Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học cơ sở trên địa bàn ...

Tài liệu Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện lập thạch tỉnh vĩnh phúc

.PDF
103
1555
80

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA SƯ PHẠM BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LẬP THẠCH TỈNH VĨNH PHÚC LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC Mã số: 60 14 05 Học viên: Lê Minh Tiến Cao học quản lý giáo dục khóa 6 Cán bộ hướng dẫn: PGS.TS.Nguyễn Đức Trí HÀ NỘI – 2008 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 đã được khẳng định tại Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam là: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[29]. Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Giáo dục và Đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”[30]. Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững [60]. Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”[2]. Đội ngũ cán bộ quản lý (CBQL) giáo dục có vai trò quyết định đến chất lượng và hiệu quả giáo dục của nhà trường. Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển nền giáo dục cách mạng, đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục nước ta được xây dựng ngày càng đông đảo, phần lớn có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đội ngũ CBQL còn thiếu so 1 với nhu cầu, số lượng CBQL có trình độ chuyên môn trên chuẩn, được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ quản lý, bồi dưỡng về lý luận chính trị từ trung cấp trở lên còn ít. Tính chuyên nghiệp của đội ngũ CBQL giáo dục chưa cao, trình độ và năng lực điều hành quản lý còn bất cập, đặc biệt trong tham mưu, chỉ đạo và tổ chức thực hiện v.v. Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ, những năm qua Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Lập Thạch luôn bám sát đường lối công tác cán bộ của Đảng, có sự vận dụng sáng tạo, phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương. Mặc dù công tác xây dựng phát triển đội ngũ CBQL đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, nhưng nhìn chung đội ngũ CBQL trường Trung học cơ sở của huyện Lập Thạch hiện nay xét về số lượng, cơ cấu và chất lượng nhiều mặt chưa ngang tầm đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ. Công tác cán bộ còn chậm đổi mới, việc tham mưu đề xuất để xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ CBQL còn nhiều hạn chế, bất cập, yếu kém, chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, việc xây dựng, bồi dưỡng phát triển đội ngũ CBQL các trường Trung học cơ sở hiện nay là một vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách đối với ngành Giáo dục-Đào tạo huyện Lập Thạch. Do đó tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc”. 2. Mục đích nghiên cứu Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường THCS trên địa bàn huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay. 3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Đội ngũ cán bộ quản lý trường Trung học cơ sở huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Công tác phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay. 2 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác định những vấn đề lý luận về phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nói chung và đội ngũ cán bộ quản lý trường Trung học cơ sở nói riêng. - Điều tra, khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học cơ sở và thực trạng các biện pháp của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc trong việc phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường Trung học cơ sở hiện nay. - Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường Trung học cơ sở huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 5. Giả thuyết khoa học Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở trường phổ thông có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ thông. Áp dụng một cách đồng bộ và sáng tạo các biện pháp của Phòng Giáo dục trong công tác phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc được tác giả đề xuất sẽ đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay. 6. Phạm vi nghiên cứu Việc điều tra, khảo sát thực trạng được giới hạn trong thời gian từ năm 2003 đến nay. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa trong nghiên cứu các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, của Nhà nước và của địa phương về chính sách phát triển giáo dục; về giáo dục, quản lý giáo dục, quản lý đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; một số văn bản khác có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Nghiên cứu sách, tài liệu, báo cáo khoa học về quản lý, quản lý giáo dục, quản lý đội ngũ. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp phỏng vấn. 3 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia. 7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu Sử dụng các công thức toán học để tổng hợp, thống kê xử lý số liệu 8. Đóng góp mới của luận văn Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn công tác quản lý của Phòng Giáo dục- Đào tạo huyện trong việc phát triển đội ngũ CBQL trường THCS. Luận văn đề xuất các biện pháp của Phòng Giáo dục và Đào tạo trong việc phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Trung học cơ sở trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 9. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn trình bày trong 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Trung học cơ sở ở huyện. Chƣơng 2: Thực trạng công tác phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Trung học cơ sở của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc. Chƣơng 3: Một số biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Lập Thạch trong giai đoạn hiện nay. 4 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN 1.1. Các khái niệm công cụ cơ bản của đề tài 1.1.1. Quản lý Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng thuật ngữ quản lý được định nghĩa là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan”[42]. Quản lý là một hoạt động có chủ đích, được tiến hành bởi một chủ thể quản lý nhằm tác động lên khách thể quản lý để thực hiện các mục tiêu xác định của công tác quản lý. Trong mỗi chu trình quản lý chủ thể tiến hành những hoạt động theo các chức năng quản lý như xác định mục tiêu, các chủ trương, chính sách; hoạch định kế hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện, điều hòa, phối hợp, kiểm tra và huy động, sử dụng các nguồn lực cơ bản như tài lực, vật lực, nhân lực v.v. để thực hiện các mục tiêu, mục đích mong muốn trong bối cảnh và thời gian nhất định [35]. Trong cuốn Lý luận quản lý nhà nước của Mai Hữu Khuê, xuất bản năm 2003 có định nghĩa về quản lý như sau: “Quản lý là một phạm trù có liên quan mật thiết với hiệp tác và phân công lao động, nó là một thuộc tính tự nhiên của mọi lao động hiệp tác. Từ khi xuất hiện những hoạt động quần thể của loài người thì đã xuất hiện sự quản lý. Sự quản lý đã có trong cả xã hội nguyên thủy, ở đó con người phải tập hợp với nhau để đấu tranh với thế giới tự nhiên, muốn sinh tồn con người phải tổ chức sản xuất, tổ chức phân phối”[35]. Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì: “Quản lý là hoạt động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”[14]. F.W.Taylor cho rằng: “Quản lý là biết chính xác điều muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”[44]. H.Koontz thì khẳng định: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm 5 (tổ chức)”. Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt động của con người. Quản lý đúng tức là con người đã nhận thức được quy luật, vận động theo quy luật và sẽ đạt được những thành công to lớn [44]. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của cá nhân, của mọi tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và đều phải thừa nhận và chịu một sự quản lý nào đó. Khái niệm quản lý có ngoại diên rất rộng, từ việc ăn uống đến sinh bệnh lão tử, từ cá nhân đến gia đình, từ quốc gia đến thế giới, từ vật chất đến tinh thần, nơi nào có sự hiện diện của con người thì đều cần đến quản lý. C.Mác đã coi việc xuất hiện quản lý như là kết quả tất nhiên của sự chuyển nhiều quá trình lao động cá biệt, tản mạt, độc lập với nhau thành một quá trình xã hội được phối hợp lại. Ông viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điểu khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [44]. Ngày nay thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến, nhưng chưa có một định nghĩa thống nhất. Có người cho quản lý là hoạt động nhằm đảm bảo sự hoàn thành công việc qua sự nỗ lực của người khác. Cũng có người cho quản lý là một hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đặt được mục đích của nhóm. Tuy nhiên theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có chủ đích của con người, cho đến nay nhiều người cho rằng: Quản lý chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn. Từ những ý chung của các định nghĩa và xét quản lý với tư cách là một hành động, có thể định nghĩa: Quản lý là sự tác động 6 có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra. 1.1.2. Quản lý giáo dục Có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc đưa ra khái niệm quản lý giáo dục bởi vì sự ra đời và phát triển của khoa học về quản lý giáo dục dựa trên một số bộ môn khoa học như: kinh tế học, chính trị học, xã hội học, quản lý đại cương v.v.. Mỗi môn học có cách tiếp cận riêng và nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau trong quản lý giáo dục. Năm 1979, Glater đưa ra định nghĩa cho rằng: “Quản lý giáo dục liên quan đến hoạt động tổng hợp của các cơ sở giáo dục, các mối quan hệ với môi trường, cũng như với các cơ quan điều hành”[15]. Dựa vào khái niệm “Quản lý” một số nhà nghiên cứu về giáo dục đưa ra nhiều định nghĩa về QLGD, một số định nghĩa điển hình như sau: Học giả nổi tiếng M.I Kônđacôp: “QLGD là tập hợp những biện pháp tổ chức, cán bộ, kế hoạch hoá, tài chính cung tiêu v.v. nhằm đảm bảo vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng cả về mặt số lượng lẫn chất lượng” [51]. Theo P.V.Khuđôminxky: “QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo việc giáo dục Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hoà của họ” [15]. Theo Đặng Quốc Bảo: "Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người. Cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân" [15]. Theo Nguyễn Ngọc Quang: “ QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm tụ hội là quá trình dạy 7 học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái mới về chất” [58]. Theo Đỗ Ngọc Đạt: “ QLGD là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý trong hệ thống giáo dục, sử dụng tốt nhất tiềm năng và điều kiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra theo đúng luật định và thông lệ hiện hành” [33]. Trong giáo dục nảy sinh việc phân biệt quản lý giáo dục và quản lý nhà nước về giáo dục, một mặt, là do sự ra đời các loại hình cơ sở giáo dục không thuộc sở hữu nhà nước, mặt khác, ngay các cơ sở giáo dục thuộc nhà nước cũng cần có mức độ tự chủ cao hơn để đáp ứng nhu cầu của những đối tác không thuộc phạm vi sở hữu nhà nước. Thông qua quản lý nhà nước về giáo dục, việc thực hiện các chủ trương chính sách giáo dục quốc gia, nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục, chú ý thực hiện các mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục v.v. mới được triển khai, thực hiện có hiệu quả. Quản lý nhà nước về giáo dục có thể được coi là khâu then chốt của then chốt nhằm đảm bảo sự thắng lợi của mọi hoạt động giáo dục. Theo tự điển Bách khoa về Giáo dục học, khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục được giải nghĩa là: “Thực hiện công quyền để quản lý các hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội”. Như vậy có thể hiểu: Quản lý nhà nước về giáo dục là việc nhà nước thực hiện quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục quốc gia [44]. Có thể hiểu khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục một cách đầy đủ hơn như sau: Quản lý nhà nước về giáo dục là sự quản lý của các cơ quan quyền lực nhà nước, của bộ máy quản lý giáo dục từ trung ương đến địa phương lên các thành tố của hệ thống giáo dục quốc dân và các hoạt động giáo dục của xã hội nhằm đạt được các mục tiêu giáo dục đã xác định [34]. Nếu xem quản lý nhà nước như là một hệ thống, thì quản lý nhà nước về giáo dục là một hệ thống bao gồm các thể chế, cơ chế quản lý giáo dục; tổ chức, bộ 8 máy quản lý giáo dục và đội ngũ cán bộ và công chức quản lý giáo dục các cấp. Ba bộ phận này có mối liên hệ và tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm lẫn nhau trong quá trình vận hành, tác nghiệp. Xuất phát từ khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục cùng với việc phân tích các tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lý nhà nước về giáo dục có thể rút ra kết luận: Quản lý nhà nước về giáo dục là hoạt động của Nhà nước (các cơ quan quản lý nhà nước) trong lĩnh vực giáo dục trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước. Nói các khác, quản lý nhà nước về giáo dục là sự tác động của chủ thể quản lý mang quyền lực nhà nước (các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục), chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu đề ra [44]. Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng. 1.1.3. Đội ngũ cán bộ quản lý Theo từ điển Tiếng Việt, CBQL là: “Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức phân biệt với người không có chức vụ”[36]. CBQL là chủ thể quản lý gồm những người giữ vai trò tác động, ra lệnh, kiểm tra đối tượng quản lý. CBQL là người chỉ huy, lãnh đạo tổ chức thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ của tổ chức. Người quản lý vừa là người lãnh đạo, quản lý cơ quan đó vừa chịu sự lãnh đạo, quản lý của cấp trên. CBQL có thể là trưởng hoặc phó trưởng của một tổ chức được cơ quan cấp trên bổ nhiệm bằng Quyết định hành chính Nhà nước. Cấp phó giúp việc cho cấp trưởng, chịu trách nhiệm trước cấp trưởng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về công việc được phân công. 1.1.4. Đội ngũ Theo Từ điển Tiếng Việt “Đội ngũ là tập hợp một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp thành một lực lượng” [36]. 9 Khái niệm đội ngũ dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách khá rộng rãi như: Đội ngũ tri thức, đội ngũ giáo viên, đội ngũ thanh niên tình nguyện v.v. Ở một nghĩa chung nhất ta thường hiểu: Đội ngũ là tập hợp một số đông người thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nghề nhưng có chung mục đích xác định, họ làm việc theo kế hoạch và gắn bó với nhau về lợi ích vật chất và tinh thần cụ thể. Như vậy đội ngũ CBQL chính là một bộ phận của đội ngũ. Trong một nhà trường thì, đội ngũ CBQL chính là tập hợp những người đứng đầu nhà trường, đứng đầu một đơn vị, phòng ban, các chuyên viên, cùng chung một nhiệm vụ quản lí trường học. Đội ngũ CBQL giáo dục được đề cập trong luận văn này là đội ngũ CBQL các trường trung học cơ sở bao gồm: Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường trung học cơ sở CBQL của mỗi trường THCS, là người chịu trách nhiệm trước Nhà nước về trọng trách quản lý trường THCS nhằm thực hiện mục đích giáo dục học sinh THCS phát triển toàn diện theo định hướng, mục tiêu giáo dục trung học nằm trong sự vận hành của hệ thống giáo dục quốc dân. Theo Khoản 1, Điều 54, Luật Giáo dục năm 2005 thì: Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lí các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận [61]. Phó hiệu trưởng là người thực hiện và chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về nhiệm vụ được hiệu trưởng phân công; cùng với hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước cấp trên về phần việc được giao. Khoản 2, Điều 16, Điều lệ Trường trung học quy định: Hiệu trưởng và phó hiệu trưởng phải là giáo viên đạt trình độ chuẩn quy định, đã dạy học ít nhất 5 năm ở bậc trung học hoặc bậc học cao hơn, có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt; có trình độ chuyên môn vững vàng; có năng lực quản lý được bồi dưỡng lý luận và nghiệp vụ QLGD, có sức khỏe, được tập thể giáo viên, nhân viên tín nhiệm [10]. 1.1.5. Phát triển Theo từ điển tiếng Việt, phát triển là “biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [36]. 10 Phát triển là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như phát triển kinh tế, phát triển xã hội, phát triển nguồn nhân lực (PTNNL), phát triển đội ngũ. Còn theo quan điểm triết học, phát triển là khái niệm biểu hiện sự thay đổi tăng tiến cả về chất, cả về không gian lẫn thời gian của sự vật hiện tượng và con người trong xã hội. Như vậy, phát triển được hiểu là sự tăng trưởng, là sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực, tiến lên. Theo tác giả Đặng Bá Lãm, “phát triển là một quá trình vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, theo đó cái cũ biến mất và cái mới ra đời v.v. Phát triển là một quá trình nội tại: bước chuyển từ thấp lên cao xảy ra bởi vì trong cái thấp đã chứa đựng dưới dạng tiềm tàng những khuynh hướng dẫn đến cái cao. Còn cái cao là cái thấp đã phát triển” [46]. Như vậy, sự vật, hiện tượng, con người, xã hội biến đổi để tăng tiến về số lượng, chất lượng dưới tác động của bên trong hoặc bên ngoài đều được coi là phát triển. 1.1.6. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý Phát triển đội ngũ chính là việc tạo ra các giá trị mới cho đội ngũ để đội ngũ đó được thay đổi, hoàn thiện theo một chiều hướng tích cực. Phát triển đội ngũ CBQL tức là nhằm vào hoàn thiện kết quả lao động tổng thể của người quản lý trong cương vị công tác hiện tại của họ và chuẩn bị cho họ đảm nhận những trách nhiệm cao hơn, nặng nề hơn và phức tạp hơn. Phát triển đội ngũ CBQL là một bộ phận của hệ thống PTNNL. Phát triển đội ngũ CBQL là một khái niệm tổng hợp bao gồm cả đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nghề nghiệp, cả tăng tiến về số lượng lẫn chất lượng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ này. Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã dẫn tới xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa và vậy là đòi hỏi phải có sự thay đổi trong mọi lĩnh vực. Với ngành giáo dục thì đổi mới và phát triển đội ngũ CBQL là một sự đột phá cho phát triển chất lượng giáo dục. Đề án xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục giai đoạn 2005 - 2010 của Chính phủ đã nhấn mạnh “Xây dựng và thực hiện chuẩn hóa đội ngũ CBQL giáo dục. Đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ CBQLGD các cấp về kiến thức, kỹ năng 11 quản lý và rèn luyện phẩm chất đạo đức; đồng thời điều chỉnh sắp xếp lại cán bộ theo yêu cầu mới phù hợp với năng lực và phẩm chất của từng người. Sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật thích hợp để nâng cao hiệu quả công tác quản lý” [65]. Phát triển đội ngũ CBQL giáo dục ở nước ta trong hoàn cảnh hiện nay phải quán triệt các yêu cầu về PTNNL. Đó là xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL giáo dục trên cả ba nội dung: quy mô, chất lượng và cơ cấu. Quy mô thể hiện bằng số lượng. Phát triển đội ngũ nhằm đủ về số lượng. Cơ cấu thể hiện sự hợp lý trong sự bố trí về cơ cấu chuyên ngành, độ tuổi, giới, chuyên môn, nghiệp vụ v.v. hay nói cách khác tạo ra ê kíp đồng bộ, đồng tâm nhất trí có khả năng hỗ trợ bù đắp cho nhau về mọi mặt. Chất lượng thể hiện bằng phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, đây là nhân tố quan trọng nhất trong công tác xây dựng đội ngũ. Chất lượng CBQL giáo dục ở các nhà trường phổ thông là phẩ m chấ t và năng lực của người CBQL trường phổ thông mà những phẩ m chấ t và năng lực đó phải phù hợp với các yêu cầ u đổ i mới quản lý giáo dục phổ thông trong từng giai đoa ̣n hoă ̣c từng thời kỳ lich ̣ sử cu ̣ thể . Trong đó , phẩ m chấ t của CBQL trường phổ thông đươ ̣c thể hiê ̣n ở tư tưởng chin ́ h tri ̣, đa ̣o đức nhà giáo , ý chí kiên định với lý tưởng của Đảng và của Chủ tich ̣ Hồ Chí Minh trên bước đường xây dựng xã hô ̣i chủ nghĩa trong bối cảnh phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế ; năng lực của CBQL trường phổ thông là các chuẩ n mực về kh ả năng hoàn thành chức năng và nhiê ̣m vu ̣ quản lý nhà trường phổ thông mà ho ̣ phải quản lý [70]. Như vâ ̣y, chấ t lươ ̣ng của đội ngũ CBQL trường phổ thông phu ̣ thuô ̣c vào trin ̀ h đô ̣ đào ta ̣o , mă ̣t khác , còn phụ thuộc vào cơ cấu tuổi , giới v.v. Đặc biệt tại các tỉnh có dân tộc ít người, cơ cấ u CBQL là người dân tô ̣c ít người cũng không kém phầ n quan tro ̣ng . Chất lượng CBQL trường phổ thông còn phu ̣ thuô ̣c vào công tác xây dựng và phát triển đội ngũ đó của huyện, tỉnh, thành phố. Công tác phát triển đội ngũ CBQL giáo dục hướng đế n viê ̣c nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường phổ thông trong giai đoa ̣n hiê ̣n nay phải tâ ̣p trung vào viê ̣c xây dựng và thực hiê ̣n có hiê ̣u quả hoa ̣t đô ̣ng dự báo phát triển giáo dục phổ thông và xây dựng quy hoa ̣ch phát triển đội ngũ CBQL . Trên cơ sở quy hoa ̣ch đó 12 thực hiê ̣n có chất lượng viê ̣c tuyể n cho ̣n, đề bạt và sử dụng theo một cơ cấu thích hơ ̣p; đồ ng thời tăng cường đào tạo , bồ i dưỡng để nân g cao phẩ m chấ t chin ́ h tri ̣ , đa ̣o đức và trình đô ̣ nhà giáo [70]. Trên cơ sở thu thập thông tin thực tế, từ điều tra thực trạng tình hình phát triển đội ngũ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý, lập kế hoạch dự báo, trong phạm vi các cấp học đã được phân cấp quản lý, phòng GD-ĐT huyện sẽ tiến hành quy hoạch đội ngũ CBQL sao cho đồng bộ về cơ cấu, thể hiện sự sự cân đối về độ tuổi, về giới, về dân tộc, về trình độ, về chuyên môn đào tạo v.v. 1.1.7. Trường Trung học cơ sở Điều 2, Điều lệ Trường trung học quy định: Trường Trung học cơ sở là cơ sở giáo dục của bậc trung học, bậc học nối tiếp bậc tiểu học của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm hoàn chỉnh học vấn phổ thông. Trường trung học cơ sở có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng [10]. Điều 43, Điều lệ trường trung học quy định nhà trường phải chủ động phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với gia đình và xã hội để xây dựng môi trường giáo dục thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục [10]. Trường THCS thực hiện nội dung giáo dục trung học cơ sở. Giáo dục THCS là bậc học sau giáo dục tiểu học, được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là mười một tuổi. Giáo dục THCS là bước kế tiếp giáo dục tiểu học, kế thừa và phát triển những kết quả đã đạt được trong bậc giáo dục tiểu học, đồng thời cung cấp những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để người học sinh có thể tiếp tục học lên giáo dục THPT hoặc tham gia lao động. Giáo dục THCS là một bậc học quan trọng, mang tính phổ thông, toàn diện và hướng nghiệp. Giáo dục THCS chuẩn bị cho một phần học sinh sau khi học xong chương trình giáo dục THCS sẽ học tiếp lên THPT, một phần sẽ đi vào cuộc sống lao động hoặc các trường trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề. Do đó trong nội dung của chương trình giáo dục THCS phải đổi mới theo hướng chủ động hơn, thực tế hơn, tập trung vào hình thành và phát triển khả năng thích nghi, hiểu biết các kỹ năng sống. 13 Theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001-2010 và chiến lược giáo dục 2001-2010 thì Việt Nam sẽ phổ cập THCS vào năm 2010, đây là một điều kiện rất cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, là một tiền đề thuận lợi cho Việt Nam tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước phát triển. 1.2. Vai trò của cán bộ quản lý trƣờng Trung học cơ sở Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: chương trình và sách giáo khoa; thi cử và tuyển sinh; đội ngũ thầy giáo, cô giáo và cán bộ quản lý; cơ sở vật chất và thiết bị dạy học; sự quan tâm của các cấp ủy đảng và chính quyền, đoàn thể; xã hội hóa giáo dục v.v. Trong các yếu tố đó thì yếu tố quyết định làm nên chất lượng giáo dục chính là đội ngũ nhà giáo, tuy nhiên có một yếu tố đóng vai trò dẫn dắt hoạt động dạy học đó là những CBQL giáo dục trong hệ thống ngành học và cơ sở giáo dục. Vai trò của cán bộ quản lý giáo dục được quy định tại Điều 16 Luật Giáo dục năm 2005. Cụ thể là: CBQL giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục; CBQL giáo dục phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và trách nhiệm cá nhân; Nhà nước có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL giáo dục nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của CBQL giáo dục, bảo đảm phát triển sự nghiệp giáo dục [61]. Người CBQL trước hết phải đáp ứng được các yêu cầu sau: có phẩm chất chính trị tốt, có hiểu biết về pháp luật, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực quản lý, có tác phong làm việc khoa học. Người CBQL giỏi là người có khả năng tập hợp được quần chúng, xây dựng được tập thể sư phạm đoàn kết, biết xây dựng và nhân được điển hình tiên tiến, nhân tố mới, người tốt, việc tốt, nét đẹp đời thường, nét đẹp trong cuộc sống hằng ngày của giáo viên và học sinh, thực hiện tôn trọng quy chế dân chủ, và lấy quy chế dân chủ làm chỗ dựa cho công tác quản lý. Đội ngũ CBQL trường Trung học cơ sở là thành phần, nhân tố cơ bản và quan trọng nhất của hệ thống quản lý nhà nước về giáo dục ở cấp THCS có tác động trực 14 tiếp đến chất lượng và hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giáo dục ở cấp THCS. Đội ngũ này có vai trò rất quan trọng cho sự thành bại của sự nghiệp giáo dục. Sản phẩm của đội ngũ giáo viên và đội ngũ CBQL giáo dục khác với với sản phẩm của các loại hình lao động khác ở chỗ: Sản phẩm này tích hợp cả nhân tố tinh thần và vật chất, đó là “Nhân cách – sức lao động”. Thành quả lao động của họ vừa tác động vào hình thái ý thức xã hội (giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc, tình đoàn kết đồng thuận của đất nước), vừa hình thành sức lao động kĩ thuật thúc đẩy sự năng động của đời sống thị trường, ở đây là thị trường sức lao động [44]. Sứ mệnh của đội ngũ CBQL giáo dục THCS có ý nghĩa cao cả đặc biệt. Họ là bộ phận lao động tinh hoa của đất nước. Lao động của họ trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy sự phát triển đất nước, cộng đồng đi vào trạng thái phát triển bền vững. Một ngày thiếu giáo dục đất nước không thể tồn tại được và giáo dục không có người thầy không thể vận động được. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân cũng đã nhấn mạnh: “Sự nghiệp đổi mới giáo dục thành công hay không một phần quan trọng phụ thuộc ở năng lực quản lý, điều hành của người hiệu trưởng”. Khi đã được phân cấp, trách nhiệm của hiệu trưởng lại càng nặng nề hơn. Bên cạnh năng lực chuyên môn tốt, hiệu trưởng còn phải có khả năng quản lý kinh tế, có trình độ tin học và ngoại ngữ nhất định. Nếu không, trong thời kỳ hội nhập, khó mà nói đến chuyện ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin và tận dụng cơ hội để hiện đại hóa giáo dục thông qua sự hợp tác quốc tế [52]. Người hiệu trưởng còn cần phải có khả năng thích ứng môi trường thay đổi nhanh và chịu đựng với thực trạng áp lực công việc cao hằng ngày. Ở những nơi nội bộ có vấn đề, ban giám hiệu mất đoàn kết, quy chế dân chủ không được thực hiện, thì khó có thể tập trung được lực lượng và tâm trí để làm chuyên môn, khó có thể xây dựng nhà trường thành trường kiểu mẫu. Hiệu trưởng phải là người vừa có “tâm” vừa có “tầm”, phải là người mà được đại đa số cán bộ, giáo viên nể và phục. Nể vì đức độ, vì sự gương mẫu, vì lối 15 sống và cách đối nhân xử thế, vì cái “tâm” của hiệu trưởng, phục vì năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, cách điều hành, xử lý thông tin. Công tác quản lý của ta lâu nay ở các trường phổ thông, đặc biệt là ở cấp THCS chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa coi trọng công tác dự báo, xây dựng chiến lược. Kiến thức về pháp luật tổ chức bộ máy, quản lý nhân sự, tài chính hạn chế, lúng túng trong thực thi thẩm quyền và trách nhiệm. Như vậy, yêu cầu cấp bách hiện nay là phải đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQL ở các nhà trường, đặc biệt là cấp THCS. Cần phát hiện và nhân điển hình các mô hình hiệu trưởng quản lý giỏi cùng với việc xây dựng đội ngũ các nhà giáo vừa giỏi về chuyên môn vừa tâm huyết với sự nghiệp trồng người theo hướng chuẩn nghề nghiệp. Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam rất quan tâm xây dựng đội ngũ CBQL giáo dục nói chung và CBQL giáo dục cấp THCS nói riêng. Trong thời kỳ đổi mới giáo dục đã liên tiếp có các chỉ thị về lĩnh vực quan trọng này. Ngày 17/8/2001 Thủ tướng Chính phủ có chỉ thị 18/2001/CT-TTg nêu ra các biện pháp cấp bách xây dựng đội ngũ nhà giáo của hệ thống giáo dục quốc dân. Tiếp theo đó, ngày 28/12/2001 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 201/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010”. Trong các giải pháp phát triển giáo dục của đề án, lưu ý: “Xây dựng và thực hiện chuẩn hóa đội ngũ CBQL giáo dục. Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ CBQL giáo dục các cấp về kiến thức, kỹ năng quản lý và rèn luyện phẩm chất đạo đức; đồng thời điều chỉnh, sắp xếp lại cán bộ theo yêu cầu mới phù hợp với năng lực và phẩm chất từng người”. Ngày 9/7/2001 Chính phủ có Nghị định 35/2001/NĐ-CP, sau đó là Nghị định số 61/2006/NĐ-CP ngày 20/6/2006 về chính sách đối với nhà giáo, CBQL giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn. Ngày 15/6/2004 Ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá IX có Chỉ thị số 40-CT/TW Về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục. Từ Chỉ thị này, ngày 11/1/2005 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định phê duyệt đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục giai đoạn 2005-2010” với mục tiêu là: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục được 16 chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [65]. Trong các nhiệm vụ nêu ra đã lưu ý việc: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, CBQL giáo dục. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò, trách nhiệm của nhà giáo và nhiệm vụ xây dựng đội ngũ nhà giáo, CBQL giáo dục có chất lượng cao, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức, tận tụy với nghề nghiệp, là trụ cột thực hiện các mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [65]. 1.3. Nội dung công tác phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trƣờng Trung học cơ sở của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Phát triển đội ngũ CBQL là một bộ phận của hệ thống PTNNL. Bởi vậy, các nội dung của công tác phát triển đội ngũ CBQL trường THCS đều tuân thủ theo nội dung của lý thuyết PTNNL. Nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp là lực lượng lao động. Trong bất kỳ tổ chức nào (tổ chức xã hội, kinh tế lớn hay một tổ chức đơn lẻ) đều có bộ phận lãnh đạo, quản lý và nhân lực thừa hành, tác nghiệp theo từng lĩnh vực, từng công việc với chức năng, nhiệm vụ cụ thể. PTNNL là quá trình tạo ra sự biến đổi về cơ cấu, về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực phù hợp với giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội ở các cấp độ khác nhau, đáp ứng nhu cầu nhân lực cần thiết cho các lĩnh vực hoạt động lao động và đời sống xã hội, nhờ đó mà phát triển được năng lực, tạo được công ăn việc làm, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống cho các tầng lớp dân cư và cuối cùng là đóng góp chung cho sự nghiệp phát triển của xã hội. Tư tưởng chỉ đạo về PTNNL là: Lấy phát triển bền vững làm trung tâm; Mỗi con người là một cá nhân độc lập làm chủ quy trình lao động của mình; Lấy lợi ích của người lao động làm nguyên tắc cơ bản của quản lý lao động; Bảo đảm môi trường dân chủ, thuận lợi cho tiến hành giao lưu đồng thuận; Có chính sách 17 giải phóng và phát huy tiềm năng của người lao động, bảo đảm hiệu quả công việc; PTNNL phải bám sát thị trường lao động, tránh tình trạng đào tạo ra không biết nhân lực có đáp ứng được công việc hay không, có chỗ làm hay không; Có chính sách PTNNL, bao gồm tuyển dụng, chính sách lao động, phân công lao động, phân bổ nhân lực, chính sách cán bộ, tiền lương, thi đua khen thưởng v.v. Vấn đề tạo ra động lực để kích thích mọi người chăm học, chăm làm, động viên tính tích cực của người lao động để họ năng động, thiện chí, cầu tiến, tự nguyện, tự giác làm việc cho tổ chức [50]. QLNNL cuối cùng là vì con người, cho con người, do con người thực hiện và được con người cân bằng tâm lý, phát triển toàn diện, cần gắn chặt nhu cầu và lợi ích kinh tế thì kết quả lao động của con người mới có chất lượng và bền vững. Con người tham gia vào quá trình đó một cách tích cực và có trách nhiệm, sáng tạo, trung thực và phải được hưởng hạnh phúc. Tác động vào nhu cầu, lợi ích con người là biện pháp thường xuyên thỏa mãn nhu cầu và lợi ích của họ là mục tiêu của quản lý. Giữ gìn và phát huy thường xuyên tính tích cực sáng tạo của họ là yêu cầu trung tâm của QLNNL. Để khai thác tối đa tiềm năng của con người tạo ra lợi thế cạnh tranh đòi hỏi tập trung vào ba khía cạnh: Thiết kế cơ cấu, sắp xếp và tổ chức công việc; quản lý văn hóa tổ chức; quản lý chính sách và nhân sự [50]. Việc đầu tiên là để khai thác tối đa tiềm năng của con người đó là sắp xếp công việc phù hợp với khả năng để tạo ra động cơ tích cực; Phải lưu ý đến văn hóa tổ chức tạo ra môi trường dân chủ và có sự chia sẻ đồng thuận. Theo Nguyễn Minh Đường, PTNNL có thể hiểu theo nghĩa: “Phát triển nguồn nhân lực bao gồm ba mặt: Phát triển sinh thể, phát triển nhân cách đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho nguồn lực phát triển” [35]. Nói một cách tổng quát, PTNNL là tăng giá trị vật chất, giá trị tinh thần, đạo đức và giá trị thể chất cho con người. Theo lý thuyết QLNNL, phát triển đội ngũ bao gồm ba vấn đề: Thứ nhất, xây dựng đội ngũ gồm: Qui hoạch, tuyển dụng, sắp xếp bố trí. Thứ hai là sử dụng đội ngũ: bao gồm triển khai việc thực hiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ, đánh giá sàng lọc. Thứ ba là phát triển đội ngũ, bao gồm việc thực hiện các chế độ chính sách đối với đội ngũ CBQL, quan tâm thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng 18 CBQL tạo môi trường thuận lợi cho đội ngũ phát huy tiềm năng của họ, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để đội ngũ được thăng tiến. PTNNL được đặt trong nhiệm vụ QLNNL và là một nội dung quan trọng của QLNNL. Sơ đồ 1.1. Quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực với quản lý nguồn nhân lực Quản lý NNL Phát triển NNL Sử dụng NNL Môi trường của NNL - Giáo dục & Đào tạo - Bồi dưỡng - Phát triển - Nghiên cứu, phục vụ - Tuyển dụng - Sàng lọc - Bố trí, sử dụng - Đánh giá - Đãi ngộ - Kế hoạch hóa sức lao động - Mở rộng chủng loại việc làm - Mở rộng quy mô việc làm - Phát triển tổ chức Nội dung PTNNL có thể hướng đến các mục tiêu về số lượng, cơ cấu, chất lượng và sự đồng thuận của các thành viên trong tổ chức. Có thể khái quát nội dung phát triển nguồn nhân thông qua sơ đồ dưới đây. Sơ đồ 1.2. Phát triển nguồn nhân lực Số lượng Cơ cấu Phát triển nguồn nhân lực Đồng thuận Chất lượng Như vậy, công tác phát triển đội ngũ CBQL nghĩa là quan tâm đến đội ngũ đủ về số lượng, vững mạnh về trình độ, một đội ngũ đa dạng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất