HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
BÁO CÁO
TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2010
MÃ SỐ: B.10-11
VỀ MÔ HÌNH “CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở THẾ KỶ XXI”
CỦA KHU VỰC MỸ LATINH HIỆN NAY GIÁ TRỊ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Đơn vị chủ trì
: Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nhiệm đề tài: PGS, TS. Nguyễn An Ninh
Thư ký đề tài
: ThS. Vũ Thị Xuân Mai
8263
HÀ NỘI – 2010
CÁC CỘNG TÁC VIÊN
1. PGS, TS. Nguyễn Hoàng Giáp
2. ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền
3. TS. Thái Văn Long
4. TS. Nguyễn Thế Lực
5. ThS. Vũ Thị Xuân Mai
6. ThS. Nguyễn Tiến Mạnh
7. Nguyễn Đức Minh
8. PGS, TS. Nguyễn An Ninh
9. PGS, TS. Nguyễn Thị Quế
10. ThS. Nguyễn Văn Quyết
11. TS. Nguyễn Trần Thành
12. PGS, TS. Nguyễn Viết Thảo
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
13
2.1. Các thành tựu nghiên cứu có liên quan tới đề tài này
13
2.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ về mô hình
24
"Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI"
3.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
26
4. Phương pháp nghiên cứu
27
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
28
5.1. Về ý nghĩa thực tiễn của đề tài này
28
5.2.
Về ý nghĩa lý luận của đề tài này
29
PHẦN NỘI DUNG
30
I. BỐI CẢNH MỸ LATINH THẬP NIÊN GẦN ĐÂY VÀ
30
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA MÔ HÌNH “CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở THẾ KỶ XXI”
1.1. Về khái niệm mô hình "Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI"
30
1.2. Bối cảnh Mỹ Latinh - “mảnh đất hiện thực” của mô hình
36
"CNXH ở thế kỷ XXI”
1.3. Về mô hình và thực tiễn xây dựng "Chủ nghĩa xã hội ở thế
52
kỷ XXI" ở Mỹ Latinh
II. NHỮNG GIÁ TRỊ, ĐÓNG GÓP VỚI CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ “MÔ HÌNH
CNXH Ở THẾ KỶ XXI”
86
2.1. Những giá trị, đóng góp với chủ nghĩa xã hội từ mô hình
86
"Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI" của khu vực Mỹ Latinh
hiện nay
2.2. Một số tình huống đặt ra với lý luận CNXH khoa học từ mô
92
hình "CNXH ở thế kỷ XXI" của khu vực Mỹ Latinh
III. “CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở THẾ KỶ XXI” VỚI QUÁ
105
TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM
3.1. Một số nhận định của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô hình
106
"CNXH ở thế kỷ XXI" ở Mỹ Latinh
3.2. Ý nghĩa của mô hình “CNXH ở thế kỷ XXI” với sự nghiệp
111
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
PHẦN KẾT LUẬN
121
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
126
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong thập niên gần đây, kể từ năm 1998, khi chính phủ cánh tả đầu tiên
của Mỹ Latinh - chính quyền của Hugo Chavez, lên nắm quyền lực ở
Vênêxuêla, sự kiện này đã mở đầu cho “một làn sóng cánh tả” ở khu vực. Hiện
tượng các đảng cánh tả ở khu vực Mỹ Latinh, bằng con đường bầu cử dân chủ
đã giành được chính quyền và thực hiện nhiều cải cách tích cực mang khuynh
hướng XHCN trong thập niên gần đây là rất đáng quan tâm. Bởi lẽ, trong bối
cảnh chính trị phức tạp của thế giới hiện nay, khi mà cơn khủng hoảng của
CNXH hiện thực khởi đầu bằng sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên xô và Đông
Âu vẫn còn dư chấn; khi mà công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước theo định
hướng XHCN tuy đã đạt nhiều thành tựu ở tầm lịch sử song vẫn còn không ít
khó khăn trong quá trình xây dựng CNXH thời kỳ đổi mới, khi mà các thế lực
thù địch với CNXH vẫn đang tiếp tục công kích, phản bác… thì trong bối cảnh
ấy, hiện tượng cánh tả Mỹ Latinh và mô hình “CNXH ở thế kỷ XXI” của họ là
dấu hiệu cho thấy đời sống chính trị thế giới vẫn đang có những chuyển động
theo chiều hướng tích cực.
Khu vực Mỹ Latinh đang khẳng định, bằng cách của mình, những cơ sở
thực tế cho niềm tin vào sức sống mãnh liệt của cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc
lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội của thế giới hiện đại. Hiện tượng Mỹ
Latinh thập niên gần đây cũng góp phần chứng minh đặc điểm quan trọng nhất
của thời đại ngày nay: thời đại quá độ đi lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Chúng ta chú ý tới hiện tượng trên ở 3 điểm nổi bật sau đây:
Thứ nhất, nhiều cải cách của chính phủ cánh tả đã tích cực hoá đời sống
chính trị ở khu vực Mỹ Latinh vậy, khả năng phát triển sẽ ra sao?
Tính từ năm 1998 cho đến nay, đã có 12 nước tại khu vực này có các đảng
cánh tả nắm được chính quyền và tiến hành nhiều cải cách mang khuynh hướng
tích cực. Đó là các nước: Vênêxuêla (1998); Chilê (2000); Braxin (2000);
Achentina (2003); Panama (2004); Urugoay (2004); Bôlivia (2005); Êcuađo
1
(2006) Nicaragoa và Goatemala (2007) Paragoay (2008) và gần nhất là En
Xanvađo (3/2009)
Lực lượng cánh tả đã nắm quyền ở 12 nước với số dân chiếm hơn 70%
trong tổng số 500 triệu dân, 80% tổng diện tích Mỹ Latinh và khu vực Caribe và
đang là lực lượng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống chính trị - xã hội của nhiều
nước trong khu vực này.
Kể từ khi nắm chính quyền, đa số các chính phủ cánh tả Mỹ Latinh đã
tiến hành cải cách kinh tế - xã hội theo hướng tích cực. Họ đã chuyển từ mô
hình “chủ nghĩa tự do mới” sang thực hiện mô hình kinh tế thị trường kết hợp
giải quyết các vấn đề xã hội: tích cực chống tham nhũng; thực hiện các chương
trình xã hội như cải cách ruộng đất; giảm nghèo, cải thiện dịch vụ y tế, văn hóa
cộng đồng; điều chỉnh một số luật theo hướng coi trọng lợi ích quốc gia và có
lợi cho người lao động, quan tâm đến công ăn việc làm của người dân, cung
cấp vốn tín dụng để phát triển khu vực kinh tế hợp tác. Các chính phủ cánh tả
cũng sử dụng hàng chục tỉ USD lợi nhuận thu được từ ngành công nghiệp dầu
khí để tập trung vào việc tiến hành nhiều cải cách xã hội, như xóa nạn mù chữ,
xóa đói, giảm nghèo, cải tạo nhà ở cho người nghèo, nâng cấp hạ tầng cơ sở,
xây dựng thêm nhiều trường học, cải thiện dịch vụ y tế…
Những cải cách của các chính phủ cánh tả Mỹ Latinh đã thu được kết quả
bước đầu tích cực: kinh tế phục hồi và có bước tăng trưởng khá, chính trị đi
vào ổn định, đời sống nhân dân nhất là nhóm lao động nghèo đã được cải thiện.
Đời sống chính trị, kinh tế, xã hội các nước này đã có những thay đổi rõ rệt
theo hướng xóa bỏ nghèo đói, bất công, và xây dựng một xã hội dân chủ, tiến bộ.
Vấn đề đặt ra là tính bền vững của mô hình này khi theo con đường dân
chủ để giành chính quyền và thực thi cải cách xã hội? Triển vọng của cải cách
sẽ ra sao, khi thành quả đôi khi lại phụ thuộc vào uy tín chính trị nguyên thủ
và sự ủng hộ của người dân thường tỷ lệ thuận với những thành quả cụ thể
của cải cách?
Nói cách khác: khi cánh tả còn tại vị, khi cải cách tương đối thuận lợi và
tiếp tục tìm thêm được những sức mạnh mới từ nội sinh và liên kết khu vực, khi
2
mà chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ chưa tìm ra được cách đối phó, khống
chế… thì khuynh hướng tích cực này còn tiếp tục vận động, phát triển.
Vậy nó sẽ ra sao trong tương lai? Câu hỏi này đã được đặt ra từ sớm trong
giới nghiên cứu nhưng chưa ngã ngũ vì thực tế còn đang vận động.
Các phương án nêu ra là: Hoặc cải cách chỉ dừng lại ở khuôn khổ của chủ
nghĩa xã hội dân chủ cánh tả, hoặc sẽ xuất hiện khuynh hướng tiệm tiến tới một
trình độ cao hơn (một số quốc gia khu vực này đã gọi tên cuộc cải cách của
mình là cách mạng, chẳng hạn, cách mạng Bolivar); hoặc cũng có thể sẽ lại tái
hiện trường hợp Chilê năm 1973 với số phận chính phủ cánh tả của Salvader
Allende và phái cực hữu lại tái hồi, cực đoan hơn với hiện tượng độc tài phát xít
Pinôchê…
Đâu sẽ là phương án hợp lí và tối ưu?
Thứ hai, về mô hình “CNXH ở thế kỷ XXI”: nên đánh giá những đóng góp,
giá trị cần tham chiếu, vấn đề và triển vọng của nó như thế nào?
Một ấn tượng khá rõ nét là các thuật ngữ “chống chủ nghĩa tư bản, chống
chủ nghĩa tự do mới”, “chủ nghĩa xã hội”, xây dựng mô hình “CNXH ở thế kỷ
XXI”… xuất hiện rất nhiều trong các tuyên bố của các nguyên thủ, các văn bản
chính trị chính thống; thậm chí, có lúc ở mức dày đặc khi H.Chavez vận động
tranh cử...
Thêm vào đó, thực tế của quá trình cải cách theo khuynh hướng XHCN của
nhiều nước Mỹ Latinh, những hành động thiện chí với các nước XHCN, thái độ
ủng hộ tích cực của nhân dân trong nước với quá trình cải cách này… cũng đặt
vấn đề cho những người nghiên cứu về CNXH khoa học phải quan tâm hiện
tượng các đảng cánh tả cầm quyền ở MỹLatinh và khuynh hướng XHCN của họ.
Với những gì đã diễn ra, chúng ta có thể có được những nhận định ban đầu
sau đây về khuynh hướng tích cực này:
Khuynh hướng XHCN ở khu vực Mỹ Latinh được thể hiện ra rất đa dạng.
Nó gồm những tuyên bố - cam kết mạnh mẽ của một số nguyên thủ các
đảng xã hội dân chủ (XHDC) cánh tả cầm quyền; nó đã thể hiện ra trong chương
trình hành động của cải cách, thậm chí cũng có quốc gia (như Vênêxuêla) cũng
pháp định bằng văn bản cao nhất là Hiến pháp (hoặc dự thảo Hiến pháp) và tập
3
trung nhất là một mô hình xã hội mới mà nhiều nước đang đi theo là “CNXH ở
thế kỷ XXI”… Đây là một khái niệm do Tổng thống Vênêxuêla - Hugo Chavez
đề ra vào 2005 với mục tiêu hướng tới lý tưởng bình đẳng, công bằng xã hội và
xóa bỏ sự đói nghèo mà đại bộ phận nhân dân đất nước Nam Mỹ này phải gánh
chịu.
“CNXH ở thế kỷ XXI” đã được thực hiện đầu tiên ở nhóm các nước gồm
Vênêxuêla, Bôlivia, Êcuađo… mà Vênêxuêla mang vai trò dẫn đầu. Theo quan
niệm của những người đang xây dựng, nó sẽ không giống với mô hình CNXH ở
Liên Xô trước đây. Nó vẫn coi chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng, nhưng kết hợp
với tư tưởng Simon Bolivar (anh hùng giải phóng dân tộc Vênêxuêla) và lấy các
tư tưởng tiến bộ khác ở Mỹ Latinh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. H.Chavez từng nhấn mạnh: “CNXH ở thế kỷ XXI” ở Mỹ Latinh
phải xuất phát từ thực tế của Mỹ Latinh, nó khác so với CNXH của Liên xô,
Đông Âu trước đây.
Khuynh hướng XHCN ở mỗi nước khu vực này cũng có những mức độ
khác nhau. Sự phân biệt được xác định chủ yếu trên hai phương diện là mức độ
cải cách dân chủ và mức độ thoát li khỏi những ảnh hưởng của các nước đế quốc
mà trước hết là Mỹ. Về mức độ cải cách dân chủ ở các nước Mỹ Latinh, nhận
xét từ những thành tựu đạt được và xu hướng vận động, có người đã phân thành
hai loại “màu đỏ” (những cải cách mang tính chất XHCN) và “màu hồng”
(những cải cách theo hướng tiến bộ song ít nhiều còn mang dấu ấn của dân chủ
Phương Tây). Nhóm các nước cải cách “màu đỏ” gồm Vênêxuêla, Bôlivia,
Êcuađo, Nicaragoa… mà Vênêxuêla là điển hình.
Nét chung đều là sự từ chối mô hình “chủ nghĩa tự do mới”- biểu hiện cơ
bản và điển hình của CNTB hiện đại trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay; là
những nỗ lực của các nước trong khu vực để tạo ra các liên kết kinh tế hoặc đa
chiều, hoặc song phương trên cơ sở mới ít nhiều mang tính phi thị trường; là quá
trình quốc hữu hoá hoặc cổ phần hoá với ưu thế thuộc quốc gia sở tại với các
doanh nghiệp tư bản đang chiếm đoạt tài nguyên quốc gia; là quá trình cải cách
ruộng đất với mục tiêu trao đất đai cho nông dân; là quá trình xác lập sở hữu
công cộng và thừa nhận vai trò to lớn của nó trong nền kinh tế; đó còn là những
4
tuyên bố đi lên CNXH theo kiểu của Mỹ Latinh mà một trong những cơ sở lý
luận của quá trình ấy là chủ nghĩa Mác-Lênin…
Hiện tượng rất đáng chú ý là những quan hệ khá mật thiết và, cao hơn nữa
là sự hợp tác giữa các đảng cánh tả và các đảng cộng sản tại các quốc gia này.
Quá trình xích lại gần nhau về tổ chức và cương lĩnh đang diễn ra giữa các đảng
xã hội dân chủ cánh tả cầm quyền với các đảng cộng sản tại một số nước như
mô hình PSUV (Partido Socialista Unido de Venezuela - Đảng Xã hội chủ nghĩa
thống nhất Vênêxuêla); Sức mạnh quyền lực thì thuộc về các đảng cánh tả,
nhưng lí tưởng XHCN, tác động của công bằng - dân chủ trên cơ sở mới và sự
ủng hộ, liên minh giữa các đảng dân chủ xã hội với đảng cộng sản, đang tạo nên
sắc thái rất riêng của bầu không khí chính trị các quốc gia này. Sự liên minh này
gồm “Phong trào Nền cộng hòa thứ 5” - tổ chức chính trị - xã hội lớn nhất do H.
Chavez lãnh đạo, Đảng “Chúng ta có thể” (Podemos), Đảng “Tổ quốc cho tất
cả”, Đảng Cộng sản Vênêxuêla, Liên minh Nhân dân Vênêxuêla...
Dấu ấn XHCN khá rõ trong nguyên tắc lý luận khi hình thành đảng và xây
dựng dự thảo Cương lĩnh PSUV. Đại hội thành lập của PSUV và thảo luận dự
thảo Cương lĩnh đã xác nhận: “nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động
của PSUV là tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin, Simôn Bolivar...”1.
Một đại biểu công nhân phát biểu tại Đại hội thành lập Đảng rằng, “sự ra đời của
PSUV đã làm hồi sinh hy vọng về chủ nghĩa xã hội trong khu vực Mỹ Latinh
chất chứa đầy tiềm năng cách mạng và đấu tranh chống đế quốc”.
Tuy ở mức độ còn chưa đồng đều ở từng nước, nhưng các đảng cộng sản
và công nhân Mỹ La-tinh đã thể hiện ngày càng rõ nét vai trò hạt nhân trong
phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, bước đầu tập hợp được những
lực lượng tiến bộ… Tại khu vực Mỹ Latinh, các Đảng Cộng sản và công nhân
và cánh tả từ đầu thập niên 90 đến nay đã có sáng kiến định kỳ hằng năm tổ
chức gặp gỡ trong khuôn khổ Diễn đàn Sao Paolô (Braxin) nhằm đánh giá sự
vận động, phát triển của phong trào cộng sản, cánh tả quốc tế nói chung và ở
khu vực nói riêng, từ đó tìm kiếm các biện pháp phối hợp hành động chung.
1
Nguyễn Viết Thảo: Sự ra đời của Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Vênêxuêla, Tạp chí Cộng sản số tháng
7/2008.
5
Diễn đàn Sao Paolô sau 15 năm hoạt động và 13 kỳ hội nghị (với sự tham gia
của hơn 140 Đảng Cộng sản và công nhân và cánh tả từ 46 nước Mỹ Latinh, Bắc
Mỹ, châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Đại Dương) đã góp phần năng động hóa
hoạt động của cánh tả Mỹ Latinh, thúc đẩy trào lưu cánh tả tại đây có bước phát
triển mới. Diễn đàn này ngày càng tiến gần đến lập trường có tính chất XHCN.
Điều này được thể hiện khi Diễn đàn khẳng định: giải pháp thay thế chủ nghĩa tự
do mới phải gắn với thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, từng bước
quá độ lên CNXH. Động thái ấy chứng minh cho sự bắt đầu hồi phục và có bước
phát triển mới của phong trào cộng sản và cánh tả ở đây.
Khuynh hướng XHCN còn thể hiện ở việc thừa nhận vai trò ngọn cờ đầu
trong khu vực Mỹ Latinh của Cuba và sự tăng cường mối quan hệ nhiều chiều
với quốc gia XHCN này. Cuba là tác nhân khách quan tích cực cho những
chuyển biến tích cực của cải cách ở Mỹ Latinh hiện nay1. Chủ nghĩa quốc tế
XHCN của Cuba, tinh thần Cheghevara xả thân vì nghiã vụ quốc tế, thái độ vừa
nhiệt thành vừa tôn trọng bè bạn, uy tín của Fidel Castro, lòng tin và lối sống
XHCN của nhân dân Cuba… là những chứng minh vừa gần gũi vừa hùng hồn
cho sức hấp dẫn của CNXH hiện thực ngay trong khu vực.
Các nhà lãnh đạo của 3 nước Mỹ Latinh là Bôlivia, Cuba và Vênêxuêla đã
ký Hiệp định thương mại ba bên, lập nên Khối ALBA để trao đổi thương mại và
hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Đây là một mô hình mới của sự hợp tác kinh tế
trong khu vực và là đối trọng của khu vực Mậu dịch tự do châu Mỹ (FATT).
Hiệp định này không chỉ đơn giản chỉ có tính thương mại. Nó là một trong
những động thái xác nhận việc thúc đẩy khối đoàn kết Mỹ Latinh và quan hệ
hữu nghị với tất cả các nước để đấu tranh cho một thế giới đa cực, dân chủ.
Chất lượng mới của kiểu hợp tác này là nó lấy liên kết thay thế cho cạnh
tranh, lấy hội nhập bình đẳng thay cho kiểu bóc lột thâm hiểm và tàn bạo của
“chủ nghĩa tự do mới”; lấy tương trợ bổ sung cho nguyên tắc ngang giá chung
của kinh tế thị trường… Nhiều liên kết khác cũng được thiết lập trong khu vực
và có vai trò như những đối trọng với các nước lớn. Theo Tổng thống Chavez,
Achentina, Braxin và Vênêxuêla cần tạo thành "hạt nhân thúc đẩy khối liên kết
1
Nguyễn An Ninh, Chủ nghĩa xã hội ở Cuba, một chế độ thực sự của dân, do dân, vì dân. Thông tin Chủ nghĩa
xã hội khoa học - Lý luận và thực tiễn, Viện CNXH khoa học - Học viện CT-HC QG Hồ Chí Minh, số 3/2009.
6
Nam Mỹ, biến khu vực này trở thành một trung tâm hùng mạnh có thể đương
đầu với mối đe dọa đến từ khu vực khác”.
Đó còn là quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội và nhiều cải cách hướng
về nhân dân lao động cùng hình thức “dân chủ cùng tham dự” rộng rãi. Đây là
một đặc sắc của nền chính trị khu vực Mỹ Latinh mà Cuba là nước dẫn đầu;
Veneduela có chương trình “Alô Tổng thống” - một kênh đối thoại trên truyền
hình thu hút rất nhiều sự quan tâm của công dân. Chương trình này do H.Chavez
chủ trì, truyền hình trực tiếp mỗi sáng chủ nhật và rất “ăn khách”. Ông đối thoại
với nhân dân mình về các ý tưởng chính trị, công bố các chính sách, chia sẻ
những dự định tương lai, phỏng vấn khách mời... Dân chủ cùng tham dự là như
vậy. V.I.Lênin từng nói: “Quần chúng có hàng triệu, mà chính trị bắt đầu ở nơi
nào có hàng triệu người… mà ở đâu có hàng triệu người thì ở đó mới có chính
trị nghiêm túc”1. Những sáng kiến dân chủ ấy ở khu vực Mỹ Latinh rất đáng
quan tâm.
Các vấn đề lớn mà giới nghiên cứu đặt ra là:
Trước đây, CNXH khoa học và CNXH dân chủ tuy là hai nhánh song từ
cùng một gốc của phong trào công nhân thế kỷ XIX, và ít nhiều đều gắn bó với
lý luận của Mác và Ăng ghen về CNXH, giai cấp công nhân, nhà nước của giai
cấp công nhân… Song do biến thiên của lịch sử chính trị hiện đại, hai dòng tư
tưởng này đã dần xa nhau về lập trường, quan điểm. Điều này đặc biệt rõ trong
thời kỳ chiến tranh lạnh và thập niên đầu tiên thời kỳ “hậu Liên xô sụp đổ”.
Hiện tượng xa nhau một thời gần giống như “tính tương cận, tập tương viễn”
(tính chất thì gần nhau, nhưng tập quán, cách làm lại khiến cho người ta xa nhau).
Gần đây, trong quá trình đổi mới tư duy và giải phóng tư tưởng, nhiều đảng
cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam đã có cái nhìn khách quan hơn
và chủ trương: “Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản công
nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên
thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền”2. Quan điểm mang
tính đổi mới này sẽ giúp chúng ta có thể tiếp cận vấn đề nghiên cứu một cách
cởi mở và thấu thị hơn.
1
2
V.I. Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ Maxcơva, 1977, Tập 36, tr. 20.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 113.
7
Vậy cần nhìn nhận những đóng góp, những giá trị cần tham chiếu từ mô
hình "CNXH ở thế kỷ XXI" này ra sao?
Tình huống nghiên cứu xuất hiện khá nhiều từ hiện tượng cải cách màu đỏ
của Mỹ Latinh: những dấu hiệu tích cực của cải cách là khá rõ. Những lời tuyên
bố, những văn bản pháp lí của nhà nước và cả những hành động trên thực tế…
cho phép ta xác nhận về một hiện tượng có tính chất XHCN đang diễn ra ở khu
vực này. Song cách đánh giá về mức độ của nó còn rất khác nhau: người gọi đó
là trào lưu XHCN, có người gọi đó là khuynh hướng XHCN, có người còn gọi là
định hướng XHCN...
Đánh giá về hiện tượng này, theo đó cũng rất khác nhau. Cũng có những
điểm thống nhất: chẳng hạn coi đó là dấu hiệu tích cực của đời sống chính trị thế
giới thập niên gần đây, hoặc khẳng định vai trò của ngọn cờ đầu của CNXH
Cuba, sức hấp dẫn lớn của mô hình XHCN với các nước đang phát triển… Song
cũng có khá nhiều nhận định rất khác nhau về tính chất XHCN của các quan
niệm và cách làm từ mô hình "CNXH ở thế kỷ XXI". Tính đặc thù của chủ thể
quan niệm trên có lẽ là điểm nổi cộm đầu tiên - người xây dựng CNXH lại chưa
phải là, chưa hoàn toàn là cộng sản mặc dù có thiện chí với CNXH, CNCS. Tính
đặc thù còn là ở quy trình đến với CNXH, hầu hết các nước đều từ lập trường
cánh tả để sang lập trường mới gần gũi hơn với CNXH...
Về triển vọng của "CNXH ở thế kỷ XXI" cũng có nhiều đánh giá khác
nhau: có quan niệm cho rằng nó sẽ phát triển - điều chỉnh và có tương lai tốt đẹp
và sẽ có một mô hình mới về CNXH; có quan niệm cho rằng nó sẽ chỉ dừng lại
ở cải cách dân chủ chứ chưa thể là một cuộc cách mạng XHCN và sớm muộn,
do vị trí địa lí đặc thù là “cái sân sau của Mỹ” cho nên sẽ bị Mỹ kiềm chế trong
quỹ đạo cải cách dân chủ, những bột phát hoặc vượt quỹ đạo sẽ bị níu kéo bởi
cánh hữu và “diễn biến hoà bình”; lại cũng có quan niệm cho rằng sự kết hợp
(cả về tổ chức, chính trị và tư tưởng) giữa cánh tả và các đảng cộng sản tại các
nước trong khu vực, vai trò của Cuba, sự ủng hộ của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế sẽ cho phép tin ở tương lai XHCN của nhiều nước khu vực
này… Theo đó, giá trị và ảnh hưởng tích cực của Mỹ Latinh sẽ không chỉ là tầm
8
mức khu vực. Nó cũng có thể đóng góp cho lý luận CNXH thời kỳ cải cách đổi
mới một điều gì đó, rất riêng và tích cực…
Có thể mô hình này có nhiều điều mang tính mới so với những nguyên lý
của CNXH khoa học, song những biểu hiện trên thực tế ở khu vực này, đặc biệt
là những nước mà phương Tây gọi là “cải cách màu đỏ” lại là những tín hiệu lạc
quan, tích cực và cho phép chúng ta tin vào một khuynh hướng XHCN đang
định hình ở nhiều nước Mỹ Latinh. Nó hoàn toàn phân biệt với những cải cách
theo khuôn khổ dân chủ tư sản ở một số nước “đang chuyển đổi” thông qua
“cách mạng màu sắc” ở Đông Âu hay các nước thuộc Liên Xô trước đây.
Vậy thì, những cải cách mang màu sắc XHCN của khu vực Mỹ Latinh hiện
nay có điểm gì gần gũi với lý luận macxit và thực tiễn xây dựng CNXH của các
nước đang phát triển theo định hướng XHCN? Tính chất XHCN của những
khuynh hướng, quan niệm này, khả năng tìm tòi và hiện thực hoá mô hình “Chủ
nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” qua sự kết hợp các yếu tố trên ra sao?
Thứ ba, “Chủ nghĩa tự do mới”, bị phê phán, từ chối ngay tại “sân sau”
của Hoa Kỳ, vậy mô hình “CNXH ở thế kỷ XXI” sẽ có triển vọng như thế nào tại
vùng địa chính trị này?
- Trong những năm 80 và 90 của thế kỷ XX, việc thực hiện triệt để “chủ
nghĩa tự do mới” tuy có đạt được một số kết quả “tức thời”, nhưng sau một thời
gian, nhiều nước như Achentina, Braxin, Uruguay, Êcuađo, Paraguay… đã lâm
vào khủng hoảng. Các cuộc khủng hoảng đa diện và sâu sắc từng khuynh đảo
Mỹ Latinh kể từ thập niên 90 của thế kỷ trước, đều trực tiếp hoặc gián tiếp có
nguyên nhân từ tác động tiêu cực của “chủ nghĩa tự do mới”. Và cũng từ đó,
thúc đẩy tư tưởng cánh tả phát triển. Các vấn đề chính trị - xã hội bức xúc như
đói nghèo, thất nghiệp, bất bình đẳng, tham nhũng, nợ nước ngoài và khủng
hoảng xã hội diễn ra triền miên.
Cũng cần nói thêm rằng, sự phân hóa xã hội theo hai cực giàu nghèo ở Mỹ
Latinh không chỉ trong quan hệ đối kháng giai cấp, mà còn có gắn với vấn đề
chủng tộc. Tại Mỹ Latinh, 32% dân số là người da trắng, 44% dân số là người
lai, 11% là người thổ dân... Trong nhóm da trắng, đầu tiên là gốc Tây Ban Nha
(Bồ Đào Nha ở Braxin), sau đó là gốc châu Âu, gốc Mỹ… Sự giàu nghèo có liên
9
quan đến vấn đề chủng tộc này kéo dài theo thời gian và với nhiều biểu hiện: sự
chiếm dụng tài nguyên, ruộng đất, nắm giữ các đầu mối tài chính, công nghệ ...
và hầu như mọi sự ưu đãi đều thuộc về người da trắng. Bần cùng nhất là người
gốc thổ dân.
Từ sự phân hóa đó, đầu thế kỷ XIX nổi lên cuộc cách mạng mang tên
Simon Bolivar - nhà cách mạng giải phóng dân tộc và đấu tranh cho bình đẳng
xã hội. Ảnh hưởng của ông đến nay vẫn rất sâu sắc. Nước Bôlivia là quốc gia
đã mang tên ông; Venezuela, năm 2006 đổi tên là Republicca Bolivariana de
Venezuela (Cộng hòa Bolivar ở Vênêxuêla). Cuộc cải cách hiện nay ở
Vênêxuêla từng được mang tên là “cách mạng Bolivar” rồi hiện nay là “Sự lựa
chọn Bolivar” và đây cũng là một hành động chung của nhiều quốc gia khu vực
này (ALBA – Khối “Sự lựa chọn Bolivar của Mỹ Latinh”)…
Nếu như mục tiêu ban đầu của nhiều cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
khu vực Mỹ Latinh là nhằm thoát khỏi ảnh hưởng chính trị của “mẫu quốc”,
giành độc lập, đã được giải quyết ở từng mức độ, thì những cuộc cách mạng ấy
lại không giải quyết được vấn đề phân hóa giàu nghèo do phân biệt chủng tộc.
Nhà nghiên cứu chính trị - Noam Chomsky viết như sau về vấn đề này: “Lịch sử
thực dân ở châu Mỹ Latinh để lại tại mỗi nước một sự phân hóa nội bộ nặng nề
giữa một thiểu số tinh hoa giàu sụ và một đại đa số người nghèo. Sự liên hệ với
nhóm chủng là rất gần gũi. Giới tinh hoa giàu có chủ yếu là da trắng, gốc Âu và
phương Tây... Mối liên hệ chặt chẽ đó còn tiếp tục đến tận bây giờ”1.
Phân biệt chủng tộc cùng những hậu quả nặng nề của sự áp đặt mô hình chủ
nghĩa tự do mới đã làm gia tăng sự lệ thuộc của các nước Mỹ Latinh vào tư bản
độc quyền nước ngoài, nhất là tư bản Mỹ; lợi ích quốc gia và nền độc lập dân
tộc bị phương hại.
Do đó, ở Mỹ Latinh, đồng thời với sự thức tỉnh ý thức tự chủ, tự tôn dân tộc
của các tầng lớp xã hội, đã dấy lên phong trào đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động vì mục tiêu dân sinh, dân chủ, tiến bộ
và nhất là công bằng xã hội. Họ đến với cánh tả như một niềm hi vọng vào sự
thay đổi. Đây là điều kiện thuận lợi để các lực lượng cánh tả đẩy mạnh hoạt
1
Nguyễn Văn Huỳnh: Sơ lược lịch sử Braxin, tạp chí Nghiên cứu châu Mỹ ngày nay, 2/2007.
10
động và trở thành lực lượng đi đầu cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tự do mới,
chống sự lệ thuộc vào Mỹ, bảo vệ độc lập chủ quyền, bình đẳng trong quan hệ
quốc tế và công bằng xã hội trong phát triển.
- “Diễn biến hoà bình” của CNĐQ cũng đã từng coi nhiều nước khu vực
Mỹ Latinh là đối tượng. Với cái quan niệm cho rằng, những nước nào “cứng
đầu”, không tuân phục Mỹ, chống lại lợi ích của Mỹ, có xu hướng “thân cộng”,
thoát khỏi ảnh hưởng của Mỹ và các nước đế quốc… đều là đối tượng tấn công
của chiến lược này, mấy chục năm gần đây Mỹ đã sử dụng “diễn biến hoà bình”
với phương thức chủ đạo là khuynh đảo chính trường, khống chế sự lệ thuộc về
kinh tế, đưa các thế lực cực hữu, thân Mỹ lên nắm quyền lực ở nhiều nước. Nó
đã nhiều lần coi Cuba là đối tượng song thất bại; nhưng nó đã thành công ở
Chilê vào năm 1972-1973, khi lật đổ được chính phủ cánh tả của Tổng thống
Xanvato Agienđê; nó đã góp phần dựng lên hàng loạt chính phủ cực hữu thân
Mỹ và phản động ở khu vực này 2 thập niên trước… Quả thật, “diễn biến hoà
bình” là kẻ thù dấu mặt song trực tiếp là vật cản ngăn trở những tiến bộ xã hội
của khu vực này1.
Vài chục năm gần đây, CNXH hiện thực cũng đã chứng kiến sự thâm hiểm
và tác hại của chiến lược “diễn biến hoà bình” của CNĐQ đối với hệ thống
XHCN và các nước đã từng có chế độ XHCN nhưng nay đang trong “giai
đoạn chuyển đổi”. Nhiều cuộc “cách mạng sắc màu” ở Đông Âu và các nước
thuộc Liên Xô cũ trong thập niên gần đây đã vạch trần tính nguy hiểm của
chiến lược này.
Song điều thú vị là ngay tại cái mà Mỹ cho là “sân sau” của mình, cũng đã
và đang diễn ra một hướng “diễn biến hoà bình” khác, một quá trình mà qua
đó các đảng dân chủ xã hội cánh tả lật đổ quyền lực của các chính phủ cánh
hữu thân Hoa Kỳ và tạo tiền đề chính trị cho một quá trình “cải cách màu đỏ,
màu hồng” ở nhiều quốc gia Mỹ Latinh.
Tiến trình cải cách và dân chủ hóa tại các nước này được phát động bằng
các cuộc bầu cử dân chủ. Điểm đặc trưng của thắng lợi các đảng cánh tả là đều
thông qua bầu cử hợp hiến, được quốc tế công nhận và có được số phiếu tín
1
Xem thêm, TS Nguyễn An Ninh (Cb): “Về triển vọng của chủ nghĩa xã hội hai thập niên đầu thế kỷ XXI ”,
Nxb CTQG, H. 2006.
11
nhiệm khá cao của cử tri. Sự khởi đầu mang tính đột biến diễn ra tại Vênêxuêla
vào năm 1998, người trúng cử tổng thống là ông Hugo Chavez, một chính
khách cánh tả. Tiếp đó, trong các cuộc bầu cử ở nhiều quốc gia các năm sau đó,
các đảng cánh tả liên tục thắng lợi và đưa người của mình lên cầm quyền. Có
hai vị tổng thống đã tái đắc cử là Hugo Chavez (Vênêxuêla) và Lula Da Silva
(Braxin). Nhiều đại biểu đã dành thắng lợi “vang dội” với số phiếu áp đảo vượt
trội đối thủ. Chẳng hạn, thắng lợi của Tổng thống H.Chavez (với 62% số phiếu
ủng hộ) tại cuộc bầu cử vào tháng 12- 2006, đã khiến cho đối thủ Manuel
Rosales (được 38% số phiếu) nhanh chóng thừa nhận và không hề thắc mắc về
một sự gian lận nào. Thành công của H.Chavez và sự thừa nhận của đối thủ đã
khiến cho một vài nước có ý định “can thiệp vì dân chủ” đã phải chùn tay vì
không có nguyên cớ.
Các lực lượng cánh tả ở các quốc gia này này đã tìm kiếm được hình thức
đấu tranh thích hợp trong tình hình mới - họ chuyển từ truyền thống hoạt động
vũ trang chuyển sang vận động quần chúng nhân dân, liên kết với các phong
trào dân chủ và tiến bộ khác trong nước và khu vực, đấu tranh trên nghị trường
với các chính sách, mục tiêu được lòng dân, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc,
đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, bình đẳng xã hội… Nhiều đảng phái lực
lượng vốn có truyền thống đấu tranh vũ trang nay như Đảng Mặt trận giải phóng
dân tộc Pharabunđô Macti (FMLN) ở En Xanvađo, các lực lượng kháng chiến ở
Pêru, Côlômbia, Urugoay, Bôlivia... cũng đã từng bước chuyển từ phương thức
đấu tranh vũ trang sang đấu tranh nghị trường công khai hợp pháp.
Vốn bị coi là “sân sau” của Mỹ, các nước Mỹ Latinh thời gian gần đây
đang có cơ hội thuận lợi để có được một vị thế độc lập hơn. Sa lầy tại Trung
Đông, lo lắng về sự suy giảm vai trò tại châu Âu, dè chừng trước sự trỗi dậy của
Trung Quốc... Mỹ dường như đã khá bận rộn và mệt mỏi với tham vọng và buộc
phải bộc lộ ra những “khâu yếu” của mình. Khu vực Mỹ Latinh chính là một
khâu như vậy.
“Con bài dân chủ” mà Mỹ thường sử dụng đã “gậy ông đập lưng ông”.
Chính việc thông qua bầu cử đa đảng, hợp hiến, nhân dân đã lựa chọn và đưa
cánh tả lên ngôi - điều mà Mỹ không hề muốn đối với nhiều quốc gia ở khu vực
12
này. Có lẽ đây là điều thú vị và bất ngờ nhất trong chính trường thế giới những
năm qua. Ở Đông Âu “diễn biến hòa bình” có thể làm nên những cuộc cách
mạng sắc màu và dựng nên một số chính phủ thân Phương Tây, nhưng ở khu
vực Mỹ Latinh thì ngược lại, nó lại lật đổ các chính phủ cực hữu, thân Mỹ và tạo
nên các chính phủ cánh tả. Trạng thái “ngoài vòng kiểm soát” đang xuất hiện và
Mỹ, với “con bài dân chủ”, không khác gì gã “phù thủy non tay không trị nổi
những âm binh mà y đã triệu lên”.
Tựu chung, tình hình tích cực của khu vực Mỹ Latinh thập niên gần đây
như một phản chứng về “chủ nghĩa tự do mới”, về “diễn biến hoà bình”. Nói
cách khác, các nước Mỹ Latinh đã cho thấy bộ mặt thật của “chủ nghĩa tự do
mới” trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới hiện nay và chỉ ra giới hạn và
điểm yếu của “diễn biến hoà bình” mà đế quốc Mỹ là kẻ khởi xướng.
Vấn đề đặt ra là, trước triển vọng tích cực của khu vực Mỹ Latinh và mô
hình "CNXH ở thế kỷ XXI" liệu “chủ nghĩa tự do mới”, “diễn biễn hoà bình” và
đế quốc Mỹ sẽ còn thủ đoạn đối phó nào khác? Theo đó mô hình mới này sẽ cần
những điều chỉnh nào để tiếp tục phát triển thành quả của “cải cách màu đỏ”?
Ba khái quát trên cũng là tiêu biểu cho tình huống nghiên cứu và sức hấp
dẫn của đề tài: Về mô hình “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” của khu vực
Mỹ latinh hiện nay - giá trị và vấn đề đặt ra với chủ nghĩa xã hội.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
2.1 Các thành tựu nghiên cứu có liên quan tới đề tài này
Có ba nhóm thành tựu nghiên cứu quan trọng phản ánh hoặc liên quan tới
khuynh hướng XHCN và mô hình "CNXH ở thế kỷ XXI" của Mỹ Latinh
2.1.1. Nhóm thành tựu thứ nhất là những nghiên cứu, tài liệu, thông tin
đa diện, đa cấp có liên quan tới Mỹ Latinh và các nước của khu vực này trong
quá trình cải cách thập niên gần đây.
Tiêu biểu cho nhóm thành tựu này là các công trình sau đây:
1.
Bộ Hồ sơ dữ liệu các đảng ta có quan hệ (2000 - 2008) - Tài liệu
phục vụ nghiên cứu của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, là
những tổng hợp thông tin, tài liệu về các đảng mà Đảng ta có quan hệ, đáng chú
ý là tài liệu về những đảng hiện đang cầm quyền tại khu vực Mỹ Latinh cùng
13
một số đánh giá từ góc độ nghiên cứu về vấn đề này. Đây là bộ tài liệu tốt cho
nghiên cứu song nó còn ít các phân tích, đánh giá về mô hình "CNXH ở thế kỷ
XXI"
2.
Góp phần nhận thức thế giới đương đại, GS.TS Nguyễn Đức Bình,
GS.TS Lê Hữu Nghĩa, GS.TS Trần Hữu Tiến; Nxb CTQG, HN. 2003, là một
tập hợp các bài viết của nhiều nhà nghiên cứu, vừa mang tính phương pháp luận
vừa phân tích về hiện trạng, vấn đề và xu hướng của thế giới đương đại. Các tác
giả đều khẳng định xu thế thời đại đi lên CNXH vẫn là xu thế chủ đạo của chính
trị đương đại; nó hấp dẫn nhiều quốc gia - dân tộc vào dòng chảy của cuôc đấu
tranh vì độc lập dân tộc, chủ quyền kinh tế quốc gia, công bằng trong phát triển
và hướng tới CNXH.
3.
“Chủ nghĩa tư bản hiện đại trong hai thập niên đầu thế kỉ XXI - khả
năng thích nghi, phát triển và khả năng khủng hoảng của nó” - đề tài KX 08- 07,
Đỗ Lộc Diệp chủ nhiệm, H. 2006, là một công trình nghiên cứu và dự báo về
CNTB hiện đại và triển vọng của nó trên một số phương diện và ảnh hưởng đối
với CNXH. Công trình này là một nghiên cứu khá toàn diện và tương đối chi tiết
về CNTB hiện đại, những biến đổi, những đặc điểm và tác động của nó với thế
giới. Khu vực châu Mỹ và Mỹ Latinh cũng được đề cập song đề tài chưa hướng
quan tâm vào khu vực này cùng những động thái đời sống chính trị - xã hội của nó.
4.
Nỗi cô đơn của Mỹ Latinh - Diễn từ Nobel của G.G. Macket năm
1982 như là một tổng kết lịch sử - văn hoá - triết học của nhà văn Colombia nổi
tiếng, về số phận của các quốc gia Mỹ Latinh trong thế giới cận đại và hiện đại.
Chúng ta chú ý tới một đoạn: “Bạo lực và nỗi đau vô hạn của lịch sử chúng tôi là
kết quả của những sự bất công từ rất lâu đời và nỗi đắng cay chưa hề được kể,
chứ không phải một âm mưu được bày ra cách quê hương chúng tôi ba ngàn hải
lý. Nhưng nhiều nhà lãnh đạo và nhà tư tưởng châu Âu đã từng nghĩ như vậy, với
sự ngây thơ của những người cổ lỗ đã quên mất sự quá đà đầy thành quả của tuổi
trẻ mình như thể [người ta] không thể nào tìm được một số phận nào khác hơn là
phải sống dưới quyền sinh sát của hai ông chủ lớn của thế giới”
5.
Thế giới thứ ba trong thiên niên kỷ thứ ba, A.Elianop, Thông tin lý
luận số 9/2000 là một nghiên cứu về sự trỗi dậy và tự chọn đường phát triển của
14
thế giới thứ ba, đặc biệt là “số phận của Mỹ Latinh” trong những thập niên gần
đây dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do mới. Nghiên cứu này như một cắt nghĩa
vì sao khu vực này đã tìm một sự lựa chọn mới trong quá trình phát triển của
mình, song tác giả chưa đi sâu vào những lựa chọn của khu vực này.
6.
Cục diện chính trị thế giới trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI,
Hoàng Thụy Giang chủ nhiệm, đề tài KX 08-04, H. 2005. Công trình cho ta một
cái nhìn toàn cảnh về vị thế và sự phân bổ cùng các xu hướng, trào lưu và dự báo
về cục diện của đời sống chính trị thế giới hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Tuy
vậy, tác giả cũng chưa đi sâu vào xu hướng XHCN của khu vực Mỹ Latinh.
7.
Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu
hoá, TS Thái Văn Long, NXB chính trị quốc gia, 2006. Tác giả khẳng định vai
trò to lớn của các nước Mỹ Latinh trong bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc và
đoàn kết hợp tác Nam – Nam. Tác giả phản ánh quan niệm về nội dung cơ bản
của đấu tranh vì độc lập dân tộc trong bối cảnh chính trị hiện đại, gồm: “Xác lập
và giữ vững ổn định chính trị ; phát triển kinh tế quốc gia bảo vệ chủ quyền kinh
tế; cải cách chính sách xã hội, phát triển nhân lực và, đoàn kết quốc tế, đẩy
mạnh hợp tác Nam – Nam vì một trật tự quốc tế mới”. Mô hình "CNXH ở thế kỷ
XXI" chính là sự phản ánh những nội dung cơ bản này.
8.
Về triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên đầu thế kỷ
XXI, TS Nguyễn An Ninh (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 2006. Tác
giả đã đưa ra quan niệm về triển vọng của CNXH, các nhân tố tác động và có
những đánh giá riêng về xu hướng đi lên CNXH ở từng khu vực, những thách
thức và vấn đề đặt ra với các khu vực, trong đó có Mỹ Latinh. Đáng chú ý là
những nhận định về thế giới thứ ba và vai trò của nó, đặc thù chính trị - xã hội
cùng những nét riêng quy định sắc thái CNXH ở khu vực này.
9.
Quan hệ quốc tế đương đại - những vấn đề lý luận và thực tiễn-
PGS.TS Nguyễn Hoàng Giáp chủ biên, NXB chính trị quốc gia, Hà nội, 2008, có
những bài viết đề cập tới hiện tượng cánh tả Mỹ Latinh chẳng hạn: “Bước phát
triển của trào lưu cánh tả Mỹ Latinh hiện nay” gồm những thông tin và nhận định
về thực trạng và triển vọng của trào lưu này.
15
10.
Chủ nghĩa tư bản những bất ổn tiềm tàng, Harry Shutt; Nxb Chính
trị quốc gia, Hà nội, 2002. Chúng ta chú ý tới quan niệm về một trật tự bền vững
của thế giới gồm: chủ nghĩa tập thể mới, một nền dân chủ mới và chủ nghĩa toàn
cầu mới. Tuy không trực tiếp mô tả về Mỹ Latinh nhưng tác giả lại cắt nghĩa
đúng nguyên nhân căn bản nhất đã thúc đẩy cho “sự lựa chọn Bolivar”của khu
vực này. Chẳng hạn một nhận định về chủ nghĩa tự do mới: “CNTB kẻ đi tìm lợi
nhuận tối đa, trong một phần ba cuối của thế kỷ XX đã không còn là một công cụ
mang lại tiến bộ cho con người nữa… Một thảm hoạ như vậy có thể xoá sạch
những thành quả to lớn mà nền văn minh phương Tây vất vả lắm mới giành được
trong 5 thế kỷ qua, kể từ thời Phục hưng, và theo đó mở ra một kỷ nguyên hắc
ám mà Uynstơn Sơcsin đã tiên đoán từ năm 1940…” (tr. 370-371).
11.
Phản phát triển cái giá phải trả cho chủ nghĩa tự do; Richard
Bergerron, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, là một công trình nghiên cứu
vạch rõ hậu quả tầm vóc thế giới của CNTB hiện đại, rằng cách mà CNTB đang
làm đã để lại nhiều hậu hoạ, nguy cơ với quá trình phát triển công bằng, bền
vững và nhân bản. Nó đã để lại cả một châu lục - châu Mỹ và khu vực Mỹ Latinh
lút đầu trong nợ nần và sự phụ thuộc nhiều mặt vào các nước đế quốc. Tình thế
ấy là một cách cắt nghĩa vì sao Mỹ Latinh hướng tới những sự phủ định con
đường của “chủ nghĩa tự do mới”.
12.
Lời thú tội của một sát thủ kinh tế, Jonh Perking, Nxb Trẻ, TP Hồ
Chí Minh, 2006, là một bản cáo trạng về “chủ nghĩa tự do mới”- kẻ đã dùng tiền
bạc dưới chiêu bài đầu tư và các mưu mô chính trị để khống chế, kìm hãm sự
phát triển của các quốc gia đang phát triển nhằm khai thác những nguồn tài
nguyên và biến nhiều quốc gia trở thành những con nợ khổng lồ của IMB, WB những tổ chức bị Mỹ và các tập đoàn xuyên quốc gia thao túng. Mỹ Latinh cũng
là một trong những trường hợp điển hình được mô tả trong cuốn sách này.
13.
Phong trào cánh tả lan rộng ở Mỹ Latinh; www.http: che-
vietnam.com, ngày 26/2/2009; là một bài nghiên cứu có tính tổng quan về tình
hình cánh tả Mỹ Latinh cùng những thành quả của họ trong tiến trình cải cách
gần đây. Đáng chú ý là nhận định về uy tín chính trị của các nguyên thủ cánh tả
vẫn tiếp tục giữ vững và tăng lên trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế của thế giới
16
- Xem thêm -