Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cái bi và nghệ thuật bi kịch của Shakespear qua các vở bi kịch Rômeô - Juliet,Hă...

Tài liệu Cái bi và nghệ thuật bi kịch của Shakespear qua các vở bi kịch Rômeô - Juliet,Hămlet,Ôtenlô,Vua Lear,Macbeth

.PDF
86
712
97

Mô tả:

BỘ GIÁODỤC VÀ ĐÀO TẠO T 2 4 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH T 2 4 KHOA NGỮ VĂN T 2 4 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP T 2 4 NIÊM KHOÁ 1995 – 1999 T 2 4 MÔN VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY T 2 4 ĐỀ TÀI: T 2 4 CÁI BI VÀ NGHỆ THUẬT BI KỊCH CỦA SHAKESPEAR QUA CÁC VỞ KỊCH RÔMEÔ – JULIET, HA8MLET, ÔTENLÔ, VUA LEAR, MACBETH T 2 4 NGƯỜI HƯỚNG DẪN: GS. LƯƠNG DUY TRUNG T 2 4 SINH VIÊN THỰC HIỆN: TỐNG THỊ THIỀU HƯƠNG T 2 4 TP. HỒ CHÍ MINH – 1999 T 2 4 T 2 4 LỜI CẢM ƠN T 2 4 Em xin cảm ơn thầy Lương Duy Trung- người đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn này. Nhân đây em xin ngỏ lời biết ơn đến Thầy cô trong khoa ngữ vănđã không quản nhọc nhằn dạy dỗ em và các bạn trong những năm vừa qua. Sinh viên: Tống Thị Thiều Hương MỤC LỤC MỤC LỤC ............................................................................................................................ 5 T 9 4 T 9 4 PHẦN I:DẪN LUẬN ........................................................................................................... 7 T 9 4 T 9 4 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................................. 7 T 9 4 T 9 4 II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ...................................................................................................... 8 T 9 4 T 9 4 PHẦN II: CHƯƠNG KHẢO LUẬN ................................................................................ 10 T 9 4 T 9 4 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ XÃ HỘI LỊCH SỬ ........................................................................ 10 T 9 4 T 9 4 1.1.Thời đại Phục Hưng ............................................................................................. 10 T 9 4 T 9 4 1.2.Nền văn hóa văn nghệ Phục Hưng ....................................................................... 10 T 9 4 T 9 4 1.3. Nước Anh thời Phục Hưng .................................................................................. 12 T 9 4 T 9 4 1.4. Shakespear - cuộc đời và các giai đoạn sáng tác của ông. .................................. 14 T 9 4 T 9 4 CHƯƠNG 2: CÁI BI VÀ NGHỆ THUẬT BI KỊCH CỦA SHAKES PEARE ............ 17 T 9 4 T 9 4 2.1.NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG............................................................................... 17 T 9 4 T 9 4 2.1.1.Cái bi ................................................................................................................. 17 T 9 4 T 9 4 2.1.2. Bi kịch .............................................................................................................. 17 T 9 4 T 9 4 2.1.3. Nguồn gốc của cái bi và bi kịch. ...................................................................... 20 T 9 4 T 9 4 2.1.4. Nghệ thuật bi kịch ............................................................................................ 22 T 9 4 T 9 4 2.2.CÁI BI VÀ NGHỆ THUẬT BI KỊCH CỦA SHAKESPEARE. .............................. 24 T 9 4 T 9 4 2.2.1. Bi kịch của Shakcspeare nguyên nhân và nguồn gốc ....................................... 24 T 9 4 T 9 4 2.2.2.CÁI BI VÀ NGHỆ THUẬT BI KỊCH CỦA SHAKESPEARE QUA TỪNG VỞ BI KỊCH .............................................................................................................. 26 T 9 4 T 9 4 2.2.2.1. Bi kịch Rômêô và Juliét............................................................................ 26 T 9 4 T 9 4 2.2.2.2. Hămlet - Một sự nghiệp quá lớn đặt trên một đôi vai quá yếu. ................ 37 T 9 4 T 9 4 2.2.2.3. "Ôtenlô " tấn bi kịch về lòng tin tan vỡ. ................................................... 53 T 9 4 T 9 4 2.2.2.4. Vua Lear : Bi kịch của ý thức cá nhân cực đoan ...................................... 65 T 9 4 T 9 4 2.2.2.5. Macbeth .................................................................................................... 74 T 9 4 T 9 4 TỔNG KẾT ........................................................................................................................ 83 T 9 4 T 9 4 5 THƯ MỤC THAM KHẢO ............................................................................................... 88 T 9 4 T 9 4 6 PHẦN I:DẪN LUẬN . ..oOo... T 6 4 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI "Trong mỗi con người chúng ta ai cũng chỉ có một lần sinh ra và cũng chỉ có một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là nghệ thuật luôn luôn sống mãi với thời gian" (Van-goc). Có lẽ Shakespear và bi kịch của Shakespear là trường hợp như thế . Đã gần 400 trôi qua, đã trải qua biết bao thế hệ nhưng tên tuổi của Shakespear và tác phẩm của Shakespear vẫn sống mãi với chúng ta. Những bộ phim, những vở kịch : Rômeo -Juliet, Hămlet, Otenlô…vẫn không bao giờ ngớt khách dẫu có chiếu đi chiếu lại đến mấy trăm lần. Giữa Shakespear và chúng ta có biết bao điều cách biệt cả về "không gian và thời gian. Từ khi Shakespear mất cho đến nay nhân loại đã tiến lên những bước tiến khổng lồ, thời đại đã bao lần hưng vong, điều kiện xã hội - chính trị đã bao lần thay đổi, khoa học kinh tế đạt đến những đỉnh cao chưa từng thấy, văn hóa trải qua một chặng đường dài.... Những tưởng Shakespear phải xa lạ với con người hiện đại con người của thế kỷ XX nhưng không Shakespear vẫn sống mãi với chúng ta. Cùng với sự tiến bộ xã hội, con người biết đến với Shakespear ngày càng nhiều, cách hiểu về Shakespear ngày càng sâu sắc hơn, sự tiếp thu thẩm mỹ những di sản của Shakespear ngày càng cao hơn...đó chính là điều kỳ diệu của Shakespear và những tác phẩm của ông. Dẫu cho biết bao đổi thay nhưng mỗi thế hệ chúng ta đều tìm thấy trong mỗi tác phẩm Shakespear một cái gì tha thiết với cuộc sống mình. Shakespear của Anh cũng như Nguyễn Du của Việt Nam và cũng như các thiên tài khác chúng ta càng tìm hiểu càng thấy mới, càng thấy ngạc nhiên, càng thấy hay, càng thấy đẹp. Bởi vì Shakespear đúng như Ben - Jon - xơn, một nhà thơ nhà 7 soạn kịch đương thời với Shakespear đã viết "Shakespear là linh hồn của thời đại ông không chỉ thuộc về thời đại minh mà thuộc về tất cả mọi thời đại ... tự anh, anh đã là một đài kỷ niệm, không cần mộ chí anh sẽ sống khi sách anh còn sống và khi chúng tôi còn đủ trí thông minh để đọc sách anh, ca ngợi anh". Xã hội ngày càng phát triển thì cũng đồng thời nảy sinh ra nhiều vần đề phức tạp khó giải quyết, bên cạnh những tiến bộ cũng còn tồn tại nhiều mâu thu ẩn khó giải quyết mà "nghệ thuật là tấm gương phản ánh đời sống. Do đó ngành kịch Việt Nam cưa chúng ta còn phải học hỏi rất nhiều ở Shakespear, bi kịch Shakespear, nhất là nghệ thuật bi kịch của ông, những sáng tác của Shakespear vẫn luôn là những đề tài hay và hấp dẫn, càng đi sâu vào nghiên cứu chúng ta càng thấy cái hay cái đẹp cái ý nghĩa tiềm ẩn trong nó, mà chúng ta cần phải học hỏi, phải bắt chước ông. Bộ môn văn học nước ngoài Lớp 10 trường phô thông trung học thì phần văn học Phục Hưng chiếm một vị trí khá quan trọng, trong đó Shakespear và bi kịch của ông cũng chiếm một vị trí đặc biệt, số tiết dành cho Shakespear và bi kịch của Shakespear là không ít. Shakespear và bi kịch của ông luôn là đề tài mà tôi cảm thấy hứng thú bởi nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của nó. Chính những điều này đã thúc đẩy tôi chọn đề tài : "Cái bi và nghệ thuật bi kịch của Shakespear qua các vở bi kịch Rômeo - Juliet, Hămlet, Otenlô, Vua Lear, Macbeth". Và mong muôn góp một phần ý kiến của mình về cái bi và nghệ thuật bi kịch của Shakespear. Tất nhiên trên khuôn khổ hạn hẹp của luận văn này, tôi không thể nêu được hết tất cả những vấn đề mà bi kịch Shakespear đề cập. II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Ben Jon-Xơn (1573 -1637) một nhà thơ và một nhà soạn kịch nổi tiếng 8 đương thời với Shakespear đã viết về Shakespear "Shakespear là linh hồn của thời đại. Ông không chỉ thuộc về thời đại mình mà thuộc về tất cả mọi thời đại... Tự anh, anh đã là một đài kỷ niệm, không cần mộ chí anh sẽ sống khi sách anh còn sống và khi chúng tôi đủ trí thông minh để đọc sách anh, ca ngợi anh". Đã hơn ba thế kỷ trôi quan những tác phẩm cua Shakespear vẫn sống mãi với nhân loại, vẫn được mọi người ngưỡng mộ và yêu mến. Trên thế giới nhất là từ thế kỷ XIX. Người ta đã viết về Shakespear và kịch Shakespear với một khối lượng khổng lồ gấp trăm gấp nghìn lần sáng tác của ông. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu nhà lý luận phê bình, nhà Shakespear học nổi tiếng trên thế giới nghiên cứu về Shakespear và kịch Shakespear như: Hegel, Mác, Puskin, Biêlinxky, A.Asmirnov, Khrapptenko, A.Anixt. Các nhà nghiên cứu đều đưa ra những nhận định đáng giá của riêng mình về thiên tài Shakespear và đặc biệt kịch Shakespear. Nhìn chung khi nghiên cứu về Shakespear và bi kịch của Shakespear các nhà nghiên cứu đều đánh giá rất cao thiên tài nghệ thuật Shakespear. họ điều thừa nhận Shakespear là một thiên tài nghệ thuật kịch đặc biệt là bi kịch. Shakespear đã đạt tới đỉnh cao chót vót của nghệ thuật bi kịch "Shakespear là thiên tài lớn nhất trong những người sáng tạo, nhà thơ tuyệt diệu nhất, điều đó không còn nghi ngờ gì nữa. Shakespear con người kỳ diệu, con người vĩ đại, con người không ai sánh nổi đã bắt được mạch đập của vũ trụ" (Biêlinxky). Với bi kịch Shakespear các phạm trù về cái bi, bi kịch, nghệ thuật bi kịch, nhân vật bi kịch, số phận bi kịch được mở rộng và nhân cao khái quát hơn so với những quan niệm cố điên truyền thông. Shakespear đã đưa bi kịch tính cách lên mức độ cao chưa từng thấy "nhân vật mà Shakespear miêu tả là nhân 9 PHẦN II: CHƯƠNG KHẢO LUẬN . ..()()()... T 6 4 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ XÃ HỘI LỊCH SỬ 1.1.Thời đại Phục Hưng Thế kỷ XV - XVI ở Tây Âu được gọi là thời đại Phục Hưng trong đó con người "muốn làm sống lại, muốn tái sinh nền văn hóa cổ đại" - Nền văn hóa ra đời trước đạo Gia Tô và chưa hề biết đến Thần Học là gì, Kinh viện học là gì, một nền văn hóa đã đâm hoa kết quả khi chế độ phong kiến chưa hình thành chưa hề bị trói buộc bởi những xiềng xích của luân lý đạo đức phong kiến. Nền văn hóa đó coi trọng con người và đời người. Con người thời đại Phục Hưng muốn tái sinh lại nhưng tinh hoa đó để đấu tranh xây dựng một cuộc sống mới hoàn toàn khác hẳn cuộc sống con người xưa, một cuộc sống văn minh và tiến bộ hơn. Thời đại Phục Hưng là thời đại quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản, giai cấp tư sản hình thành đang phản đối lại chế độ phong kiến cả về hai mặt ý thức và kinh tế. Đây là bước ngoặt lịch sử vĩ đại mang tính chất hai mặt : một mặt đó là "thời đại cần đến những con người khổng lồ và sản sinh ra những con người khổng lồ, khổng lồ về tư tưởng, về nhiệt tình về tính cách, khổng lồ về tài nâng nhiều mặt, về hiểu biết sâu rộng"(Angghen). Thời đại Phục Hưng là một sự khám phá mới ra vũ trụ và con người. Mặt khác thời đại Phục Hưng đồng thời là thời đại tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản đây là thời đại mà như Mác đã kết luận "đứa trẻ tư bản sơ sinh toát và máu và dơ bẩn ở tất cả các lỗ chân lông của nó từ đầu đến chân" (Tư bản) 1.2.Nền văn hóa văn nghệ Phục Hưng Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật thời kỳ này đã xuất hiện nhiều tài 10 năng khổng lồ trong đó thế kỷ XV đạt đến trình độ chín muồi của tư tưởng nghệ thuật. Thế kỷ này đã sản sinh ra ba ngôi sao tiêu biểu nhất trên văn đàn bây giờ : Rabelais; Cervantes, Shakespear. Văn học Phục Hưng khẳng định những giá trị to lớn của nền văn hóa Hy Lạp cổ đại, nền văn hóa mà trong đó nhân phẩm con người được tôn trọng, cuộc đời trần thế được đề cao, hạnh phúc trần tục được chấp nhận. Văn hóa văn nghệ thời kỳ này lên tiếng chống lại những quan niệm mà thời trung cổ đề ra. Thời kỳ trung cổ trong đó giáo hội thiên chúa đóng vai trò quan trọng chi phối toàn bộ sinh hoạt xã hội đã đưa ra những luật lệ hà khắc đối với con người. Nhà Thờ chủ trương cấm dục, nền văn học thời trung cổ không có tình yêu nam nữ, quan hệ tình cảm giới tính cùng không có chỉ có duy nhất mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa. Nội dung cốt yếu của văn học Phục Hưng là đập tan chủ nghĩa quyền uy, ngu dân, thần bí, khổ hạnh, cấm dục. Hệ tư tưởng chủ đạo, hạt nhân cơ bản, điểm xuất phát và qui tụ của toàn bộ nền văn học Phục Hưng là chủ nghĩa nhân văn. ♦Chủ nghĩa nhân văn : (Humanus) "là toàn bộ những quan niệm đạo đức chính trị bắt nguồn không phải từ cái gì siêu nhiên, kỳ ảo, từ những nguyên lý ngoài đời sống nhân loại mà từ con người tồn tại thực tế trên mặt đất với những nhu cầu, những khả năng trần thế và hiện thực của nó, và những nhu cầu và những khả năng đó phải được phát triển đầy đủ, phải được thỏa mãn" (Chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa xã hội - Vôn Ghin). Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa nhân văn là giải phóng con người ra khỏi xiềng xích phong kiến gông cùng của nhà thờ để họ tự do phát triển những khả năng vô tận của họ. Chủ nghĩa nhân văn trả con người về với thế giới trần tục để họ tận hưởng những khát vọng khổng lồ về vật chất và tinh thần của họ. 11 1.3. Nước Anh thời Phục Hưng Vào thế kỷ XV - XVI nước Anh bước vào một thời đại mới, thời đại tan rã những quan hệ phong kiến và hình thành những quan hệ tư bản chủ nghĩa trong đó "giai cấp quí tộc cũ bị tiêu diệt hoàn toàn trong cuộc chiến "hai hoa hồng" và được thay thế bằng một giai cấp thuộc dòng dõi tư sản (Tiu - đô) và có khuynh hướng tư sản" (Ang ghen). Nước Anh đến triều đại Alizabeth, đây là giai đoạn "nước Anh vui vẻ". Nhưng thực chất của giai đoạn này lại sản sinh ra nhiều vấn đề. Đây là thời kỳ thắng lợi huy hoàng của nước Anh. Nước Anh chiến thắng "hạm đội vô địch" của Tây Ban Nha trở thành cường quốc số một ở Châu Âu. Nhưng bên cạnh đó những cuộc đấu tranh trong nội bộ nước Anh vẫn diễn ra gay gắt : đấu tranh giữa bọn quí tộc phong kiến cũ với chính quyền chuyên chế và giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản làm giàu trên xương máu và sức lao động của nhân dân, chúng bóc lộc sức lao động của nhân dân. Đây cũng là thời kỳ nước Anh phát triển mạnh về ngành công nghiệp, đặc biệt là kỹ nghệ len dạ -cánh đồng được phá đi trồng cỏ để nuôi cừu, chính điều này người dân đã bị cướp hết ruộng đất, bị đuổi ra khỏi làng mạc trở thành nhưng kẻ lang thang không nhà cửa bán sức lao động để kiếm sống. Đây chính là thời kỳ tích lũy nguyên thủy tư bản của nghĩa của nước Anh. Về mặt tôn giáo đây cũng là thời kỳ nước Anh xây dựng nền quốc giáo của mình, thoát ly khỏi ách thống trị của giáo hội La Mã. Quá trình xây dựng Anh quốc giáo cũng là quá trình đấu tranh đổ máu. Ngay dưới triều Elizabeth các tín đồn theo cơ đốc giáo vẫn nhiều lần nổi dậy và các cuộc khởi nghĩa đó đều dìm trong biển máu. Tất cả những chuyển biến về kinh tế, chính trị, xã hội nói trên là cơ sở tốt cho nước Anh tiếp thu trào lưu nhân văn chủ nghĩa. * Phong trào văn hóa văn nghệ Anh thời kỳ này phát triển rực rỡ. Nước Anh trở thành người khổng lồ vượt các nước Tây Âu về triết học, xã hội học, 12 văn học... Như nhà triết học duy vật Bacon (1561 - 1626), nhà xã hội học không tưởng Thomas More. Về văn học cũng có nhưng đại biểu xuất sắc về thi ca như : Thomas Nau (1503 - 1542). Phillip Sidney (1552 - 1599), Edmund Spener (1552 - 1599), của văn xuôi như : John Lyly (1554 - 1606), Thomas Lodge (1558 - 1628), Robert Green (1558 - 1592), .... Và đặc biệt phát triển nhất là bi kịch vì trong các loại thể loại văn học kịch là loại hình nghệ thuật có khả năng phản ánh xã hội hơn cả. Truyền thống kịch dân gian thời trung cổ bắt gặp phong trào văn học Phục Hưng đã được tiếp thu nguồn sinh khí mới. Trước William Shakespear bước vào kịch trường nền kịch Anh có hai khuynh hướng tiêu biểu. John Lyly và Rober Greene chuyên chú mô tả những cái êm dịu nhẹ nhàng tinh tế. Đề tài mà họ đề cập thường là những mối tình éo le, trắc trở trong thần thoại hoặc trong truyền thuyết nhưng với lối văn đối thoại tinh tế ý vị gây cười nhẹ nhàng. Kịch của Greene có nhiều tính chất bi thảm nhưng kết thúc thường vui vẽ và chú trọng yếu tố yêu nước. Thomas Kyd (1558 - 1594) và Christapher Marcovv (1564 - 1593) : chú trọng mô tả nhưng cảnh rùng rợn đen tối đẫm máu và nước mắt. họ đề cập đến hai chủ đề hoàn toàn mới mẻ: chủ đề hận thù với những cảnh tràn đầy nước mắt và máu. Chủ đề khát vọng với những nhân vật có dục vọng ghê gớm phi thường, khát vọng chinh phục toàn thế giới. Tliomas Kyd và Marcovv là hai tác giả lớn nhất của kịch trường Anh trước Shakespear. Shakespear tiếp thu cả hai khuynh hướng này vận dụng và phát huy hơn nữa thế mạnh của mỗi xu hướng kết hợp cả hai và tạo ra một phong cách nghệ thuật kịch đặc sắc làm rạng rỡ cho nền kịch Anh 13 1.4. Shakespear - cuộc đời và các giai đoạn sáng tác của ông. William Shakespear là : "linh hồn của thời đại, kỳ tài của sân khấu, Shakespear không chỉ thuộc về thời đại mình mà còn thuộc về tất cả mọi thời đại" (B. Johnson) "Shakespear là thiên tài lớn nhất trong những người sáng tạo. Nhà thơ tuyệt diệu nhất, cái đó không nghi ngờ gì nữa. Shakespear con người kỳ diệu, con người vĩ đại, con người không ai sáng nổi đã bắt được mạch đập của vũ trụ" (Biêlinxky) "trang đầu tiên của Shakespear mà tôi được đọc, đã chinh phục tôi suốt đời, cuộc sống của tôi được nhân lên đến vô cùng" (Goethe). Shakespear sinh ngày 23 - 4 - 1564 tại Strafor (Anh). Cha là John Shakespear một công dân giàu làm thị trưởng thường chủ trì các buổi diễn kịch. Mẹ là Mary Arden, con gái một gia đình có tiếng tăm. Năm 23 tuổi Shakespear thị trấn quê hương, gia đình lên kinh thành Luân Đôn để tìm một hướng đi cho hoài bảo của mình. Con đường đến với nghệ thuật của Shakespear đầy gian khổ. Lúc đầu ông làm chân giữ ngựa ở cổng rạp hát, sau đó làm người soát vé, nhắc vở, làm diễn viên rồi đến đạo diễn và vinh quang nhất khi ông trở thành một kịch gia. Trải qua biết bao gian truân chìm nổi Shakespear đã đạt đến tuyệt đỉnh vinh quang, từ một con người không có bằng cấp không là quí tộc mà trở thành một nhà soạn kịch nổi tiếng mà cả thế giới ngưỡng mộ và kính phục. Shakespear mất ngày 23 - 4 -1616. Để lại 40 vở kịch trong đó có những vở được coi là báu vật của kho tàng văn học thế giới. Shakespear là kẻ thù của tư tưởng thời trung cổ, của thái độ cuồng tín trong tôn giáo và tệ phân biệt chủng tộc. Trong các tác phẩm của Shakespear ông tôn trọng sự bình đẳng, giá trị đạo đức của con người thuộc về tất cả các giai cấp và mọi chủng tộc. Ông tập hợp tất cả những tinh hoa ưu tú nhất của các nền văn học : văn học cổ đại, văn học dân gian, văn học Phục Hưng để tạo 14 nên tác phẩm nghệ thuật của mình và đã đưa nó lên tuyệt đỉnh vinh quang của nghệ thuật. Ông đã tổng hợp được cả hai khuynh hướng bi kịch đương thời là : tươi tắn nhẹ nhàng và rùng rợn đẫm máu, đồng thời phản ánh được sự chuyển biến phi thường của thời đại cả cái huy và cái đen tối, cái bi và cái hài của nó. Các nhà nghiên cứu thường chia quá trình sáng tác của Shakespear thành ba giai đoạn: 1 . Giai đoạn thứ nhất (1592 - 1600) : màu xanh của mùa T 2 3 xuân. Đây là giai đoạn ra đời của những tác phẩm mang tính lãng mạn, lạc quan yêu đời mà tiền đề là xã hội lịch sử nước Anh vui tươi dưới triều đại Elizabeth. về thể loại gồm có : kịch lịch sử, hài kịch và hai vở kịch đó là Romeo Juliet và Judo Xêđa. 2 . Giai đoạn thứ hai (1601 - 1608) : những cơn giông tố của T 2 3 mùa hạ Lúc này sự đoàn kết tạm thời giữa quí tộc và tư sản tan rã hẳn. Trung thành với tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa Shakespear đoạn tuyệt, dứt khoát hẳn với ảo tưởng phong kiến đương thời. Ông nhận ra rằng thời kỳ Phục Hưng đang dần chết. Những nhân vật trên sân khấu của Shakespear thường là những con người đa diện luôn suy nghĩ băng khoăn để tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Chưa bao giờ vấn đề ý nghĩa cuộc sống, vấn đề hạnh phúc con người được đặt ra gay gắt hơn và bắt người ta suy nghĩ nhiều như ở các vở kịch Hămlet, Otenlô, Macbeth, Vua Lear. Các vở hài kịch giai đoạn này cũng đượm phần chua chát : Cái gì kết thúc là cái ấy tốt - 1602 ; Troihis và Cressida (1602) 3. Giai đoan thứ 3 (1608 — 1616) vẻ u buồn của mùa thu. 15 Từ năm 1608 thế lực quân chủ tạm thời thắng thế. Trên sân khấu lối kịch kiểu cách đáp ứng thị hiếu của quí tộc đã lấn áp những vở kịch của Shakespear. Ở giai đoạn này Shakespear vẫn quay lại những vấn đề đã đề cập trước kia nhưng lúc này nội dung phản ánh có phần dịu xuống. Mâu thuẫn không gay gắt quyết liệt, kết thúc kịch không phải là những cảnh tan nát chết chóc, đẫm máu như giai đoạn trước mà là một kết thúc vui vẻ đoàn viên . Qua ba giai đoạn sáng tác này của Shakespear cho thấy : Wiliiam Shakespear là người tiêu biểu lỗi lạc cuối cùng của tư tưởng nhân đạo thời Phục Hưng và là người mở đầu cho nền văn học cận đại, đề cao bênh vực quyền sống quyền tự do yêu đương và những khát vọng của con người. Shakespear mất đi đã để lại cho kho tàng văn học thế giới những tác phẩm văn học vô cùng quí báu. Có những tác phẩm của ông như Ronieo Juliet, Hămlet, Otenlô, Macbetth, Vua Lear được coi là những báu vật của kho tàng văn học thế giới trải qua thời gian nó vẫn tỏa sáng lấp lánh khiến nhiều người phải ngỡ ngàng, đã biết bao người, bao thế hệ khám phá nó tìm hiểu nó mà vẫn không thấy cái hay cái đẹp ẩn dấu trong nó. 16 CHƯƠNG 2: CÁI BI VÀ NGHỆ THUẬT BI KỊCH CỦA SHAKES PEARE 2.1.NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG 2.1.1.Cái bi Theo "từ điển thuật ngữ văn học" : "Cái bi là một phạm trù mỹ học phản ánh một hiện tượng có tính qui luật của thực tế đời sống xã hội, thường diễn ra trong cuộc đấu tranh không ngang sức giữa cái thiện và cái ác, cái mới và cái cũ, cái tiến bộ với cái phản động... Trong điều kiện những cái sau còn mạnh hơn cái trước. Đó sự trả giá tự nguyện cho chiến thắng và sự bất tử về tinh thần bằng nỗi đau và cái chết của nhân vật chính diện. Cái bi tạo ra một cảm xúc thẩm mỹ phức hợp bao gồm cả nỗi đau niềm hân hoan lẫn nỗi sợ khủng khiếp cái bi thường đi liềnvới nỗi đau và cái chết. Song bản thân nỗi đau và cái chết chưa phải là cái bi.Nỗi đau vài cái chết chỉ trở thành cái bi khi hướng tới và khẳng định cái bất tử về mặt tinh thần của con người". Cái bi là cơ sở qui định đặc trưng của xung đột nghệ thuật trong thể loại bi kịch. Đó là sự xung đột được tạo nên bởi hành động tự do của nhân vật trong việc thực hiện cái tất yếu mà nó tự thấy trước là không tránh khỏi bị giẫy chết như nhân vật trong bi kịch anh hùng, hoặc không thấy trước như trong bi kịch về sự lầm lạc. 2.1.2. Bi kịch Theo "từ điển thuật ngữ văn học" : "Bi kịch là một loại hình kịch thường được coi là đối lập với hài kịch. Bi kịch phản ánh không phải bằng tự sự mà bằng hành động của nhận vật chính trong mỗi xung đột không thể điều hòa được giữa cái thiện và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn.... diển ra trong một tình huống cực kỳ căng thẳng mà nhân vật chỉ thoát ra khỏi nó bằng cái chết 17 bi thảm, bằng sự hy sinh mất mát, gây nên những suy tư và xúc động mạnh mẽ đối với chúng". Theo Engels : "Bi kịch là sự thể hiện cái xung đột giữa yêu cầu tất yếu về mặt lịch sử và tình trạng không khả năng thực tế thực hiện yêu cầu đó" Theo Engels : "Bi kịch là sự thể hiện cái xung đột giữa qui luật khách quan (nghĩa là không phụ thuộc và chủ quan con người) và và khả năng con người không thể khắc phục được, không chiến thắng được hoàn cảnh khách quan. Trong bi kịch cái chết không chỉ là sự hủy diệt, nó còn có nghiã là sự bảo tồn dưới hình thức biến dạng cái mà trong hình thức có sẵn cần phải bị tiêu vong". Theo Arisíote trong nghệ thuật thi ca : "Bi kịch là sự bắt chước hành động hệ trọng và trọn vẹn nhằm dùng hành động chứ không phải bằng kể chuyện, bằng cách gây nỗi xót thương và nỗi sợ hãi để thực hiện sự thanh lọc những nỗi xúc động tương tự... Bi kịch nhằm miêu tả những con người tốt nhất so với những con người trong thực tế. vì bi kịch đã miêu tả những con ngươi tốt hơn mọi người nên ta cần bắt chước những họa sĩ vẽ chân dung giả : tức là khi vẽ người nào đó thì đồng thời với việc làm cho các bức chân dung giống người được vẽ, họ còn vẽ người đó thành đẹp hơn thực. Và Aritxtôphan cho rằng : "Bi kịch và hài kịch đem lên sân khấu nhưng sự thực xây ra trong đời sống ... Những việc đó đối với chúng ta rất quen thuộc, những việc đó chúng ta đã sống hàng ngày...". "Giá trị của bi kịch là sự thanh lọc tình cảm thông qua xót thương và sợ hãi" (Aritxtot) Sự thanh lọc tình cảm đó chính là sự giáo dục đạo đức và thẩm mỹ. Còn sự xót thương và sự sợ hãi theo như Higels và Aritxtot thì sự xót thương có 18 hai nghĩa. Nhưng sự xót thương mà bi kịch nói đến chính là lòng thương chân chính "lòng thương chân chính là lòng thương cố gắng đồng cảm với cái gì cao thượng là khẳng định, là cối tử trong con người đang đau khổ" (Heghen). Nhiều loại bi kịch và các tác giả đã phân chia bi ra làm 6 loại bi kịch : Bi kịch của cái mới, cái tiến bộ, cái cách mạng còn đang trong thế yếu. Bi kịch của cái mới, cái tiến bộ, cái cách mạng đang ở trong thế thắng trong toàn cục nhưng một bộ phận của nó còn lâm vào hoàn cảnh trớ trêu khiến người anh hùng bị sa cơ và tiêu vong. Đó là bi kịch của các nhân vật bị chết trước bình minh, cái chết mang tính bi hùng kịch. Bi kịch của cái cũ là bi của cái đã lật đến trang cuối cùng nhưng chưa hoàn toàn trở thành xấu xa, phản động, trái lại nó còn có ít nhiều sứ mạng trước lịch sử mà sớm bị tiêu vong thảm thương Bi kịch của chính cái xấu là cái cũ thật sự trở thành cái xấu và gây tác hại khủng khiếp và cần bị trừng phạt nghiêm khắc (...). Bi kịch của sự nhầm lẫn, của sự kém hiểu biết, của sự ngu dốt "sự ngu dốt là con quỉ mà chúng ta e rằng nó sẽ còn gây nhiều tấn bi kịch. (Marx). Bi kịch của khát vọng nảy sinh do mâu thuẫn gay gắt giữa khát vọng chính đáng và khả năng không thực hiện được. Nó nói lên sự tan vỡ và mất mát của những gì yêu quí nhất, đáng trân trọng nhất của con người. Shakespeare không phải là một nhà lý luận. Ông không phát biểu hay trình bày quan điểm thuần túy của mình về cái bi. Ông đã trình bày quan điểm của mình về cái bi và bi kịch qua từng vở kịch thông qua lời nói, suy nghĩ việc làm của từng nhân vật. Quan điểm của Shakespeare về cái bi và bi kịch rất phong phú và cũng rất độc đáo. Có khi Shakespeare còn đi ngược lại những khái niệm về bi kịch, những quy luật chung đã định ra. Ví dụ như 19 Aristote cho rằng "bi kịch là sự bắt chước hành động cao thượng" nhận định trên rất đúng trong các vở bi kịch "Romêô - Juliét", "Hamlét", "Otenlô". Nhưng chưa thật đúng so với hai vở "Vua Lear" và "Macbeth". Nhưng nhân vật như Vua Lear và Macbeth không thể xem là "những người tốt nhất so với nhưng người trong thực tế", mà hai nhân vật này đúng như Lénine đã nhận định đó là "Hiện tượng phong phú hơn qui luật". Lear và Macbeth trong hai vở kịch là nhân vật tội lỗi mù quáng ảo tưởng, say mê quyền lực, tràn đầy dục vọng. Và hành động của họ thì đó không phải là "sự bắt chước hành động nghiêm túc và cao thượng". Như vậy chúng ta có thể thấy rằng Shakespeare, một thiên tài, ông xây dựng nhân vật bi kịch của mình bằng cách nhìn cách đánh giá rất riêng sáng tác chứ không gò bó theo một khuôn mẫu có sẵn. Qua đó chúng ta có thể thấy rằng cái khái niệm cái bi và bi kịch chỉ đứng trên tổng thể, với bi kịch truyền thống. Còn đối với bi kịch của Shakespeare thì có lẽ không một ai có thể đưa ra một khái niệm hoàn toàn chính xác. Chính vì vậy mà trải qua mấy thế kỷ mà những chàng Romeo, Hămlet, Otenlô, những nàng Juliét, Dexdeniôna, vẫn được mọi người ngợi khen và ngưỡng mộ. 2.1.3. Nguồn gốc của cái bi và bi kịch. Cái bi - một phạm trù mỹ học hơn bi kịch - một thể loại văn học. Cái bi đã xuất hiện trong thần thoại Hy Lạp (hành động đầu tội lỗi thảm khóc của Oedipe) và trong anh hùng ca Homère (Cảnh chia tay của vợ chồng Hector khi chàng sắp xông ra chiến trận). Bi kịch xuất hiện sau cái bi rất lâu. Nó xuất hiện từ khi nhà nước dân chủ chủ nô Athenes hình thành "Quyền lực tối cao của nhà nước đó là thuộc về hội đồng nhân dân. Ở đó mọi người dân Athenes có quyền tham gia và phát biểu (Angels). Nhà nước đã tạo tiền đề cho sự phát triển cá tính, sự trổi dậy của cá tính. "Nghệ thuật Hy Lạp cổ đại là sự thể hiện của các hình thức đẹp đẽ của cá tính (Hégel). "Không có dân tự do Hy Lạp thì không thể sinh ra nghệ 20 thuật bi kịch Hy Lạp. Đó là một mệnh đề vô cùng chính xác (Hầu Loại Ngư). Bi kịch có nguồn gốc từ "bài ca về con dê" do những người giáo đầu các khúc ca thần rượu nho sáng tác (Aristote) và được hội đồng ca hát trong buổi lễ tế thần Dionysos. Thời Hy Lạp cổ đại những khái niệm đơn giản ngây thơ về cuộc đời không còn nữa. Con người muốn nhận thức, ly gián những mâu thuẫn xung đột gay gắt của cuộc đời bằng tư tưởng, hành động, cái nhìn thẩm mỹ. Do đó bi kịch mở rộng chủ đề, đề tài mang ý nghĩa xã hội rộng lớn hơn, cá nhân con người được đề cao hơn. Anh hùng ca Momise, bi kịch của Etchyle, Sophơie, Euripiđe ra đời. Các tác phẩm đều chú ý đến tính bất tử của chất người chân chính, cảm hứng về sự tái sinh của vẻ đẹp con người đặt dưới một hình thái mới đầy an ủi. Bi kịch thời trung cổ phuơng Tây mang màu sắc tôn giáo gắn với truyền thuyết Ađam - Eva, truyền thuyết giáng thế và chịu khổ hình hàng trên thập giá của Chúa Jesus. Nó không mỹ hóa vẽ đẹp của con người, ca ngợi sự quằn quại, đau thương của con người bằng triết lý khắc kỷ" (Đỗ Văn Khang- Đỗ Huy). Bi kịch phục hưng đặt ra vấn đề nhân sinh và mang tính lý tưởng rõ rệt, xây dựng xung đột giữa "tính cách khổng lồ và hoàn cảnh khắc nghiệt, khai thác nhưng cơn lốc dục vọng, quá trình trở thành nạn nhân của dục vọng, những trở ngại của cuộc sống bên ngoài, phản ánh những mâu thuẫn sâu sắc giữa lý tưởng nhân văn hướng về tự do, muốn giải phóng con người với thực tại cuộc sống là con người đang rơi vào siềng xích mới khủng khiếp hơn. Bi kịch cổ điển cuối thế kỷ xvII phản ảnh mâu thuẫn giữa nghĩa vụ và dục vọng, phản ánh vấn đề đạo đức công lệ và danh dự. Bi kịch thời này đã đạt được những giá trị to lớn về mặt nghệ thuật : có đóng góp quan trọng 21 trong nghệ thuật xây dựng tính cách, sử dụng các biện pháp tu từ, nghệ thuật kết cấu kịch. kịch của Corneille là "Trường học của những tâm hồn cao thượng". Bi kịch của thế kỷ ánh sáng phản ánh được sự nồng nhiệt của khát khao, đam mê căm giận, kiêu hãnh, đau đớn hy vọng, tuyệt vọng của tình yêu và tuổi trẻ trong việc chiếm lĩnh tư thức làm chủ cuộc đời. 2.1.4. Nghệ thuật bi kịch Theo Max và Engels (về văn học nghệ thuật), "nghệ thuật bi kịch được xem xét dựa trên các yếu tố : mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh tính trọng đại bên trong của nhân vật bi kịch, ý thức đón nhận sự hy sinh của nhân vật, tính lạc quan và đầy thi hứng của hành động bi kịch.... Bi kịch là một trong những đỉnh cao của sự sáng tạo thi ca, là loại hình đầy chất triết luận, phản ảnh sâu sắc các vấn đề trong cuộc sống. vẻ đẹp trong bi kịch là vẻ đẹp của những kinh nghiệm cay đắng của cuộc sống. Bi kịch về bản chất là ca ngợi, khẳng định sự bất tử của con người và phát hiện những phẩm chất cao đẹp anh hùng của nó..." 2.1.5. Nhân vật bi kịch "Bi kịch là sự trình bày hành động của nhân vật đấu tranh quyết liệt với những cái đối lập bên ngoài (hoặc bên trong) để tìm cách tự khẳng định mình theo sự thúc đẩy của chí khí và khát vọng bên trong... Để có hành động thực sự kịch cần thiết rằng nguyên lý tự do và độc lập cá nhân đã phải thức dậy ít nhất ý thức tự quyết định, ý muốn tự do và tự mình chịu trách nhiệm về những hành động của bản thân và hậu quả của nó phải được thức tĩnh dậy (Higels -Mỹ học) Mỗi vở bi kịch đều mang một nội dung riêng, xây dựng những nhân vật với với sự độc đáo riêng của nó. Yếu tố để tạo nên sự độc đáo hấp dẫn của 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan