãn nhiều hơn
cung dài
cung ngắn hạn nên giá tăng ít hơn so với ngắn hạn .
E1
P1
D1 đường
hạn
Với những phân tích trên đây cho thấy, việc dịch chuyển
E2
cung sang phải hoặc sang trái chịu tác động của nhiều nhân tố.
D2
Những nhân tố chủ
yếu:
chính
sách
về
nhà
đất
của chính phủ
P2
(chính sách giao đất và quyền sử dụng đất ở, chính sách cho
thuê đất, thuê nhà đất quy định thủ tục về xây dựng, quy hoạch
Q2 Q1
Q (Sản
đất đai và phát triển đô thị...) kết cấu hạ tầng, đầu tư xây
dựnglượng)
phát triển kinh doanh nhà ở. Mặc dù cung nhà đất có xu hướng
làm dịch chuyển đường cung về bên phải, nhưng trong bối cảnh
đường cầu cũng luôn luôn tăng lên và thậm chí tăng còn nhanh
hơn, thường xuyên hơn so với sự gia tăng về tính thời điểm. Do
vậy, mặc dù đường cung có xu hướng dịch chuyển sang phải
song sự giảm giá nhà đất chỉ tạm thời, thị trường nhanh lấy lại
sự cân bằng cung cầu và giá nhà đất tăng lên là một xu hướng
bền vững.
19
III- XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG BẤT
ĐỘNG SẢN
3.1. Sự ra đời thị trường bất động sản ở Việt Nam.
Sự xuất hiện các quan hệ hàng hoá tiền tệ trong giao dịch về
BĐS đã từng xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm, khởi đầu là các
giao dịch về đất đai và nhà ở đã từng xuất hiện và tồn tại từ thời
phong kiến xa xưa cũng như thời kỳ Pháp thuộc. Từ sau cách
mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1980, ở Việt Nam tồn tại chế độ
đa sở hữu về đất đai: sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu của
các tổ chức và sở hữu Nhà nứơc. Các hoạt động giao dịch mua
bán, cho thuê, cầm cố giữa các cá nhân về đất đai và nhà ở đã
xuất hiện tuy không phải là phổ biến nhưng vẫn được thực hiện
theo truyền thống tập quán cộng đồng, do các bên tham gia giao
dịch tự thoả thuận với nhau. Mặc dù không có các văn bản pháp
luật quy định về giao dịch BĐS, song Nhà nước vẫn thừa nhận và
làm các thủ tục xác nhận cho các giao dịch mua bán và thu thuế
trước bạ khi đăng ký quyền sở hữu nhà đất.
Trước năm 1980, tài sản quốc gia trong đó có BĐS được tồn
tại dưới 3 hình thức sở hữu khác nhau là: sở hữu nhà nước - toàn
dân; sở hữu tập thể - hợp tác xã và sở hữu tư nhân, kể cả các nhà
tư sản dân tộc. Do tồn tại 3 hình thức sở hữu khác nhau về BĐS,
nên bất động sản vẫn tham gia vào quá trình trao đổi (mua - bán)
một cách bình thường.
Trong thực tế, người bán tài sản trên đất cho người mua đều
tính cả tiền đất và người mua tài sản cũng chấp nhận trả tiền đất
cho người bán tài sản. Từ đây, đã hình thành “thị trường ngầm”
về đất đai - bất động sản và không ít tổ chức, cá nhân đã lợi dụng
việc Nhà nước cho phép bán tài sản trên đất để bán đất kiếm lời
bất chính và Nhà nước không kiểm soát được.
Trong bối cảnh chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị
trường và khuyến khích thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá,
các quan hệ hàng hoá tiền tệ được phát triển rộng rãi trong các
quan hệ sử dụng, trao đổi các yếu tố cơ bản của lực lượng sản
xuất, trong đó bao hàm cả yếu tố đất đai. Trước đòi hỏi của thực
tế phát triển, Hiến pháp năm 1992 đã quy định: "Tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển nhượng
20
- Xem thêm -