BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
..………………
DƯƠNG THẾ LÂN
VỐN XÃ HỘI, SỰ ƯA THÍCH RỦI RO VÀ QUYẾT ĐỊNH CHƠI HỤI:
TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU Ở TỈNH BẠC LIÊU
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
..………………
DƯƠNG THẾ LÂN
VỐN XÃ HỘI, SỰ ƯA THÍCH RỦI RO VÀ QUYẾT ĐỊNH CHƠI HỤI:
TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU Ở TỈNH BẠC LIÊU
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60310105
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM KHÁNH NAM
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn "Vốn xã hội, sự ưa thích rủi ro và quyết định chơi hụi:
Trường hợp nghiên cứu ở tỉnh Bạc Liêu" là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng cá nhân tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực
và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác trước đây.
Tất cả những phần kế thừa, tham khảo đều được trích dẫn và ghi nguồn cụ thể
trong danh mục tài liệu tham khảo.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2016
TÁC GIẢ
DƯƠNG THẾ LÂN
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH
TÓM TẮT
Chương 1. Giới thiệu...................................................................................................1
1.1. Đặt vấn đề.............................................................................................................1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................................4
1.3. Câu hỏi nghiên cứu...............................................................................................5
1.4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu...........................................................................6
1.5. Kết cấu luận văn...................................................................................................7
Chương 2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu có liên quan........................................8
2.1. Một số định nghĩa liên quan đến đề tài................................................................8
2.2. Lý thuyết về tham gia hụi...................................................................................12
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan..............................................................18
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................25
3.1. Khung phân tích.................................................................................................25
3.2. Mô hình kinh tế lượng.......................................................................................26
3.3. Đo lường các biến trong mô hình......................................................................28
3.4. Dữ liệu nghiên cứu............................................................................................38
Chương 4. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu..........................................................39
4.1. Tổng quan về tỉnh Bạc Liêu..............................................................................39
4.2. Tổng quan về hoạt động chơi hụi ở Việt Nam..................................................42
4.3. Một số quy định pháp luật về hụi......................................................................44
Chương 5. Kết quả nghiên cứu.................................................................................47
5.1. Mô tả mẫu khảo sát............................................................................................47
5.2. Thực trạng tham gia hụi của người dân trên địa bàn.........................................49
5.3. Dự đoán chiều hướng mối quan hệ dựa vào đồ thị tương quan........................55
5.4. Kiểm định vấn đề đa cộng tuyến.......................................................................61
5.5. Kết quả ước lượng từ mô hình hồi quy Probit..................................................62
5.6. Kết quả ước lượng từ mô hình hồi quy Tobit...................................................67
5.7. Kiểm định tính vững của kết quả nghiên cứu...................................................72
Chương 6. Kết luận và Kiến nghị............................................................................73
6.1. Kết luận............................................................................................................73
6.2. Kiến nghị..........................................................................................................74
6.3. Đóng góp mới của đề tài..................................................................................78
6.4. Giới hạn của đề tài...........................................................................................78
6.5. Hướng nghiên cứu tiếp theo............................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Roscas: Rotating savings and credit associations
VHLSS: Vietnam Household Living Standard Survey
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1 Tóm tắt định nghĩa và cách đo lường các biến trong mô hình
Bảng 4.1. Số đơn vị hành chính tỉnh Bạc Liêu tính đến ngày 31/12/2015
Bảng 4.2. Số hộ gia đình phân theo dân tộc của tỉnh Bạc Liêu năm 2015
Bảng 4.3. Tổng sản phẩm bình quân đầu người tỉnh Bạc Liêu
Bảng 5.1. Kết quả thống kê mô tả mẫu khảo sát
Bảng 5.2. Kết quả thống kê số người tham gia hụi
Bảng 5.3. Thống kê số chân hụi/dây hụi/số tiền góp hụi của đáp viên
Bảng 5.4. Kết quả thống kê loại hụi đáp viên tham gia
Bảng 5.5. Lý do tham gia hụi của đáp viên
Bảng 5.6. Thời gian ưa thích lĩnh hụi của đáp viên
Bảng 5.7. Thống kê số tiền trả lãi, tỷ lệ lãi/số tiền góp hụi của đáp viên
Bảng 5.8. Mục đích sử dụng số tiền lĩnh hụi của đáp viên
Bảng 5.9. Tỷ lệ hoa hồng cho chủ hụi
Bảng 5.10. Lý do không tham gia hụi của đáp viên
Bảng 5.11. Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa các biến độc lập
Bảng 5.12. Kết quả ước lượng từ mô hình hồi quy Probit
Bảng 5.13. Kết quả ước lượng từ mô hình hồi quy Tobit
Bảng 5.14. Kết quả kiểm định tính vững của kết quả nghiên cứu với mô hình Tobit
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1. Quan hệ giữa mạng lưới xã hội chính thức và quyết định tham gia hụi
Biểu đồ 2. Quan hệ giữa mạng lưới xã hội không chính thức và quyết định tham gia hụi
Biểu đồ 3. Quan hệ giữa lòng tin và quyết định tham gia hụi
Biểu đồ 4. Quan hệ giữa sự hợp tác và quyết định tham gia hụi
Biểu đồ 5. Quan hệ giữa sự ưa thích rủi ro và quyết định tham gia hụi
Biểu đồ 6. Quan hệ giữa mạng lưới xã hội chính thức và số tiền tham gia hụi
Biểu đồ 7. Quan hệ giữa mạng lưới xã hội không chính thức và số tiền tham gia hụi
Biểu đồ 8. Quan hệ giữa lòng tin và số tiền tham gia hụi
Biểu đồ 9. Quan hệ giữa sự hợp tác và số tiền tham gia hụi
Biểu đồ 10. Quan hệ giữa sự ưa thích rủi ro và số tiền tham gia hụi
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 4.1. Bản đồ hành chính tỉnh Bạc Liêu
TÓM TẮT
Sử dụng dữ liệu thu thập từ 738 đáp viên là những người dân đang sinh sống
trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Bạc Liêu, mục tiêu của bài viết là
nhằm phân tích ảnh hưởng của yếu tố vốn xã hội và sự ưa thích rủi ro của các cá
nhân đến quyết định tham gia hụi và số tiền góp hụi hàng tháng của họ. Kết quả
khảo sát về thực trạng chơi hụi cho thấy: Hụi đã và đang là loại hình tín dụng rất
phổ biến trên địa bàn với 61,38% người dân tham gia, với mục đích chủ yếu là
nhằm huy động nhanh chóng nguồn vốn để đáp ứng cho những nhu cầu thiết yếu
của bản thân và gia đình (chiếm tỷ trọng 24,28%) cũng như nhằm tìm kiếm lợi ích
(lãi suất) hấp dẫn hơn so với việc gửi tiết kiệm (chiếm tỷ trọng 34,28%). Kết quả
ước lượng từ mô hình hồi quy Probit cho thấy: Những cá nhân có mạng lưới phi
chính thức rộng hơn, cá nhân có lòng tin vào những người xung quanh, cá nhân là
người bàng quan với rủi ro và cá nhân thích rủi ro sẽ có xác suất tham gia hụi cao
hơn những người khác. Đây cũng là những yếu tố được nhận thấy là có tác động
tích đến số tiền tham gia hụi của các cá nhân theo kết quả từ mô hình hồi quy Tobit.
Ngược lại, việc tham gia vào các nhóm/tổ chức/hiệp hội lại được nhận thấy là có tác
động tiêu cực đến quyết định tham gia hụi của các cá nhân. Một điểm khác biệt
đáng chú ý của nghiên này cứu chính là: Những cá nhân có tinh thần hợp tác cùng
người khác lại có xu hướng tham gia hụi với số tiền thấp hơn những người khác.
Từ khóa: Hụi, roscas, vốn xã hội, sự ưa thích rủi ro
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề
Hụi (rosca) là loại hình tín dụng dân gian (tín dụng phi chính thức) đã tồn tại từ
rất lâu trên khắp thế giới (Geertz, 1962; Ardener, 1964). Theo một số nhà nghiên cứu
(Geertz, 1962; Ardener, 1964; Adams và Sahonero, 1989; Bouman, 1995), hụi đặc biệt
phổ biến tại các quốc gia đang phát triển thuộc khu vực châu Á, Mỹ Latinh và châu Phi
như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, Bolivia, Mexico, Peru, Nigeria,
Ghana, Cameroons, Sudan và Sierra Leone..... Theo ước tính, trong những năm 1980,
khoảng 50% dân số trưởng thành, bao gồm cả nam và nữ, thuộc Cộng hòa Công Gô có
tham gia hụi. Ở nhiều khu vực nông thôn của Liberia, Bờ Biển Ngà, Togo, Nigeria, và
Cameroons, tỷ lệ này cao hơn hẳn, khoảng 50% đến 95% (Bouman, 1995). Tại một số
quốc gia tương đối phát triển hơn, điển hình như Đài Loan, 80% các hộ gia đình cũng
được ghi nhận là thành viên của ít nhất một tổ chức hụi (Levenson và Besley, 1996).
Phương thức hoạt động của hụi nhìn chung cũng khá là đơn giản, đó là: Dựa
trên tinh thần tự nguyện, một nhóm các cá nhân sẽ tập hợp lại với nhau sau mỗi một
khoảng thời gian xác định trước, ví dụ như mỗi tháng một lần, cùng nhau đóng góp tiền
hoặc những tài sản khác vào một nguồn quỹ chung. Nguồn quỹ chung này sau đó sẽ
được phân bổ theo lượt cho từng thành viên trong nhóm. Thông thường, việc phân bổ
có thể sẽ do chủ hụi quyết định dựa trên những thông tin mới nhất về nhu cầu và khả
năng chi trả của từng thành viên trong nhóm hoặc được tiến hành theo hình thức rút
thăm (đối với hụi không có lãi) hoặc đấu giá bằng cách bỏ thăm kín (đối với hụi có lãi),
ai là người trả lãi cao nhất thì sẽ được ưu tiên lĩnh hụi. Và một khi tất cả các thành viên
trong nhóm đều đã được nhận quỹ, nhóm sẽ tự động giải tán hoặc cũng có thể bắt đầu
lại theo một tiến trình mới tương tự (Ardener, 1964; Calomiris và Rajaraman, 1998).
2
Trên lý thuyết, hụi có ưu điểm là nhanh chóng huy động được lượng tiền nhàn
rỗi chưa được sử dụng từ nhiều cá nhân riêng lẻ để chuyển sang cho người cần nó
ngay, qua đó làm gia tăng lợi ích cho các cá nhân đó. Tuy nhiên, có một thực tế không
thể phủ nhận là, việc chơi hụi cũng khá tốn kém và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thứ nhất, mỗi
cá nhân khi tham gia hụi phải đều đặn dành ra một khoảng thời gian nhất định để tham
dự các cuộc họp nhằm quyết định (theo hình thức bốc thăm hoặc đấu giá) xem ai sẽ là
người được lĩnh hụi cùng những vấn đề khác có liên quan. Về khía cạnh kinh tế, đây
được xem là “chi phí cơ hội của thời gian” mà mỗi thành viên của dây hụi phải gánh
chịu (Muturi, 2012). Thứ hai, khi cần vốn để trang trải cho những nhu cầu đột xuất, cá
nhân tham gia chưa chắc có thể lĩnh hụi được ngay do thời gian mở hụi không chắc
phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của mỗi người. Besley, Coate và Loury (1993) cũng lập
luận rằng, ngay cả đối với hụi đấu giá (bidding rosca), vốn cho phép thành viên được
nhận hụi gần như ngay lập tức, cũng chỉ cho phép họ đối phó với các tình huống rủi ro
"không lặp lại" bởi vì mỗi người chỉ được lĩnh hụi một lần trong suốt chu kỳ của hụi.
Cuối cùng, do sự xuất hiện của hiện tượng thông tin bất cân xứng1 và những hạn chế
trong khả năng cưỡng chế của các thành viên nên rủi ro bị giựt hụi vẫn có thể xảy ra
bất cứ lúc nào (Lê Khương Ninh và Cao Văn Hơn, 2012b).
Thực tiễn ở nước ta trong những năm gần đây cũng cho thấy, số vụ “giựt hụi”,
“vỡ hụi” xảy ra dường như ngày càng thường xuyên hơn, kể cả ở khu vực thành thị lẫn
nông thôn. Đồng thời, quy mô của mỗi vụ cũng có xu hướng ngày càng lớn. Điển hình
nhất phải kể đến là vụ "vỡ hụi" quy mô lớn xảy ra vào những ngày đầu năm 2014 trên
địa bàn ấp Canh Điền, xã Long Điền Tây, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. Theo thống
kê của chính quyền địa phương, số tiền mà chủ hụi đã chiếm đoạt của các thành viên
1
Thuật ngữ dùng để chỉ hiện tượng các chủ thể khác nhau không có thông tin như nhau về một đối tượng nào đó mà tất cả
cùng quan tâm. Điều này thường dẫn đến hai hệ quả là lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức. Lựa chọn ngược ngụ ý rằng do thiếu
thông tin nên các cá nhân không đáp ứng đủ điều kiện, hoặc có ý định lừa đảo, vẫn được chấp nhận cho tham gia vào các dây
hụi (Lê Khương Ninh và Cao Văn Hơn, 2012b). Rủi ro đạo đức thường xảy ra sau khi thành viên nào đó đã lĩnh hụi. Do
không còn lợi ích trong việc tiếp tục góp hụi nên thành viên này sẽ có động cơ không giữ đúng cam kết góp hụi để các thành
viên còn lại lĩnh hụi (Besley, Coute và Loury, 1993). Cả hai hệ quả trên đều sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của hụi và
dẫn đến thiệt hại cho các thành viên khác (Lê Khương Ninh và Cao Văn Hơn, 2012b).
3
lên đến gần 10 tỷ đồng, một con số quá lớn đối với một xã nghèo như Long Điền Tây.
Hậu quả là hơn hai trăm người dân trên địa bàn, đa phần thuộc những nông hộ nghèo,
mất trắng toàn bộ số tiền đã tích cóp được từ việc đi làm thuê, làm mướn trong một
khoảng thời gian dài. Người bị mất nhiều nhất là trên 200 triệu đồng, ít nhất cũng vài
chục triệu. Nhiều người còn lâm vào cảnh nợ nần chồng chất vì đã trót đi vay, cầm cố
tài sản để có tiền “nuôi hụi”2.
Tại sao rủi ro như thế nhưng rất nhiều người dân vẫn tham gia hụi, thậm chí là
đi vay tiền và cầm cố tất cả tài sản mà các thành viên trong gia đình phải lao động rất
vất vả trong nhiều năm liền để có tiền “nuôi hụi”? Tại sao họ lại không tự mình tiết
kiệm hoặc gửi tiền vào các tổ chức tín dụng chính thức, nơi được xem là địa chỉ sinh
lợi an toàn hơn cho đồng vốn của họ? Điều gì đã ảnh hưởng đến quyết định tham gia
vào hoạt động chơi hụi của các cá nhân này? Phải chăng hoàn toàn là do họ cảm nhận
thấy lợi ích từ việc tham gia hụi hấp dẫn hơn nhiều với việc tự tiết kiệm hoặc gửi tiền
vào các tổ chức tín dụng nên họ bất chấp rủi ro để tham gia? Đó là những câu hỏi được
khá nhiều nhà nghiên cứu, các nhà kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước và những
người dân quan tâm đến hoạt động chơi hụi đặt ra và mong muốn tìm kiếm câu trả lời.
Theo sự hiểu biết của tác giả, đến thời điểm hiện tại, đã có khá nhiều nghiên cứu
thực nghiệm được tiến hành để trả lời cho câu hỏi trên. Và hầu hết chúng đều cho thấy:
Quyết định tham gia vào hoạt động chơi hụi sẽ chịu tác động bởi khá nhiều yếu tố khác
nhau, trong đó vốn xã hội (bao gồm mạng lưới xã hội, lòng tin và sự hợp tác) và sự ưa
thích rủi ro của cá nhân được nhận thấy là những yếu tố có tác động lớn (Anderson và
Baland, 2002; Brata, 2004; Kedir, 2005; Nguyen, 2009; Lasagni và Lollo, 2011;
Trương Đông Lộc, 2011; Nguyễn Văn Vũ An, 2014). Tuy nhiên, yếu tố vốn xã hội
trong những nghiên cứu trên hầu hết chỉ mới được xem xét trên khía cạnh lòng tin
(Nguyen, 2009; Anderson và Baland, 2002; Kedir, 2005) và/hoặc mạng lưới xã hội
2
Nguồn: thanhnien.vn/thoi-su/vo-hui-10-ti-dong-hon-200-ho-ngheo-dieu-dung-5466.html
4
chính thức (Brata, 2004; Lasagni và Lollo, 2011; Trương Đông Lộc, 2011), trong khi
các yếu tố khác (như mạng lưới xã hội không chính thức và sự hợp tác) lại chưa được
lưu tâm đến, mặc dù đây là những thành phần quan trọng của vốn xã hội, được khá
nhiều nhà kinh tế nhận định là có tác động lớn đến quyết định tham gia hụi của các cá
nhân (Geertz, 1962; Ardener, 1964; Adams và Sahonero, 1989). Tiếp nữa, thái độ đối
với rủi ro của các cá nhân trong một số nghiên cứu cũng chỉ được đo lường một cách
đơn giản bằng biến nhị phân (là sợ hay không sợ rủi ro), nên chưa cho thấy được ảnh
hưởng của mức độ ưa thích (cao hay thấp) đến quyết định tham gia hụi của các cá nhân
(Lê Khương Ninh và Cao Văn Hơn, 2012a; Nguyễn Văn Vũ An, 2014). Cuối cùng, tất
cả các nghiên cứu trên cũng chưa cho thấy ảnh hưởng của yếu tố lòng tin, mạng lưới xã
hội không chính thức và sự ưa thích rủi ro của các cá nhân đến số tiền tham gia hụi
hàng tháng của họ, hoặc nếu có thì mới chỉ xem xét ở cấp độ hộ gia đình thuộc khu vực
nông thôn (Lê Khương Ninh và Cao Văn Hơn, 2012a; Nguyễn Văn Vũ An, 2014).
Từ thực tế lỗ hổng nghiên cứu trên đã khích lệ tác giả tiến hành bài viết này với
mục tiêu là phân tích đồng thời ảnh hưởng của yếu tố vốn xã hội, bao gồm cả mạng
lưới xã hội chính thức, mạng lưới xã hội không chính thức, lòng tin và sự hợp tác, và
sự ưa thích rủi ro của các cá nhân đến quyết định tham gia hụi, cũng như là đến số tiền
hụi góp hụi hàng tháng của họ. Thông qua đó, đề xuất các giải pháp hữu ích giúp giảm
thiểu rủi ro, đưa hụi trở thành một loại hình tín dụng dân gian hữu ích cho những người
dân có nhu cầu tham gia.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của bài viết là nhằm phân tích ảnh hưởng của yếu tố vốn xã
hội và sự ưa thích rủi ro của các cá nhân đến quyết định tham gia chơi hụi và số tiền
góp hụi hàng tháng của họ.
5
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Từ mục tiêu tổng quát trên, bài viết sẽ tập trung vào giải quyết các mục tiêu cụ
thể sau:
Mục tiêu 1: Phân tích ảnh hưởng của yếu tố vốn xã hội của các cá nhân đến
quyết định tham gia hụi của họ.
Mục tiêu 2: Phân tích ảnh hưởng của sự yêu thích rủi ro của các cá nhân đến
quyết định tham gia hụi của họ.
Mục tiêu 3: Phân tích ảnh hưởng của yếu tố vốn xã hội của các cá nhân đến số
tiền góp hụi hàng tháng của họ.
Mục tiêu 4: Phân tích ảnh hưởng của sự yêu thích rủi ro của các cá nhân đến số
tiền góp hụi hàng tháng của họ.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Từ những mục tiêu cụ thể trên, bài viết sẽ tập trung trả lời cho những câu hỏi
nghiên cứu sau:
Câu hỏi 1: Vốn xã hội của các cá nhân có ảnh hưởng đến quyết định tham gia
chơi hụi của họ hay không?
Câu hỏi 2: Vốn xã hội của các cá nhân có ảnh hưởng như thế nào đến số tiền
góp hụi hàng tháng của họ?
Câu hỏi 3: Sự ưa thích rủi ro của các cá nhân có ảnh hưởng đến quyết định
tham gia chơi hụi của họ hay không?
Câu hỏi 4: Sự ưa thích rủi ro của các cá nhân có ảnh hưởng như thế nào đến số
tiền góp hụi hàng tháng của họ?
6
1.4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ảnh hưởng của yếu tố vốn xã hội và sự ưa
thích rủi ro của các cá nhân đến hoạt động chơi hụi họ. Cụ thể, nghiên cứu sẽ phân tích
ảnh hưởng của yếu tố vốn xã hội và sự ưa thích rủi ro của các cá nhân đến quyết định
tham gia hụi và số tiền góp hụi hàng tháng của họ.
1.4.2 . Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tác giả thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng
10 năm 2016.
1.4.3. Không gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu. Theo thực tế tìm hiểu
của chính tác giả, đây là một trong những tỉnh có hoạt động chơi hụi rất phổ biến ở khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng cũng như cả nước nói chung.
1.4.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu sử dụng trong bài nghiên cứu thuộc loại số liệu sơ cấp, được tác giả thu
thập từ cuộc phỏng vấn trực tiếp những người dân có và không có tham gia vào hoạt
động chơi hụi trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.
1.4.4.2. Phương pháp xử lý số liệu
Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để mô tả thực trạng tham gia hụi của
các cá nhân trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu dựa trên cơ sở số liệu sơ cấp thu thập được từ
các cuộc phỏng vấn trực tiếp các cá nhân có và không có tham gia vào hoạt động chơi
7
hụi. Thống kê mô tả là việc mô tả dữ liệu nghiên cứu bằng các phép tính và chỉ số
thống kê như số trung bình, số trung vị, số nhỏ nhất, số lớn nhất, độ lệch chuẩn....
Nhằm phân tích ảnh hưởng của yếu tố vốn xã hội và sự ưa thích rủi ro của các
cá nhân đến quyết định tham gia hụi của họ, nghiên cứu đã sử dụng mô hình Probit do
Goldberger (1964) đề xuất. Theo Goldberger (1964), mô hình Probit được xem là phù
hợp khi biến phụ thuộc là biến nhị phân (có hoặc không có tham gia hụi).
Kế tiếp, mô hình Tobit được tác giả sử dụng để phân tích ảnh hưởng của yếu tố
vốn xã hội và sự ưa thích rủi ro của các cá nhân đến số tiền góp hụi hàng tháng của họ.
Theo Gujarati (2004), Tobit là mô hình phù hợp để ước lượng ảnh hưởng của các biến
độc lập đến biến phụ thuộc khi biến phụ thuộc không được phép nhỏ hơn một giá trị
nhất định (trường hợp này là số tiền tham gia hụi hàng tháng không thể nhỏ hơn 0).
1.4.5. Giới hạn nghiên cứu
Nghiên cứu chỉ tập trung xem xét việc tham gia vào hình thức hụi có lãi bởi đây
được nhận thấy là hình thức hụi mang tính rủi ro rất cao, đồng thời cũng là hình thức
hụi phổ biến nhất trên địa bàn khảo sát.
1.5. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của bài viết bao gồm 6 chương. Chương 1 trình bày về vấn đề nghiên
cứu cùng với mục tiêu, câu hỏi, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Chương 2 sẽ tiến
hành lược khảo lý thuyết về hụi cũng như những nghiên cứu thực nghiệm có liên quan
đến đề tài. Phần phương pháp nghiên cứu sẽ được tác giả trình bày trong chương 3.
Chương 4 là phần giới thiệu tổng quan về địa bàn nghiên cứu và về hoạt động chơi hụi
ở Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong chương 5 và cuối cùng
chương 6 là phần kết luận và đề xuất một số giải pháp nhằm giúp giảm thiểu rủi ro, đưa
hụi trở thành một hình thức tín dụng hữu ích cho những người có nhu cầu tham gia.
8
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
2.1. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài
2.1.1. Khái niệm hụi
Hụi là một hiện tượng phổ biến toàn cầu (Besley, Coate và Loury, 1993). Chính
vì sự phổ biến này mà đã có khá nhiều nhà kinh tế, xã hội và nhân chủng học dành sự
quan tâm nghiên cứu về nó và đưa ra khá nhiều định nghĩa khác nhau.
Theo Ardener (1964), hụi là một hiệp hội bao gồm một nhóm các cá nhân nhất
định, những người đồng ý góp (tiền hoặc những tài sản khác tương tự như tiền) đều
đặn vào một nguồn quỹ chung, và nguồn quỹ này sau đó sẽ được phân bổ hết hoặc theo
từng phần một cách xoay vòng cho từng thành viên trong hiệp hội. Tiến trình phân bổ
sẽ kết thúc sau khi tất cả mọi người đều đã nhận được nguồn quỹ này. Việc xác định
thứ tự nhận quỹ có thể sẽ chủ hụi quyết định dựa trên những thông tin mới nhất về nhu
cầu của từng thành viên hoặc được tiến hành theo hình thức rút thăm hoặc đấu giá.
Theo Brink và Chavas (1991), hụi là một hiệp hội của một nhóm các cá nhân
(nam và/hoặc nữ), những người sẽ đều đặn gặp nhau sau mỗi một khoảng thời gian đã
xác định trước, ví dụ như mỗi tháng một lần, nhằm phân bổ một quỹ tiền chung cho
một trong số những thành viên trong hiệp hội. Nguồn quỹ này có được từ những khoản
đóng góp (cố định hoặc không cố định) của các thành viên. Việc phân bổ sẽ được tiến
hành một cách xoay vòng, và kết thúc sau khi tất cả các thành viên trong hiệp hội đều
đã được nhận quỹ.
Tương tự như vậy, Calomiris và Rajaraman (1998) định nghĩa hụi là một tổ
chức tài chính phi chính thức, bao gồm một nhóm các cá nhân là những người tham gia
một cách tự nguyện, và đồng ý đóng góp về mặt tài chính tại mỗi cuộc họp được tổ
9
chức sau mỗi một khoảng thời gian nhất định, nhằm mục đích tạo ra một nguồn quỹ
chung. Nguồn quỹ này sau đó sẽ được phân bổ theo lượt cho từng thành viên của nhóm
theo một số nguyên tắc được xác định trước. Việc phân bổ có thể tiến hành theo hình
thức rút thăm (đối với hụi không có lãi) hoặc đấu giá (đối với hụi có lãi). Một khi tất cả
các thành viên đều đã được nhận quỹ, nhóm sẽ giải tán hoặc cũng có thể bắt đầu lại
theo một tiến trình mới tương tự như trên.
Tại Việt Nam, điều 479 của Bộ luật dân sự năm 2005 đã định nghĩa hụi như sau:
“Họ, hụi, biêu, phường (sau đây gọi chung là họ) là một hình thức giao dịch về tài sản
theo tập quán trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng định ra
số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ, và quyền, nghĩa vụ
của các thành viên. Hình thức họ nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân được thực
hiện theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc tổ chức họ dưới hình thức cho vay
nặng lãi”. Việc xác định thứ tự lĩnh hụi thông thường sẽ được tiến hành theo hình thức
bốc thăm (đối với hụi không có lãi) hoặc đấu giá (đối với hụi có lãi), người nào trả lãi
cao nhất sẽ được ưu tiên lĩnh hụi (Nghị định 144/2006/NĐ – CP).
Từ những định nghĩa trên, ta dễ dàng nhận thấy rằng, phương thức hoạt động
của hụi dường như khá giống nhau ở mọi nơi trên thế giới, đó là: Dựa trên tinh thần tự
nguyện, một nhóm người sẽ tập hợp nhau lại, cùng đóng góp tiền hoặc tài sản khác vào
một nguồn quỹ chung. Sau đó, lần lượt mỗi thành viên sẽ được lĩnh toàn bộ các phần
đóng góp này vào mỗi kỳ mở hụi, và tiếp tục như vậy cho đến khi thành viên cuối cùng
được lĩnh hụi. Tùy vào loại hụi (có lãi hay không có lãi) mà việc xác định thành viên
lĩnh hụi sẽ thông qua hình thức bốc thăm hay thỏa thuận, hoặc thông qua hình thức đấu
thầu, ai trả lãi cao nhất sẽ được ưu tiên lĩnh hụi trước. Tuy nhiên, cũng có trường hợp
một người sẽ tự đứng ra làm chủ hụi và kêu gọi những cá nhân khác tham gia vào dây
hụi của mình. Hình thức tổ chức hụi này được ghi nhận là khá phổ biến ở khu vực
thành thị nước ta (Ardener, 1964; Trần Văn Biên, 2008).
10
Một số khái niệm có liên quan:
Chủ hụi: Là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chịu trách nhiệm tổ chức,
quản lý, thu và giao các phần hụi cho hụi viên được lĩnh hụi trong mỗi kỳ mở hụi theo
thỏa thuận giữa những người tham gia (Nghị định 144/2006/NĐ – CP).
Thành viên: Còn gọi là hụi viên hoặc con hụi (Nguyễn Văn Vũ An, 2014).
Thành viên là những người tham gia, có nghĩa vụ góp số phần hụi mà mình đã tham gia
và được lĩnh hụi vào các kỳ mở hụi. Thành viên có thể góp một hoặc nhiều phần hụi
(Nghị định 144/2006/NĐ – CP).
Kỳ mở (góp) hụi: Là thời điểm mà tại đó một hoặc một số thành viên sẽ được
lĩnh hụi. Nếu đây là hụi ngày thì mỗi ngày sẽ mở (góp) hụi một lần, hụi tuần thì mỗi
tuần (7 ngày) sẽ mở (góp) hụi một lần, hụi tháng thì 30 ngày mở (góp) hụi một lần.....
Phần hụi: Là số tiền hoặc tài sản khác (phải giao dịch được) mà các thành
viên phải góp trong mỗi kỳ mở hụi theo thỏa thuận (Nghị định 144/2006/NĐ – CP).
Dây hụi: Là tổng giá trị của các phần hụi mà tất cả thành viên trong dây hụi phải
góp (chưa trừ đi phần lãi mà các thành viên được lĩnh hụi chi trả) trong một kỳ mở hụi.
Bể (vỡ) hụi: Một khi chủ hụi đã thu các phần hụi từ các thành viên trong dây hụi
nhưng vì lý do nào đó mà đến kỳ mở hụi họ không còn khả năng giao các phần hụi đó
cho thành viên được lĩnh hụi thì được xem là bể hụi (Trần Văn Biên, 2008).
Giựt hụi: Khi một thành viên nào đó đã lĩnh hụi ở một kỳ mở hụi bất kỳ nhưng
vì lý do nào đó (chủ quan hoặc khách quan) không thể giữ đúng cam kết tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ đóng phần hụi của mình trong các kỳ mở hụi kế tiếp để các thành viên
còn lại được lĩnh hụi thì bị xem là giựt hụi.
- Xem thêm -