Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng...

Tài liệu Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo

.DOC
82
2815
133

Mô tả:

PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Mầm non là bậc học đầu tiên, đặt nền móng cho sự phát triển của con người. Sự nghiệp trồng người cũng giống như sự nghiệp trồng cây vậy, gốc có chắc thì ngọn mới bền, đầu tư vào mầm non là vun vào gốc của sự phát triển mỗi thế hệ. Trong đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập, vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lí trẻ em, bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa. Trẻ thơ là lứa tuổi bắt đầu của sự nhận thức và những tình cảm mãnh liệt, giữa các em và các nhân vật trong những câu chuyện cổ tích có sự đồng điệu về tâm hồn và tình cảm, các em thích nghe kể chuyện và thích kể lại chuyện. Những câu chuyện là một phần của cuộc sống gợi lên cho trẻ những xúc cảm lành mạnh, giúp trẻ nhận biết thế giới xung quanh, những mối quan hệ giữa con người với con người... góp phần giáo dục thẩm mĩ và phát triển ngôn ngữ nghệ thuật cho trẻ, nhờ đó trẻ nảy sinh năng lực tự hoạt động nghệ thuật khi tiếp xúc với những câu chuyện. Chính vì vậy, cho trẻ tiếp xúc với văn học và đặc biệt là hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất. Do đặc điểm tâm lí của trẻ tuổi mầm non, nhất là đặc điểm về ngôn ngữ của lứa tuổi mà việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có ý nghĩa to lớn trong việc góp phần mở rộng sự hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh, giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, hoàn thiện các quá trình tâm lí, và đặc biệt là phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Việc dạy trẻ kể lại chuyện văn học một cách sáng tạo 1 để phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, là một nhiệm vụ chủ đạo trong những phương pháp, biện pháp nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ hoàn thiện, mạch lạc, rõ ràng, chính xác. Bởi vậy, chúng ta cần quan tâm phát triển lời nói cho trẻ ngay từ tuổi ấu thơ thông qua hình thức dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. Thông qua việc kể chuyện sáng tạo giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng tượng sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú, trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó... bằng chính ngôn ngữ của mình. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu phát triển toàn diện cho trẻ mầm non, vì năng lực ngôn ngữ không phải là bẩm sinh di truyền nên việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là rất cần thiết đặc biệt là phát triển vốn từ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc dạy trẻ kể chuyện một cách sáng tạo làm phong phú đời sống tinh thần trẻ, đáp ứng được nhu cầu giao tiếp của trẻ, phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ, nhờ đó trẻ lĩnh hội được thông tin và tình cảm của người khác một cách chính xác. Đồng thời, nó còn là điều kiện để phát triển tư duy, giúp trẻ tham gia các hoat động vui chơi, học tập và phát triển toàn diện. Hiện nay, đa số giáo viên mầm non chưa nhận thức đầy đủ vai trò, ý nghĩa của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ít ai quan tâm sâu sắc đến khả năng sáng tạo của trẻ do vậy mà ít có sự quan tâm tìm tòi, nghiên cứu về vấn đề này. Trong các chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo đang được ban hành hiện nay chưa có nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhằm tạo điều kiện cho trẻ phát triển khả năng sáng tạo một cách riêng biệt. Điều này hạn chế việc phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo trong hoạt động ngôn ngữ của trẻ. Kết quả là đa số trẻ sử dụng câu đơn và mang tính liệt kê, trẻ không biết mở đầu và kết thúc câu chuyện, các 2 tình tiết câu chuyện không theo trình tự hợp lí, trẻ chủ yếu là nhìn thấy cái gì nói luôn cái đó... Từ đó cho thấy việc phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ phải được tiến hành ở các môn học khác nhau, trong đó dạy trẻ kể chuyện sáng tạo là một trong những loại tiết học thuận lợi nhất để phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ. Do vậy, là giáo viên mầm non tương lai, tôi đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đặc biệt là phát triển khả năng sáng tạo ở trẻ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo. Vì thế thông qua đợt thực tập sư phạm tại trường mầm non Ngô Quyền tôi đã tìm hiểu và đưa ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận của các môn khoa học liên ngành như: Tâm lí học, giáo dục học, phương pháp dạy văn học và thực tiễn, đề tài này hệ thống hóa và đưa ra một số biện pháp dạy trẻ kể chuyện sáng tạo nhằm nâng cao khả năng kể chuyện của trẻ, phát triển ở trẻ khả năng sáng tạo giúp trẻ hiểu được cuộc sống diễn ra xung quanh trẻ. Từ đó giúp trẻ biết cách cư xử với mọi người, mọi vật xung quanh trẻ và đặc biệt là phát triển toàn bộ nhân cách cho trẻ. 3. Lịch sử nghiên cứu Ngôn ngữ là sự sáng tạo kì diệu nhất của nền văn hóa con người. Ngôn ngữ chỉ sinh ra với xã hội và vì xã hội. Ngôn ngữ là công cụ để tư duy, giao tiếp, là chìa khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng trí thức của dân tộc và nhân loại. Bởi vậy, giáo dục và phát triển ngôn ngữ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là đối với lứa tuổi mầm non, là lứa tuổi diễn ra sự phát triển nhanh về nhiều lĩnh vực trong đó đáng chú ý hơn cả là lĩnh vực ngôn ngữ và nhận thức. Đã từ lâu, ngôn ngữ của trẻ trước tuổi học là vấn đề 3 được nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước quan tâm nghiên cứu. Các nhà khoa học trên thế giới như: L.X.Vưgôtxki, A.M.Leusina, E.I.Tikhêêva, D.N.Ixtomina, Ph.A.Xôkhina, Kak Hainơ Dich, A.M.Bôrôdich ... ở Việt Nam: Phan Thiều, Nguyễn Huy Cẩn, Nguyễn Xuân Khoa, Tạ Thị Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Oanh, Lưu Thị Lan .... Tất cả các nhà khoa học trên thế giới hay trong nước, khi nghiên cứu về ngôn ngữ trẻ em dù ở lĩnh vực tâm lí học hay giáo dục học đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu xác định phương pháp, biện pháp nào là tốt nhất nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong quá trình khảo sát,nghiên cứu và tìm hiểu tôi có được tiếp xúc với một số công trình như: 1. “Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua chuyện kể” – của tác giả Hồ Lam Hồng đề cập đến ảnh hưởng của các biện pháp kể chuyện khác nhau đến các hoạt động ngôn ngữ cũng như các đặc điểm tâm lí của trẻ. Tác giả đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa chuyện kể vào trong giảng dạy nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ trước tuổi học. 2. “Các biện pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi” – Nguyễn Thị Oanh coi kể chuyện như một biện pháp phát triển ngôn ngữ như một biện pháp hữu hiệu đối với trẻ em trước tuổi học nói chung và trẻ em từ 5 – 6 tuổi nói riêng. 3. “Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện về sinh hoạt nhằm phát triển lời nói mạch lạc” – của tác giả Hoàng Thị Thu Hương đề cập đến vấn đề phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện về sinh hoạt và bà cũng đã đưa ra một số biện pháp dạy trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện giúp phát triển lời nói mạch lạc ở trẻ độ tuổi này. 4. “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua kể chuyện sáng tạo” của tác giả Hoàng Thị Hồng Mát đưa ra một 4 số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo kể chuyện sáng tạo nhằm phát triển lời nói mạch lạc ở trẻ. Ngoài ra còn rất nhiều các công trình nghiên cứu khác như: “ Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi thông qua hoạt động kể lại chuyện thần thoại một cách sáng tạo ở trường mầm non Hạ Long” của Vũ Thị Lan – khóa luận tốt nghiệp năm 2005, “ Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi kể lại chuyện diễn cảm ở trường mầm non Hạ Long” của Phạm Thị Hải – khóa luận tốt nghiệp năm 2005, ... và một số công trình khác. Nhìn chung việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở các độ tuổi được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều mặt đa dạng và phong phú. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu này mới tập trung ở việc phát triển ngôn ngữ thông qua việc day trẻ kể chuyện mà chưa chú ý đến khả năng sáng tạo ở trẻ, đặc biệt khi lứa tuổi trẻ 5 – 6 tuổi đã hoàn toàn có khả năng thuộc chuyện, kể chuyện và sáng tạo trong kể chuyện. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo hầu như chưa có một công trình nghiên cứu nào cụ thể và chuyên sâu. Trong khóa luận này, tôi nghiên cứu một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo, với hy vọng góp phần nhỏ vào việc chuẩn bị phương tiện ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi bước vào lớp 1, giúp trẻ tham gia vào một hoạt động chủ đạo mới là hoạt động học tập được thuận lợi hơn. 4. Phạm vi nghiên cứu Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo rất rộng. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu có hạn và giới hạn về năng lực bản thân nên tôi chỉ nghiên cứu về cách tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi kể chuyện sáng tạo. 5 5. Phương pháp nghiên cứu - Tổng hợp và phân tích các tư liệu về lí thuyết có liên quan đến đề tài như: + Tâm lí học về vấn đề lĩnh hội và sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. + Giáo dục học mẫu giáo. + Đặc trưng của thể loại kể chuyện sáng tạo. - Phương pháp thực nghiệm - Thống kê 6. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu lí luận: Trên cơ sở tổng hợp các tư liệu về lý thuyết có liên quan đến đề tài để xây dựng cơ sở lí luận cho việc xây dựng một hệ thống các biện pháp dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. - Nghiên cứu thực trạng để thấy được việc thực hiện dạng thức tiết học này đạt kết quả như thế nào. - Thực nghiệm sư phạm để đánh giá và kiểm tra giả thuyết khoa học. 7. Giả thuyết khoa học Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi có nhu cầu và năng lực hoạt động nghệ thuật sáng tạo. Nếu giáo viên nắm được khả năng này của trẻ mà tìm ra những biện pháp thiết thực trong quá trình dạy trẻ kể chuyện sáng tạo thì sẽ phát huy tối đa khả năng tự hoạt động văn học nghệ thuật và phát huy trí tưởng tượng phong phú ở trẻ. 8. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy trẻ 5-6 tuổi kể chuyện sáng tạo ở trường mầm non. - Đối tượng nghiên cứu: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. 6 PHẦN II : NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lí luận 1.1. Vai trò phát triển ngôn ngữ đối với trẻ mẫu giáo lớn 1.1.1. Khái niệm chung về ngôn ngữ, phát triển ngôn ngữ 1.1.1.1. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người. Dưới góc độ xã hội học, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội – lịch sử. Ngôn ngữ xuất hiện là để thỏa mãn nhu cầu giao lưu của con người trong cộng đồng xã hội loài người. Trong mọi lĩnh vực hoạt đông của con người như: lao động, học tập, vui chơi, giải trí... đều cần đến ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi nguyện vọng, tình cảm, ý nghĩ, kinh nghiệm với nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, ngôn ngữ thể hiện ý thức xã hội, sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong quá trình phát triển ngôn ngữ luôn luôn tiếp thu các yếu tố mới để phong phú và hoàn thiện thêm. Ngôn ngữ còn là một hiện tượng xã hội đặc biệt, không thuộc hạ tầng, không thuộc thượng tầng cũng không phải là công cụ sản xuất. Đặc thù riêng biệt của ngôn ngữ để phân biệt với các hiện tượng xã hội khác, đó là ngôn ngữ phục vụ xã hội, làm phương tiện giao tiếp giữa mọi người, là phương tiện trao đổi ý kiến trong xã hội, giúp cho người ta hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau tổ chức công tác trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người cả trên lĩnh vực xã hội lẫn sinh hoạt thường ngày, đó là những đặc thù mà chỉ ngôn ngữ mới có được. Theo các nhà ngôn ngữ học thì ngôn ngữ là một hệ thống bao gồm các bộ phận: Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách. Các đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ, câu, đoạn văn, văn bản. Mỗi từ có thể có nhiều hình vị, các từ ghép lại thành câu, các câu ghép thành đoạn văn ... VD: Đất, nước, mưa, nắng... từ có một hình vị. 7 Việt Nam, Buôn Mê Thuột, sinh viên, ... là từ có nhiều hình vị. Ngôn ngữ là một hệ thống các kí hiệu có cấu trúc, các quy tắc và ý nghĩa được sử dụng trong giao tiếp. Các kí hiệu có thể được kết hợp, được tổ chức để truyền đạt một khối lượng thông điệp vô cùng đa dạng và phức tạp. Vì là một hệ thống tín hiệu đặc biệt nên ngôn ngữ có phạm vi sử dụng vô cùng to lớn và có những đặc trưng riêng. Ngôn ngữ luôn luôn có tính sáng tạo. Ngôn ngữ còn là một nhân tố thuộc quá trình tâm lí. Các nhà tâm lí học cho rằng: “Ngôn ngữ là quá trình con người sử dụng thực tiễn tiếng nói để giao tiếp với người khác”. Trong quá trình giao tiếp con người biểu hiện ý nghĩ và xúc cảm nhờ tiếng nói, do đó hiểu nhau để cùng tiến hành hoạt động, như hàng ngày mỗi cá nhân sử dụng một thứ ngôn ngữ để giao lưu, đối với từng người đặc điểm ngôn ngữ được thể hiện ở cách phát âm, ở cấu trúc của câu, ở sự lựa chọn từ... Các nhà sinh lí học lại coi ngôn ngữ là tín hiệu của hệ thống tín hiệu thứ hai hệ thống các đường liên hệ tạm thời, là cơ sở cho tư duy trừu tượng (theo thuyết phản xạ của Paplop) Giáo dục học nghiên cứu ngôn ngữ với tư cách là phương tiện, công cụ giáo dục và phát triển con người, phát triển xã hội loài người. Chức năng của ngôn ngữ: Ngôn ngữ có nhiều chức năng nhưng quan trọng nhất là chức năng cộng cụ giao tiếp và chức năng công cụ tư duy: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người Ngôn ngữ không phải là phương tiện giao tiếp duy nhất: Ngoài ngôn ngữ, con người còn dùng những phương tiện giao tiếp khác như điệu bộ, cử chỉ, các tín hiệu giao thông, tín hiệu hàng hải, các ký hiệu toán học ..., những kết hợp âm thanh của âm nhạc, kết hợp màu sắc của hội họa v.v... Điệu bộ cử chỉ là các yếu tố phi ngôn ngữ. Trong điều kiện bình thường điệu bộ cử chỉ đi kèm theo lời nói, thể hiện tâm trạng của người nói và 8 có lúc làm cho lời nói thêm chính xác. Trong trường hợp đặc biệt, điệu bộ cử chỉ đóng vai trò độc lập, không đi kèm theo lời nói. Chẳng hạn khi người câm điếc trao đổi với nhau, họ dùng ngôn ngữ cử chỉ. Dù điệu bộ cử chỉ có vai trò quan trọng trong giao tiếp, chúng cũng chỉ có tính chất phụ trợ. So với ngôn ngữ âm thanh, ngôn ngữ cử chỉ nghèo nàn và hạn chế. Đó là một số ít những động tác giản đơn như lắc đầu, gật đầu, nhún vai, nheo mắt, khom lưng, vẫy tay, chỉ tay v.v... Những tư tưởng khái quát, trừu tượng không thể được chuyển tải đầy đủ bằng ngôn ngữ cử chỉ. Những tín hiệu khác nhau như tín hiệu giao thông, tín hiệu hàng hải, ký hiệu toán học v.v... chỉ được áp dụng trong những phạm vi hạn chế, trong các lĩnh vực chuyên môn hạn hẹp. Bản thân những tín hiệu trên muốn hiểu được phải dùng ngôn ngữ âm thanh để giải thích. Chính vì vậy chúng là các phương tiện giao tiếp có tính chất phát sinh, bổ sung cho ngôn ngữ thành tiếng. Âm nhạc, hội họa, điêu khắc... tuy có những khả năng vĩ đại nhưng với tư cách là phương tiện giao tiếp, chúng vẫn bị hạn chế và có tính chất phiến diện so với ngôn ngữ. Âm nhạc, hội họa, điêu khắc ... không thể truyền đạt khái niệm, tư tưởng mà chỉ khêu gợi chúng trên cơ sở những hình ảnh, cảm xúc đã gây ra được ở người nghe và người xem. Những tư tưởng mà các tác phẩm nghệ thuật đó gây ra ở người nghe, người xem có tính chất mơ hồ, không rõ rệt và rất khác nhau ở những người khác nhau. Vì vậy, không thể dùng chúng làm phương tiện giao tiếp giữa con người với con người trong giao tiếp hàng ngày được. "Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người"(Lê nin) : Qua phần đã trình bày trên, ta thấy các phương tiện giao tiếp khác (tín hiệu giao thông, tín hiệu hàng hải, điệu bộ cử chỉ ...) đều có những nhược điểm so với ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất bởi các lý do sau: 9 + Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp được sử dụng rộng rãi trong xã hội, trong tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. + Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp gốc, giữ vai trò chủ đạo trong các phương tiện giao tiếp. Các phương tiện giao tiếp khác hoặc có tính chất phụ trợ (điệu bộ cử chỉ) hoặc có tính phát sinh, xuất hiện sau ngôn ngữ, dựa vào ngôn ngữ mà tồn tại, chỉ có thể giải thích được bằng ngôn ngữ. + Ngôn ngữ là phương tiện phong phú nhất về khả năng giao tiếp, có thể biểu đạt chính xác tất cả các nội dung tư tưởng, tình cảm của con người. Ngôn ngữ là phương tiện tư duy Chức năng làm phương tiện tư duy của ngôn ngữ: "Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng"(Các Mác) Ngôn ngữ là hình thức tồn tại, là phương tiện vật chất của tư duy. Tư duy là cái được biểu hiện, ngôn ngữ là cái biểu hiện. Các kết quả hoạt động của tư duy (khái niệm, phán đoán) được khoác một cái vỏ vật chất âm thanh (ngôn ngữ) để thể hiện ra bên ngoài dưới dạng vật chất làm cho người khác “thấy được”. Không có ý nghĩ, tư tưởng nào không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là biểu hiện thực tế của tư tưởng. Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng, phát triển tư tưởng. Nó là công cụ để tư duy: Vốn tri thức mà con người thu nhận được qua hoạt động thực tiễn được tàng trữ, bảo toàn chủ yếu nhờ ngôn ngữ; rồi chính nhờ ngôn ngữ mà người ta truyền thụ vốn tri thức đó từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ nơi này đến nơi khác. Khi con người đã có ngôn ngữ và đã có vốn tri thức do thế hệ trước truyền lại, họ không nhất thiết phải tìm hiểu thế giới bằng con đường nhận thức “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” nữa. Họ có thể đi từ những khái niệm đã biết tiến lên những khái niệm chưa biết, đi từ những phán đoán cũ tiến lên những phán đoán mới. Con 10 người dùng ngôn ngữ để suy luận và cuối cùng áp dụng các kết quả suy luận của mình vào thực tế để kiểm nghiệm chân lý và phát triển xã hội, cải tạo thế giới. Tóm lại, nhờ có ngôn ngữ tư tưởng được hiện thực hóa. Từ đó, con người có thể truyền đạt, tích lũy, phát triển thêm vốn tri thức của mình. Tư duy con người ngày càng trở nên phong phú và sâu xa hơn. * Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy Ngôn ngữ thống nhất với tư duy + Ngôn ngữ và tư duy ra đời cùng một lúc trong lịch sử hình thành và phát triển của con người. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, Mác và Ăngghen đã viết: “Ngay từ đầu, đã có một rủi ro đè nặng lên tinh thần”, đó là sự rủi ro bị một “vật chất” làm hoen ố và vật chất đó thể hiện ở đây dưới hình thức những lớp không khí chuyển động, những thanh âm, tóm lại là dưới hình thức ngôn ngữ. Ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức vậy - ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn”. + Ngôn ngữ và tư duy phụ thuộc vào nhau mà tồn tại: Không có ngôn ngữ thì con người không thể tư duy vì ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư tưởng, là công cụ để hình thành tư tưởng. Theo triết học Mác, một thực thể tinh thần muốn tồn tại, phải dựa vào một thực thể vật chất nhất định. Tư duy là một thực thể tinh thần, muốn tồn tại, muốn được truyền bá và phát triển trong xã hội con người, phải “nương tựa” vào thực thể vật chất là ngôn ngữ. Ngược lại, không có tư duy thì sẽ không bao giờ có ngôn ngữ vì tư duy cung cấp nội dung tinh thần, đảm bảo cho ngôn ngữ tồn tại. Không có các kết quả tư duy (khái niệm, phán đoán ...) ngôn ngữ chỉ còn là hình thức âm thanh thuần túy, không khác gì tiếng nước chảy, gió thổi hay tiếng ho, hắt hơi, tiếng khóc của con người. + Ngôn ngữ và tư duy hỗ trợ lẫn nhau mà phát triển: 11 Tư duy phát triển, có thêm nhiều khái niệm phán đoán thì đồng thời ngôn ngữ cũng có thêm nhiều từ ngữ mới. Ngược lại ngôn ngữ càng phong phú về khả năng diễn đạt, càng phản ánh trung thực, chính xác tư tưởng, quá trình tư duy của con người càng phát triển, tiến xa thêm mãi. Tóm lại, ngôn ngữ và tư duy thống nhất với nhau như “hai mặt của một tờ giấy không thể cắt mặt phải mà không đồng thời cắt luôn cả mặt trái Sự khác nhau giữa ngôn ngữ và tư duy + Về chức năng: Tư duy có chức năng nhận thức hiện thực. Sự nhận thức này có tính gián tiếp, khái quát. Ngôn ngữ có hai chức năng cơ bản trong đó chức năng giao tiếp là quan trọng nhất. Do chức năng khác nhau nên tiêu chuẩn để đánh giá các sản phẩm ngôn ngữ và tư duy cũng khác nhau: tiêu chuẩn để đánh giá các sản phẩm tư duy là tính chân lý (đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp với hiện thực). Tiêu chuẩn để đánh giá ngôn ngữ là có hiệu lực hay không có hiệu lực, thuận lợi hay không thuận lợi cho giao tiếp. Nhằm đạt được mục đích giao tiếp, con người có thể “bóp méo” hiện thực, tạo ra các yếu tố phi logic trong văn bản. Các yếu tố phi logic đều được chấp nhận trong ngôn ngữ nếu nó diễn đạt được điều cá nhân định nói hoặc có vai trò trong tổ chức lời nói, tổ chức thông điệp. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ có quá nhiều yếu tố phi logic, các yếu tố đó lại hết sức quen thuộc với người bản ngữ nên con người dễ bị nhận thức hiện thực theo ngôn ngữ. Ví dụ: ba từ tươi, sống, mộc trong các kết hợp “thịt tươi”, “gạo sống”, “gạch mộc” đều dùng để chỉ tính chất “chưa trải qua nhiệt độc cao, chưa được nấu chín”. Ba từ thể hiện một khái niệm nên con người dễ lầm tưởng đó là ba khái niệm. Các kết hợp phi logic khác như “lòng yêu thương”, “trái tim nồng nhiệt”, “mặt trời mọc” ... quá quen thuộc đến mức người bản ngữ không chú 12 ý nên dễ mắc sai lầm trong nhận thức thế giới khách quan. Lênin đã từng nói: con người dễ nhận biết bao nhiêu sự lừa dối của cảm giác thì khó nhận biết bấy nhiêu sự lừa dối của ngôn ngữ; sự lừa dối của cảm giác thô thiển bao nhiêu thì sự lừa dối của ngôn ngữ tinh vi đến bấy nhiêu. + Về bản thể, ngôn ngữ và tư duy khác nhau ở các điểm sau: ¤ Ngôn ngữ là một thực thể vật chất vì các đơn vị của nó đều mang thể chất âm thanh, có những thuộc tính vật lý nhất định (độ cao, độ dài, bản sắc ...). Ngược lại, tư duy là một thực thể tinh thần. Nó nảy sinh và phụ thuộc vào một vật chất được tổ chức đặc biệt là não nhưng bản thân nó lại có tính tinh thần. Tư duy không có các đặc tính của vật chất như khối lượng, trọng lượng, mùi, vị ¤ Các đơn vị của tư duy không đồng nhất với các đơn vị ngôn ngữ. Nhiều người đã cố lập một thể song song giữa khái niệm và từ, phán đoán và câu nhưng thực tế không hẳn như vậy. Một khái niệm có thể được biểu hiện bằng những từ khác nhau, trong các ngôn ngữ khác nhau cũng như trong cùng một ngôn ngữ. Ví dụ: Một khái niệm “hoạt động ngừng trao đổi chất của cơ thể sống với môi trường bên ngoài” được thể hiện bằng các từ đồng nghĩa: chết, hy sinh, từ trần, băng hà, thác, đi, mất, ngoẻo... Ngược lại, một vỏ ngữ âm có thể tương ứng với nhiều khái niệm khác nhau; đó là các từ đồng âm, đa nghĩa: Ví dụ: “đài” vừa là một từ đa nghĩa vừa là các từ đồng âm: Đài 1: 1. Nơi cao, để làm lễ (lễ đài, đài tưởng niệm) 2. Nơi phát sóng truyền thanh, truyền hình (đài truyền hình Việt Nam) 3. Máy thu sóng truyền thanh (đài Sony) Đài 2: Phần dưới của bông hoa (đài hoa) 13 Đài 3: Gàu múc nước (đài múc nước) Ngoài ra, có những từ không biểu thị khái niệm (thán từ, đại từ, danh từ riêng), những câu không biểu thị phán đoán (câu hỏi, câu cầu khiến). Các thành phần câu không trùng với các thành phần phán đoán ¤ Nội dung các đơn vị ngôn ngữ không đồng nhất với nội dung các đơn vị tư duy vì: Ngôn ngữ lựa chọn nội dung khái niệm, phán đoán để xây dựng nghĩa của từ và câu., nhưng nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ còn chịu ảnh hưởng của các đơn vị đứng trước và đứng sau nó (ngữ cảnh) và hoàn cảnh giao tiếp.VD: Khái niệm nước trong hóa học có các dấu hiệu lôgic: - Chất lỏng - H2O - Không màu, không mùi, không vị. Nhưng từ “nước” trong tiếng Việt chỉ có nghĩa là “chất lỏng” (nước biển, nước mắm, nước mắt ...) vì nó chịu ảnh hưởng của những từ xung quanh (biển, mắm, mắt) ¤ Nội dung các đơn vị ngôn ngữ không chỉ phản ánh các đơn vị tư duy mà còn phản ánh thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người Ví dụ: ba câu cùng chứa một phán đoán nhưng thể hiện 3 thái độ đánh giá: 1.Còn 3 chai rượu. (Không thể hiện thái độ đánh giá) 2.Chỉ còn 3 chai rượu (đánh giá: ít) 3.Còn những 3 chai rượu (đánh giá: nhiều) + Về tính chất: Tư duy mang tính nhân loại, qui luật của tư duy là quy luật chung cho toàn nhân loại. Ngược lại, ngôn ngữ có tính dân tộc vì ngôn ngữ biểu hiện tư duy nhưng mỗi ngôn ngữ lại biểu hiện theo cách riêng của mình. 14 Trong quá trình sống của mình con người dùng ngôn ngữ với tư cách là một công cụ để giao tiếp và tư duy để xác lập mối quan hệ với thế giới xung quanh, với cộng đồng, để nhận thức và để cải tạo nó. Hai chức năng này của ngôn ngữ được thực hiện không tách rời nhau, trong một chừng mực nhất định nào đó chúng xuất hiện cùng nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Như vậy, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, là một hệ thống tín hiệu đặc biệt làm công cụ giao tiếp và phát triển tư duy. 1.1.1.2. Phát triển ngôn ngữ Khái niệm phát triển: Theo từ điển Tiếng Việt thì phát triển là mở mang từ nhỏ thành to, từ yếu thành mạnh, phát triển cũng có thể được hiểu là diễn biến khi nó đứng trong cụm từ : “Tình hình phát triển”. Phát triển còn được hiểu là biến đổi hoặc làm cho biến đổi theo chiều hướng tăng từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Phát triển ngôn ngữ là một quá trình mở rộng, làm tăng vốn từ. Ngôn ngữ bao gồm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách vì thế phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc mở rộng vốn từ, khả năng đặt câu, giúp trẻ nghe hiểu lời nói của loài người, và có thể sử dụng hệ thống kí kiệu từ ngữ thành thạo, từ đó trẻ nhận thức được về xã hội loài người. 1.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn 1.1.2.1. Đặc điểm chung: Phần lớn trẻ tuổi mẫu giáo lớn đã nắm được và phát âm đúng tất cả các âm vị của tiếng mẹ đẻ, phát âm đúng hầu hết các thanh điệu; biết phát âm đúng và rõ các từ, câu; biến đổi cường độ, ngữ điệu phù hợp; sử dụng các phương tiện biểu cảm phù hợp... Trẻ đã có thể sử dụng những câu phức tạp hơn như những câu tường thuật để miêu tả sự vật hiện tượng, con người, câu nghi vấn, câu cảm thán, câu hô ứng. Trẻ có thể nói câu gồm 4-5 tiếng; biết dùng chữ “đã” hay “rồi” để diễn tả quá khứ; vốn từ khoảng 1500 từ, biết 15 phân biệt màu sắc, hình thể ... Trẻ cũng đã có thể nói những lời nói bày tỏ được cảm xúc hay nhu cầu, ý nghĩ và kinh nghiệm của bản thân như “Con nhớ ông nhiều lắm, mẹ con cũng nhớ ông”. Trẻ cũng biết sử dụng lời nói để thỏa thuận, trao đổi, hợp tác, chỉ dẫn bạn bè trong các hoạt động vui chơi hay kể về một sự việc, hiện tượng nào đó để người nghe hiểu được, kể được nội dung câu chuyện đã nghe theo đúng trình tự. Có một số trường hợp trẻ yếu không phát âm được hoàn toàn các âm vị, thanh điệu và phát âm sai một số từ khó, bỏ sót một số nguyên âm. Một số trẻ không phân biệt được các âm gần giống nhau: s-x, r-d, tr-ch; chưa làm chủ được cường độ, ngữ điệu trong lời nói của mình. Ở trẻ, sự phát triển lời nói mạch lạc đã đạt tới mức độ tương đối cao. Lời nói mạch lạc tồn tại bởi sợi dây liên kết (liên kết nội dung và liên kết hình thức) được biểu hiện bởi tư duy logic về một chủ đề nhất định và bởi phương thức liên kết lời nói với nhau nhằm thực hiện các chức năng giao tiếp. Theo nhận định của Ph.A.Xokhina thì lời nói mạch lạc được hiểu là sự diễn đạt mở rộng một nội dung, xác định được thục hiện một cách logic, tuần tự chính xác, đúng ngữ pháp và biểu cảm. Lời nói mạch lạc không thể tách rời thế giới tư duy, sự mạch lạc của lời nói chính là sự mạch lạc của tư duy. Trong lời nói mạch lạc phản ánh tư duy của trẻ, kĩ năng suy nghĩ cái tiếp nhận được và phản ánh nó một cách đúng đắn. Theo mức độ trẻ nói ra suy nghĩ của mình có thể đánh giá được trình độ phát triển ngôn ngữ của trẻ. Tác giả Nguyễn Xuân Khoa thì cho rằng tính mạch lạc trong lời nói của trẻ thể hiện ở mối quan hệ chặt chẽ của sự liên kết nội dung và liên kết hình thức, ông cho rằng “... nắm vững lời nói mạch lạc không có được nếu không phát triển theo khả năng tách biệt các yếu tố của nó như: câu, từ ...” Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn, trẻ đã bắt đầu để ý đến thuộc tính bên trong của sự vật thể hiện ở các câu hỏi “Tại sao?”. F.Fiaget đã nghiên cứu nhu cầu trí tuệ, chức năng tư duy trong những câu hỏi 16 của trẻ, trong đó câu hỏi “Tại sao” trên cơ sở thống kê 1125 câu hỏi của một em 6 tuổi với cô mẫu giáo (trong 10 tháng, mỗi ngày 2 giờ). F.Fiaget chia 250 câu hỏi “Tại sao” thành 3 nhóm: 1. “Tại sao” đòi hỏi sự giải thích nguyên nhân của một hiện tượng tự nhiên. 2. “Tại sao” đòi hỏi sự giải thích một hành động, một trạng thái tâm lý (chủ định, động cơ, lý do hướng dẫn hành động) 3. “Tại sao” đòi hỏi sự xác minh lý do của một quy tắc (ngoài xã hội, trong nhà trường ...) Những mối liên hệ, sự phụ thuộc và các quan hệ có quy luật giữa các đối tượng, các hiện tượng, các sự kiện đã được xác lập và phản ánh trong lời nói độc thoại của trẻ. Ở trẻ đã phát triển kỹ năng tìm những hình thức ít nhiều hợp lí để biểu đạt trong câu chuyện kể. Trẻ có thể xây dựng những câu chuyện tương đối liên tục về một đề tài nhất định. Trong chuyện kể, trẻ đã thể hiện tình cảm đối với các đối tượng, các hiện tượng được miêu tả. Đây là tuổi có khả năng nắm vững và lĩnh hội được hai hình thức cơ bản của ngôn ngữ đó là ngôn ngữ nói (hay còn gọi là ngôn ngữ đối thoại hay còn gọi là lời nói hội thoại, bao gồm những phản ứng tương hỗ của hai hay nhiều cá nhân giao tiếp với nhau nó được xác định bởi hoàn cảnh hoặc lời nói của người tham gia đối thoại. Trong ngôn ngữ hội thoại các phương tiện biểu cảm phi ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng) và ngôn ngữ bên trong (ngôn ngữ bên trong là ngôn ngữ dành cho mình, hướng vào mình. Nhờ đó con người hiểu được, suy nghĩ được, tự điều chỉnh tình cảm, ý chí và hành vi của mình. Ngôn ngữ bên trong được hình thành sau lời nói bên ngoài, do ngôn ngữ bên ngoài chuyển vào mà được rút gọn lại. Ngôn ngữ bên trong là ngôn ngữ giao tiếp với chính mình. Lúc đó con người tự tách mình ra làm hai. Mình vừa là chủ thể, vừa là đối tượng giao tiếp với chính mình. Mình nói cho mình nghe, 17 viết cho mình đọc (nhật ký) nhờ đó tự điều chỉnh, điều khiển chính mình). Việc nắm ngôn ngữ trong thực hành và thông hiểu ngôn ngữ đã giúp cho đứa trẻ hiểu được nhiều điều người lớn nói. Đây là một đặc điểm vô cùng thuận lợi để đứa trẻ nghe kể chuyện. Từ đó trẻ có thể kể lại chuyện bằng ngôn ngữ của chính mình. 1.1.2.2. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn: Trong lứa tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ của trẻ được tiếp tục phát triển. Các cấu tạo âm thanh của ngôn ngữ được hoàn thiện, vốn từ được mở rộng. Trẻ nắm được cách dùng trong thực tế cấu tạo ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ. Từ vựng của trẻ trong tuổi mẫu giáo tăng lên rất nhiều, ở các giai đoạn khác của tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ của trẻ có tính chất khác nhau. Giai đoạn 5 – 6 tuổi là giai đoạn mà trẻ rất nhạy cảm với sự hình thành ngôn ngữ. Đây là bước ngoặt quan trọng nhất cần có những biện pháp tác động đúng lúc và kịp thời vì mọi sự chậm trễ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn vẫn tuân theo những quy luật chung, song so với trẻ mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ thì ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn có nội dung phong phú hơn, có cấu tạo phức tạp hơn, và mang những nét riêng gắn với đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ ở lứa tuổi này. - Vốn từ: Vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn tăng lên đáng kể. Trẻ nắm được khoảng 3000 – 4000 từ vào cuối tuổi lên 5. Trẻ mẫu giáo lớn đã thường xuyên sử dụng khoảng 1033 từ. Trong đó loại từ được tích lũy khá phong phú không những về danh từ, động từ mà cả về đại từ, tính từ, liên từ... Danh từ và động từ vẫn chiếm ưu thế nhưng tính từ và các loại từ khác cũng được trẻ sử dụng nhiều hơn. Có thể nói rằng trẻ đã nắm được các loại từ có trong tiếng mẹ đẻ và đủ để trẻ có thể diễn đạt các mặt trong đời sống hàng ngày. Khả năng nắm bắt nghĩa của từ phát triển hơn... Các từ chỉ tính chất không gian (rộng lớn, mênh mông... ); từ chỉ tốc độ (nhanh, chậm dần... ); từ chỉ màu sắc (xanh 18 nhạt, phơn phớt hồng... ) đã được trẻ sử dụng chính xác. Trẻ đã hiểu và biết dùng các từ chỉ khái niệm thời gian (hôm qua, hôm nay, ngày mai, ngày kia... ), từ đồng nghĩa (bố mẹ - ba má, tầu hỏa – xe lửa, ...), từ có tính chất gợi cảm, có hình ảnh và mang sắc thái khác nhau (nắng chói chang, đi nhè nhẹ, lung linh, cười tủm tỉm ...); các từ chỉ mức độ, sắc thái khác nhau (be bé, bé tí, tị ti, đỏ chon chót, đỏ choét ...). Ngoài ra, các loại từ khác như đại từ, trạng từ, quan hệ từ, phụ từ cũng được trẻ dùng nhiều hơn các lứa tuổi trước. - Trẻ đã nắm được ngữ âm và ngữ điệu khi sử dụng ngôn ngữ: Do việc giao tiếp bằng ngôn ngữ được mở rộng, thính giác của trẻ được rèn luyện thường xuyên để tiếp nhận các ngữ âm khi nghe người lớn nói cơ quan phát âm đã trưởng thành mà trẻ có thể phát ra những âm chuẩn, kể cả những âm khó của tiếng mẹ đẻ như "quềnh quàng", "khúc khuỷu"…. Chỉ có trong trường hợp bộ máy phát âm bị tổn thương, hay do chịu ảnh hưởng của lời nói ngọng của những người lớn trong địa phương, trẻ mẫu giáo lớn mới phạm nhiều lỗi trong nắm ngữ âm của tiếng mẹ đẻ hoặc một số âm khó, xa lạ với trẻ thì trẻ có thể phát âm sai. Ví dụ "quét trầu" trẻ nói thành "quết trầu". Trẻ mẫu giáo lớn cũng đã biết sử dụng ngữ điệu một cách phù hợp với nội dung giao tiếp hay nội dung của câu chuyện mà trẻ kể. Trẻ thường dùng ngữ điệu êm ái để biểu thị tình cảm yêu thương trìu mến. Ngược lại, khi giận dữ trẻ lại dùng ngữ điệu thô và mạnh. Khả năng ấy được thể hiện rõ khi trẻ kể những câu chuyện mà mình yêu thích cho người khác nghe. - Nắm cơ cấu ngữ pháp: Với điều kiện sống và giáo dục tốt, trẻ em ở cuối tuổi mẫu giáo( 5 - 6 tuổi) đã có thể sử dụng ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo, mặc dù quá tŕnh đó diễn ra một cách không có ý thức, khác với quá trình học ngữ pháp một cách có ý thức ở trường phổ thông. Điều đó được thể hiện trong câu 19 nói của trẻ có cấu trúc ngữ pháp phức tạp và nội dung biểu hiện cũng phong phú hơn nhiều so với lứa tuổi trước. Chẳng hạn: Trẻ 3 tuổi có tỷ lệ câu đơn là: 72,55%, câu phức là: 27,44%. Nhưng trẻ 5 tuổi tỷ lệ câu đơn là: 62,13%, câu phức là: 37,84% Sự lĩnh hội ngôn ngữ của trẻ (5 - 6 tuổi) còn được quyết định bởi tính tích cực của trẻ đối với ngôn ngữ. Những trẻ em tích cực giao tiếp, tích cực tìm hiểu các hiện tượng ngôn ngữ, tức là ngôn ngữ đã trở thành đối tượng của ý thức thì không những hiểu từ ngữ và nắm ngữ pháp một cách sâu sắc mà còn sáng tạo ra những từ ngữ, những cách nói chưa hề có trong ngôn ngữ của người lớn. Chẳng hạn cháu nói: "Con vịt ngã lộn phèo" hay cháu dùng từ ngữ rất lạ để nói về màu đỏ "Đỏ choen choét". Tính tích cực cao đối với ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn còn biểu hiện ở chỗ trẻ thích "sáng tác" thơ ca. Nhìn chung, thì trẻ mẫu giáo chưa thể sáng tác thơ ca theo đúng nghĩa được, nhưng ở một số trẻ do tiếp xúc sớm với những âm hưởng thơ ca nên cũng đã bắt đầu làm thơ vào cuối tuổi mẫu giáo. Chẳng hạn: Cháu Thu Giang đã làm bài thơ "Cái vườn". Đây là bài thơ cháu làm đầu tiên khi cháu mới gần 6 tuổi: "Cái vườn nho nhỏ Cô gió đến chơi Cô đưa võng đỏ Ru chú mặt trời Cháu Ngô Thị Bích Hiền cũng đă làm bài thơ "Ông mặt trời” ngay từ lúc cháu mới 5 tuổi: Ông mặt trời óng ánh Toả nắng hai mẹ con Bóng em và bóng mẹ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất