Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông trên địa b...

Tài liệu Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố nam định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay

.PDF
104
1505
82

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA SƯ PHẠM NGUYỄN TIẾN DŨNG Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC Hµ néi - 2007 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA SƯ PHẠM NGUYỄN TIẾN DŨNG Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay Mã số : 60 14 05 luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc Hµ néi - 2007 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang thực hiện công cuộc đổi mới với mục tiêu là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhằm thực hiện lý tưởng dân giầu, nước mạnh, xã hội phát triển bền vững. Thực chất, dân tộc ta đang chuyển từ nền văn minh lúa nước (nông nghiệp) sang nền văn minh công nghiệp, tiếp cận và từng bước hội nhập vào nền văn minh hậu công nghiệp – Văn minh của nền kinh tế tri thức. Đây là một thực trạng mà chúng ta phải đối mặt trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển của đất nước. Chúng ta chỉ có thể giải quyết được những thách thức trên bằng cách phải làm cho nền giáo dục có những biến đổi căn bản, có tính chất cách mạng, phải phát triển toàn diện con người, phát triển nguồn nhân lực người - Nguồn tài nguyên vô giá để phát triển kinh tế xã hội. Hiến pháp ở điều 35 ghi rõ “ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” và ở điều 36: “Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác” vì phát triển nguồn lực người là bí quyết, là chìa khoá dẫn đến thành công của mọi quốc gia trong thời đại ngày nay. Phát triển nguồn lực người nhằm tạo nên những con người của thời đại mới, những con người của nền văn minh hậu công nghiệp, của nền kinh tế trí thức. Để thực hiện được mục tiêu giáo dục, đòi hỏi phải có rất nhiều yếu tố, trong đó yếu tố căn bản là đội ngũ giáo viên. Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương 2 khoá VIII đã khẳng định: "Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh". Trong thời đại ngày nay, một đất nước muốn phát triển hưng thịnh, bền vững thì không chỉ nhờ vào tài nguyên, vốn kỹ thuật ... mà yếu tố quyết định chính là nguồn lực con người. Do đó việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nói chung và đội ngũ giáo viên THPT nói riêng là rất quan 1 trọng và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Chỉ thị 40 CT / TW ngày 15/6/2004 của Ban bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 2010 trong đó mục tiêu tổng quát nêu : "Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước". Thực tế chất lượng và hiệu quả của giáo dục nước ta trong những năm gần đây tuy đã có những bước khởi sắc, nhưng chưa đáp ứng được với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước và trong xu thế hội nhập quốc tế. Điều này đã được chỉ rõ trong nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng: "Giáo dục và đào tạo nước ta còn yếu kém, bất cập về cả quy mô, cơ cấu, nhất là chất lượng và hiệu quả, chưa đáp ứng kịp với những đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới về kinh tế xã hội và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ". Từ những vấn đề nêu trên đã đặt ra cho ngành GD - ĐT cả nước nói chung và ngành GD - ĐT tỉnh Nam Định nói riêng một nhiệm vụ vô cùng quan trọng, cấp thiết đó là: Phát triển đội ngũ giáo viên có trình độ, năng lực, phẩm chất đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập. Trong những năm qua cấp học THPT Thành Phố Nam Định đã có cố gắng về nhiều mặt, nhất là công tác bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giáo viên. Nhưng trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới về kinh tế xã hội và bảo vệ tổ quốc, trước yêu cầu, nhiệm vụ của giáo 2 dục hiện tại và trong thời gian tới cho thấy ĐNGV THPT trên địa bàn thành phố Nam Định còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu. Vì vậy đã có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả đào tạo. Từ thực tế và yêu cầu đòi hỏi phát triển kinh tế xã hội như hiện nay, nhất thiết phải xây dựng và phát triển ĐNGV THPT đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của sự nghiệp giáo dục. "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước". Để góp phần phát triển đội ngũ giáo viên THPT của tỉnh Nam Định tôi chọn đề tài: “Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay” làm đề tài của luận văn. 2. Mục đích nghiên cứu Xây dựng biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Đội ngũ giáo viên các trường THPT trên địa bàn thành phố Nam Định. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp phát triển ĐNGV các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông. 4.2. Đánh giá thực trạng về phát triển ĐNGV các trường THPT trên địa bàn thành phố Nam Định trong giai đoạn từ năm 2002 đến nay. 4.3. Đề xuất những biện pháp nhằm phát triển đội ngũ giáo viên các 3 trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. 5. Giả thuyết khoa học Nếu đề xuất và triển khai đồng bộ những biện pháp khả thi để phát triển đội ngũ giáo viên THPT thì các trường trung học phổ thông thành phố Nam Định sẽ có được đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. 6. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung khảo sát thực trạng phát triển ĐNGV các trường THPT công lập trên địa bàn thành phố Nam Định từ năm 2002 đến nay. 7. Phương pháp nghiên cứu Các nhóm phương pháp sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận. Tham khảo Luật giáo dục, các văn kiện của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và đào tạo, nghiên cứu sách, tài liệu và báo cáo khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp điều tra xã hội học, trao đổi kinh nghiệm, lấy ý kiến chuyên gia, phân tích tổng hợp, đánh giá, bình luận và tổng kết kinh nghiệm. - Nhóm phương pháp dùng các thuật toán, thống kê 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận khuyến nghị, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông. Chương 2: Thực trạng về phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Nam Định. 4 Chương 3: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài 1.1.1. Đội ngũ giáo viên Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Đội ngũ là tập hợp gồm một số đông người cùng chức năng, nhiệm vụ hoặc nghề nghiệp, hợp thành lực lượng hoạt động trong hệ thống (tổ chức) và cùng chung một mục đích nhất định”. Theo tác giả Đặng Quốc Bảo, đội ngũ là một tập thể người gắn kết với nhau, cùng chung lý tưởng, mục đích, ràng buộc nhau về vật chất, tinh thần và hoạt động theo một nguyên tắc. Theo đó có thể quan niệm: Đội ngũ giáo viên là tập hợp những giáo viên được tổ chức thành một lực lượng, có chung một lý tưởng, mục đích, nhiệm vụ đó là: tạo ra “sản phẩm giáo dục”, thực hiện mục tiêu mà nhà nước – xã hội đề ra cho lực lượng, tổ chức mình. Họ làm theo một kế hoạch thống nhất và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ quy định của luật giáo dục và điều lệ nhà trường. 1.1.2. Phát triển Thuật ngữ phát triển theo triết học là:“ biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”. Phát triển là quá trình nội tại, là bước chuyển hoá từ thấp đến cao theo đường xoáy trôn ốc. Lý luận của phép Biện chứng duy vật khẳng định: Mọi sự vật, hiện tượng không phải chỉ là sự tăng lên hay giảm đi về mặt số lượng mà cơ bản chúng luôn biến đổi, chuyển hóa từ sự vật hiện tượng này đến sự vật hiện tượng khác, cái mới kế tiếp cái cũ, giai đoạn sau kế thừa giai đoạn trước tạo thành quá trình phát triển, tiến lên mãi mãi. 5 Nguyên nhân của sự phát triển là ở sự liên hệ tác động qua lại của các mặt đối lập vốn có bên trong các sự vật hiện tượng. Hình thái, cách thức của sự phát triển đi từ những biến đổi về lượng đến những biến đổi chuyển hoá về chất và ngược lại. Con đường xu hướng của sự phát triển, tiến lên từ từ, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn. Phát triển có thể là một quá trình thực hiện nhưng cũng có thể là một tiềm năng của sự vật hiện tượng. Những đặc trưng cơ bản của phát triển được biểu hiện như: - Sự phát triển của tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều có mối liên hệ, tác động qua lại và quy định lẫn nhau; - Phát triển là quá trình vận động không ngừng; - Phát triển từ những thay đổi về số lượng được chuyển hoá thành những thay đổi về chất lượng; - Phát triển thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập; - Phát triển có thể diễn ra bằng cách chuyển hoá, xoáy ốc và nhảy vọt. Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng định hướng chiến lược cho sự phát triển của đất nước đi lên một cách bền vững gọi là phát triển bền vững. Phải đảm bảo cho nền kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển bền vững được chỉ đạo bằng tư duy lý luận trên cơ sở có sự phát triển bền vững của môi trường. Trong đó phát triển bền vững giáo dục là một vấn đề vô cùng quan trọng vì nó quyết định sự phát triển bền vững của nền kinh tế, văn hoá, xã hội. 1.1.3. Quản lý, biện pháp quản lý * Quản lý: Từ khi xuất hiện xã hội loài người, con người đã biết quy tụ thành bầy, thành nhóm để tồn tại và phát triển. Từ lao động đơn lẻ đến lao động phối hợp, phức tạp, con người đã biết phân công, hợp tác với nhau trong cộng đồng nhằm đạt được năng suất lao động cao hơn. Sự phân công, hợp tác đó đòi hỏi phải có sự chỉ huy, phối hợp, điều hành … đó chính là chức năng quản lý. 6 Có nhiều định nghĩa khác nhau về khoa học quản lý tuỳ theo các quan điểm tiếp cận khác nhau. - Thuật ngữ quản lý (từ Hán Việt) lột tả bản chất của hoạt động này trong thực tiễn. Nó gồm hai mặt tích hợp vào nhau, quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định; quá trình “lý” gồm sửa sang sắp xếp, đưa hệ vào thế “phát triển”. Theo W.Taylor (1856 – 1915) thì “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”  15,tr.1. Theo Henry Fayon (1841 – 1925) thì “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”. Ông còn khẳng định “Khi con người lao động hợp tác thì điều tối quan trọng là họ cần phải xác định rõ công việc mà họ phải hoàn thành và các nhiệm vụ của mỗi cá nhân phải là mắt lưới dệt nên mục tiêu của tổ chức”  15, tr.46. Theo H. Koontz (người Mỹ) thì “Quản lý là hoạt động đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của tổ chức trong một môi trường và đối với những điều kiện nguồn lực cụ thể”. Theo Mary Parker Pollett thì: quản lý là “Nghệ thuật hoàn thành công việc thông qua người khác” là “ Quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên của tổ chức, và sử dụng tất cả các nguồn lực sẵn có của tổ chức để đạt được các mục tiêu của tổ chức”. (Stoner, 1995). Theo từ điển Bách khoa về Giáo dục học, khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục được giải nghĩa là việc “Thực hiện công quyền để quản lý các hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội”. Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì định nghĩa kinh điển nhất về quản lý là: Quá trình tác động có chủ hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể (đối tượng quản lý) – trong một tổ chức – nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của 7 mình. Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của người quản lý đến tập thể người bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Trong giáo dục nhà trường đó là tác động của người quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng khác nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu giáo dục. Bản chất của hoạt động quản lý có thể mô hình hoá qua sơ đồ sau: Công cụ Đối tượng quản lý Chủ thể quản lý Phương pháp Sơ đồ 1: Mô hình quản lý Trong đó: Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức. Khách thể (đối tượng) quản lý là những con người cụ thể và sự hình thành tự nhiên các quan hệ giữa những con người, giữa các nhóm người khác nhau. Công cụ quản lý và phương tiện tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý như: Mệnh lệnh, quyết định, chính sách, luật lệ …. Phương pháp quản lý được xác định theo nhiều cách khác nhau. Nó có thể là do nhà quản lý áp đặt hoặc do sự cam kết giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Các chức năng cơ bản của quản lý - Chức năng kế hoạch hoá; Chức năng tổ chức; Chức năng lãnh đạo (chỉ đạo); Chức năng kiểm tra. Mối liên hệ các chức năng quản lý được thể hiện qua sơ đồ sau: Kế hoạch 8 Kiểm tra, Thông đánh giá Tổ chức tin Chỉ đạo Sơ đồ 2: Quan hệ các chức năng quản lý Các chức năng chính của hoạt động quản lý luôn được thực hiện liên tiếp, đan xen vào nhau, phối hợp và bổ sung cho nhau tạo thành chu trình quản lý. Trong chu trình này, yếu tố thông tin luôn có mặt trong tất cả các giai đoạn, nó vừa là điều kiện, vừa là phương tiện không thể thiếu được khi thực hiện chức năng quản lý và ra quyết định quản lý. Quản lý đội ngũ giáo viên Theo W.L.French định nghĩa: “ Quản trị tài nguyên nhân sự (Quản lý phát triển – tài nguyên nhân sự) là việc tuyển mộ, tuyển chọn, duy trì, phát triển, sử dụng, động viên và tạo mọi điều kiện cho tài nguyên nhân sự thông qua tổ chức, nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức”  16, tr.4.. Như vậy, quản lý ĐNGV tức là quản lý phát triển nhân sự mà ở đó xảy ra quá trình tác động có mục đích của chủ thể quản lý tới người lao động như tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá năng lực thực hiện và đãi ngộ nhằm đạt được mục đích phát triển ĐNGV của các nhà trường. Với quan niệm về quản lý ĐNGV như trên, và theo nghiên cứu của Fred C. Lunenburg và Allan C. Ornstein (Mỹ) trong quá trình quản lý nhà trường, chúng ta có thể chỉ ra các thành tố cơ bản của công tác quản lý đội 9 ngũ trong lĩnh vực giáo dục nhà trường gồm có các bước (Hoạch định nguồn nhân lực, tuyển chọn, lựa chọn, và sử dụng, đào tạo và phát triển, đánh giá thực hiện và đãi ngộ). Từ những khái niệm trên, ta có thể rút ra kết luận chung về quản lý như sau: Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có mục đích, có tổ chức và có lựa chọn của chủ thể quản lý đến đối tượng (khách thể) quản lý nhằm giữ cho sự vận hành của tổ chức được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất. * Biện pháp quản lý Biện pháp là cách thức, là con đường để tác động đến đối tượng. Trong giáo dục người ta thường quan niệm biện pháp là yếu tố hợp thành của phương pháp, phụ thuộc vào phương pháp. Trong tình huống sư phạm cụ thể, phương pháp và biện pháp giáo dục có thể chuyển hoá lẫn nhau. Biện pháp, theo chúng tôi chính là những cách thức cụ thể để thực hiện phương pháp quản lý. Vì đối tượng quản lý phức tạp đòi hỏi những biện pháp quản lý rất đa dạng và linh hoạt. Các biện pháp quản lý có liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống các biện pháp, các biện pháp này sẽ giúp cho các nhà quản lý thực hiện tốt hơn các phương pháp quản lý của mình mang lại hiệu quả tối ưu của bộ máy. 1.1.4. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường * Quản lý giáo dục - Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau ở tất cả các khâu, các bộ phận của hệ thống nhằm bảo đảm cho các cơ quan trong hệ thống giáo dục vận hành tối ưu, đảm bảo cho sự phát triển mở rộng về cả số lượng cũng như chất lượng để đạt tới mục tiêu giáo dục. Mục tiêu của quản lý giáo dục chính là trạng thái mong muốn trong tương lai đối với hệ thống giáo dục, đối với trường học, hoặc đối với những thông số chủ yếu của hệ thống giáo dục trong mỗi nhà trường. Những thông số này được xác định trên cơ sở đáp ứng những mục tiêu tổng thể của 10 sự phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển của kinh tế đất nước. Mục tiêu này gồm: Đảm bảo quyền học sinh vào các ngành học, các cấp học, các lớp học đúng chỉ tiêu và tiêu chuẩn. Đảm bảo chỉ tiêu và chất lượng đạt hiệu quả đào tạo, phát triển tập thể sư phạm đồng bộ, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đời sống vật chất. Xây dựng và hoàn thiện các tổ chức chính quyền, Đảng, đoàn thể, quần chúng để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục và đào tạo. Đối tượng của quản lý giáo dục là hoạt động của cán bộ, giáo viên, học sinh và tổ chức sư phạm của nhà trường trong việc thực hiện kế hoạch và chương trình GD & ĐT nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã quy định với chất lượng cao. * Quản lý nhà trường Quản lý nhà trường là một bộ phận trong quản lý giáo dục, nhà trường (cơ sở giáo dục) chính là nơi tiến hành giáo dục - đào tạo có nhiệm vụ trang bị kiến thức cho một nhóm dân cư nhất định. - Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội, thực hiện chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cho nhóm dân cư nhất định. Nhà trường là nơi tổ chức cho việc kiến tạo xã hội nói trên đạt được các mục tiêu xã hội đặt ra cho nhóm dân cư được qui định vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quản lý xã hội. Từ đó ta thấy quản lý hoạt động giáo dục trong nhà trường phổ thông chính là xây dựng mối quan hệ quản lý giữa các hình thức công tác tập thể, cách đối xử giữa học sinh và giáo viên. Do con đường giáo dục lâu dài, đặc biệt hàm súc về trí tuệ và cảm xúc, do các tình huống trong đời sống nội tại, tâm hồn nên tập thể của toàn trường có sự biến đổi liên tục. Tất cả những điều đó đặt ra yêu cầu cao đối với việc quản lý nhà trường, việc tổ chức hợp lý quá trình giáo dục – học tập, việc xây dựng các điều kiện vật chất kỹ thuật tổ chức sư phạm và việc tạo ra những điều kiện khác của lao động, của giáo viên, của học sinh. 1.1.5. Đổi mới giáo dục Đổi mới giáo dục là sự đổi mới một lĩnh vực nằm trong đổi mới kinh 11 tế xã hội do Đảng khởi xướng từ năm 1986. 1.2. Cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, giáo dục về phát triển đội ngũ giáo viên Việc phát triển đội ngũ giáo viên các trường THPT chỉ có thể thực hiện thành công khi dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, giáo dục. 1.2.1. Về kinh tế, chính trị, xã hội Ngày nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế, vì vậy sự nghiệp phát triển giáo dục nói chung, phát triển đội ngũ giáo viên nói riêng phải được tiếp cận ở mọi vấn đề, mọi lĩnh vực theo yêu cầu và đòi hỏi thực tế của xã hội. Phát triển giáo dục phải gắn liền với phát triển kinh tế, chính trị xã hội. Xét trên quan điểm kinh tế học giáo dục. Chúng ta không thể phát triển giáo dục chỉ bằng hệ thống chính sách giáo dục mà còn đòi hỏi phải có nguồn ngân sách đủ để thực hiện các mục tiêu của chính sách giáo dục. Đầu tư cho giáo dục không phải chỉ là công việc xây dựng trường học, mua sắm trang thiết bị ... mà còn phải đầu tư chủ yếu cho phát triển con người. Đầu tư cho giáo dục tức là đầu tư vào vốn con người (Investment in Human Capital), đầu tư cho giáo dục lợi ích thu về của nó không thể tính bằng đô la vì nó bao gồm cả giá trị kinh tế và phi kinh tế, các giá trị này thường chỉ thể hiện lợi ích sau một thời gian khá lâu dài nhưng có giá trị bền vững. Như vậy đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, loại đầu tư thông minh nhất, hiệu quả nhất trong mọi loại đầu tư của các quốc gia trong thế giới hiện đại. Chính vì vậy mà Anfed Marshall khẳng định rằng: “Những khoản tiền bỏ vào để mở trường học sẽ thừa sức được thanh toán bằng sự xuất hiện của Moda, Bethoven, Sexphia, Newton”. Chức năng kinh tế của giáo dục chính là: Đào tạo nhân lực là tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo lực lượng trực tiếp sản xuất cho nền kinh tế và quản lý xã hội. Như lý luận Marx-Lênin coi giáo dục có vai trò quan trọng trong cách mạng XHCN. Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội đã xác 12 định chức năng kinh tế của hệ thống giáo dục quốc dân XHCN. Giáo dục vừa là mục đích, vừa là sức mạnh của kinh tế. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định mục tiêu của chế độ mới là làm cho mọi người dân “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, mọi người dân Việt Nam phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, giữ vững nền độc lập để làm cho đất nước hưng thịnh, giầu mạnh. Người cũng vạch ra mối liên hệ biện chứng giữa phát triển giáo dục và phát triển kinh tế “Giáo dục phải cung cấp cán bộ cho kinh tế. Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được”, đồng thời Người cũng rất coi trọng việc vận dụng mối quan hệ này cho mục tiêu thiết thực của đời sống kinh tế và những nhiệm vụ của cách mạng trong xu thế phát triển lâu dài. Người nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Qua đó ta thấy Bác đã nhấn mạnh nhân tố con người, đầu tư cho con người phát triển toàn diện về nhân cách và năng lực nhằm tạo nên những con người của thời đại mới. Những con người của nền văn minh hậu công nghiệp, của nền kinh tế trí thức. Giáo dục được nhìn nhận như là con đường quan trọng nhất để phát triển xã hội, giáo dục trở thành “Quốc sách hàng đầu” của nhiều quốc gia. Chức năng văn hoá - xã hội của phát triển giáo dục được thể hiện rất rõ trong chính mục tiêu của nó đó là: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài làm cho mỗi người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo và thông minh, bên cạnh đó không ngừng giáo dục tư tưởng, đạo đức, chính trị để mỗi người trở thành công dân có ích cho xã hội. Chăm lo cho phát triển giáo dục là chăm lo đầu tư cho phát triển con người. Giáo dục phát triển dựa trên nền tảng của kinh tế, chính trị, xã hội, nhưng giáo dục cũng chính là nền tảng, cội gốc và là bệ phóng cho nền chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... phát triển bền vững. Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã cụ thể hoá chức năng nhiệm vụ của các cấp, các ngành, đó là: “Xây dựng đội ngũ nhà 13 giáo, cán bộ quản lý giáo dục là nhiệm vụ của các cấp uỷ Đảng và chính quyền, là một bộ phận công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước, trong đó ngành Giáo dục giữ vai trò chính trong việc tham mưu và tổ chức thực hiện”. Đồng thời Chỉ thị 40 cũng đã chỉ rõ: “Tổ chức điều tra đánh giá đúng thực trạng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, về tình hình tư tưởng, đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy, năng lực quản lý trong nhà trường và các cơ quan quản lý giáo dục các cấp. Trên cơ sở kết quả điều tra, căn cứ vào chiến lược phát triển giáo dục, Bộ GD-ĐT, UBND các tỉnh thành phố tiến hành xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, đảm bảo đủ số lượng, cân đối về cơ cấu, đạt chuẩn, đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới”.[3]. 1.2.2. Về tâm lý học Tâm lý học quản lý được ứng dụng trong quản lý và phát triển nguồn nhân lực rất phổ biến hiện nay, bởi vì bất kể chủ thể quản lý, đối tượng quản lý nào cũng đều là con người, đều có những đặc điểm tâm lý riêng biệt. Vì vậy việc nghiên cứu cấu trúc và quy luật tâm lý trong hoạt động giáo dục của người giáo viên có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển ĐNGV khi xác định được cấu trúc tâm lý của nhân cách cũng như của kỹ năng và năng lực sư phạm của họ. Người giáo viên có vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách mạng tư tưởng - văn hoá và được xã hội tôn vinh khi họ là người thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo theo đường lối, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đối tượng của hoạt động sư phạm là quá trình phát triển nhân cách của con người. Công cụ của lao động sư phạm là nhân cách của người giáo viên. Nghề dạy học là nghề tái sản xuất sức lao động - lao động trí óc mang tính khoa học, tính nghệ thuật, tính sáng tạo. Giáo viên có nhiệm vụ biến người học trở thành một người có nhân cách theo một mẫu hình xác định cho xã hội trong tương lai. Nhân cách con người được coi là yếu tố tâm lý quan trọng, quy định nội dung của cuộc sống. Nhân cách của các thế hệ 14 tương lai đều được tạo ra bằng lao động sư phạm của người giáo viên ngày hôm nay. Do đó, phát triển ĐNVG có tác dụng to lớn tới sự phát triển của cả nền kinh tế, văn hoá, xã hội trong tương lai. Dựa trên quan điểm tâm lý học quản lí của PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì một trong những yếu tố quan trọng trong việc phát triển ĐNGV chính là người quản lý tạo được động cơ học tập, bồi dưỡng phấn đấu vươn lên, động cơ làm việc hăng say, nhiệt tình của người giáo viên. Điều đó được thể hiện qua sơ đồ sau: Nỗ lực => Thành quả Nỗ lực Thành quả => Kết quả Thành quả Trị lượng Kết quả (Tiền thưởng, sự khen ngợi, cảm giác hoàn thành nhiệm vụ ) Sơ đồ 3: Các yếu tố cơ bản của thuyết kỳ vọng về động cơ. Trong công tác phát triển đội ngũ giáo viên thì việc tìm hiểu, nắm bắt được nhu cầu, tâm tư nguyện vọng của họ là rất quan trọng. Người lãnh đạo nhà trường thấu hiểu về tâm lý giáo viên có thể khơi dậy ở họ những đức tính tốt đẹp, có thể giải quyết tốt những xung đột trong tổ chức mình từ đó xây dựng được những tập thể, tổ chuyên môn đoàn kết, tạo được động cơ làm việc hăng say, hiệu quả, đồng thời nâng cao hiệu quả công việc của nhà trường trên cơ sở nắm bắt, sử dụng thông tin phản hồi kịp thời, động viên, khen thưởng đúng lúc. 1.2.3. Về phát triển giáo dục Mỗi giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nói chung, phát triển giáo dục nói riêng đều đặt ra những mục tiêu, yêu cầu phát triển ĐNGV mang đặc thù riêng. Phát triển ĐNGV THPT hiện nay được minh hoạ bằng các quan điểm chỉ đạo sau: 15 1.2.3.1. Các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục Hiến pháp nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật Giáo dục (2005), Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng (2006) và chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 đã chỉ rõ những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục nước ta là: Giáo dục là quốc sách hàng đầu: Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học hành. Nhà nước và xã hội có cơ chế, chính sách giúp đỡ người nghèo học tập, khuyến khích những người tài giỏi phát triển tài năng. Giáo dục con người Vịêt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí thức, sức khoẻ và thẩm mỹ, phát triển được năng lực của cá nhân, đào tạo những người lao động có kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, trung thành với lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, có ý thức công dân, góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển KT-XH, tiến bộ khoa học-công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh, đảm bảo sự hợp lý về cơ cấu trình độ , cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, mở rộng quy mô trên cơ sở đảm bảo chất lượng và hiệu quả, kết hợp giữa đào tạo và sử dụng. Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Xây 16 dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục. Tư tưởng chỉ đạo của Chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn 2001 - 2010 là khắc phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực, tiếp tục đổi mới một cách có hệ thống và đồng bộ, tạo cơ sở để nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả giáo dục, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chấn hưng đất nước, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, nhanh chóng sánh vai cùng các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. 1.2.3.2. Định hướng chiến lược giáo dục và đào tạo đến năm 2010 của Chính phủ * Mục tiêu chung Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển KT – XH của Đất nước, của từng vùng, từng địa phương, hướng tới một xã hội học tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực. Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề, trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh trạnh của nền kinh tế, đẩy nhanh tiến độ phổ cập THCS. Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả và đổi mới phương pháp dạy – học; đổi mới quản lý giáo dục tạo cơ sở pháp lý và phát huy nội lực phát triển giáo dục. * Mục tiêu phát triển cấp học Trung học phổ thông Thực hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh 17 có học vấn phổ thông cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau THPT, để học sinh vào đời hoặc chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp. Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào học THPT từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010. * Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục Phát triển đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn về chất lượng đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp, phát triển được năng lực của mỗi cá nhân, tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập, hoạt động tự quản trong nhà trường và tham gia các hoạt động xã hội. Đổi mới chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, giảng viên, chú trọng việc rèn luyện, giữ gìn và nâng cao phẩm chất đạo đức nhà giáo. Điều chỉnh cơ cấu đội ngũ giáo viên phổ thông, tăng cường giáo viên nhạc hoạ, thể dục thể thao, nữ công gia chánh, giáo viên hướng nghiệp và dạy nghề để đa dạng hoá việc học và hoạt động của học sinh trong quá trình tiến tới học 2 buổi/ ngày. Nâng dần tỷ lệ giáo viên tiểu học có trình độ cao đẳng. Phấn đấu đến 2015 tất cả giáo viên THCS đều có trình độ cao đẳng trở lên, trong đó những giáo viên là trưởng, phó các bộ môn có trình độ đại học. Nâng tỷ lệ giáo viên THPT có trình độ thạc sỹ lên 10% vào năm 2010. Đặc biệt chú trọng đầu tư cho việc xây dựng đội ngũ giáo viên cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Giáo viên được thường xuyên tham gia các lớp bồi dưỡng nâng cao 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất