Tiểu luận:
Văn hóa dân chủ với phát triển xã hội
trong điều kiện Đảng cầm quyền
A. Đặt vấn đề
Chính chính trị là lĩnh vực hoạt động rộng lớn và quan trọng của loài người.
Lịch sử hoạt động chính trị gắn liền với lịch sử đấu tranh xây dựng xã hội và phát triển
đời sống con người. Văn hóa chính trị hình thành và phát triển cùng với văn hóa nói
chung.
Chính trị là một phương diện hoạt động, là trình độ hoạt động của con người,
vì vậy, là sản phẩm của văn hóa. Đến lượt mình, với tư cách là một phương diện của
văn hóa, văn hóa chính trị với các tính chất đặc điểm, chức năng của văn hóa chính trị
lại nâng cao trình độ chính trị cho con người. Điều đó có nghĩa văn hóa chính trị
không phải là biểu hiện bề ngoài của chính trị, mà thẩm thấu trong cơ thể chính trị; nó
là sức sống, và do đó là sức mạnh bên trong của đời sống chính trị. Như vậy, văn hóa
chính trị có vai trò vô cùng to lớn trong hoạt động chính trị, nó không chỉ phản ánh đời
sống chính trị, mà còn nằm trong mọi thành phần, mọi hoạt động chính trị của con
người; nó tác động mạnh mẽ và toàn diện tới phương hướng, tính chất, nội dung, kết
quả và hiệu quả của hoạt động chính trị.
Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước oai hùng của dân tộc Việt Nam đã
hình thành nên nền văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Với những phẩm chất tốt đẹp của
mình, văn hóa Việt Nam đã trở thành bản chất, linh hồn và sức sống của văn hóa chính
trị Việt Nam - nó xây dựng nên nền văn hóa chính trị Việt Nam nhân văn và tiến bộ.
Văn hóa chính trị Việt Nam đã tạo nên sức mạnh của nền chính trị Việt Nam. Đặc biệt
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với đường lối đúng đắn, với bản chất dân chủ,
khoa học và cách mạng văn hóa chính trị Việt Nam đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác; nâng dân tộc ta, đất nước ta lên những tầm cao mới.
Văn hóa chính trị Việt Nam tồn tại trong dân tộc Việt Nam, trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam, và nói đến cùng, nó tồn tại trong từng con
người cụ thể. Văn hóa chính trị trong mô ĩ con người hợp thành văn hóa chính trị dân
tộc; và văn hóa chính trị của dân tộc lại tồn tại trong mỗi cá nhân với tư cách chủ thể
chính trị. Chúng ta nói tới văn hóa Hồ Chí Minh ở Người nổi bật là văn hóa đạo đức
với hệ giá trị chuẩn mực và nguyên tắc của đạo đức cách mạng; văn hóa Hồ Chí Minh
cần được vận dụng vào việc xây dựng văn hóa trong Đảng lúc này còn là văn hóa dân
chủ, là văn hóa trọng dân, văn hóa trọng pháp để thực hiện bằng được quyền dân chủ
và làm chủ của dân, nhất là trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng
đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn đề tài " Văn
hóa dân chủ với phát triển xó hội trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền " để
làm tiểu luận hết môn học.
B. Phần nội dung
I. Văn hóa dân chủ với mục tiêu và lý tưởng của Đảng Cộng sản
1. Vài nét về văn hóa dân chủ
Trong lịch sử phát triển xã hội và sự hoàn thiện nhân cách con người, văn hóa
đồng hành với con người trên tất cả mọi phương diện: Hoạt động, giá trị và sáng tạo.
Hoạt động nhằm bộc lộ sức mạnh bản chất người và hoàn thiện nhân tính; giá trị và
những định hướng giá trị của con người - cá nhân và cộng đồng mà hệ giá trị phổ biến,
phổ quát nhất của mọi nền văn hóa trong thế giới nhân loại là chân - thiện - mỹ. Bản
chất văn hóa gắn liền với bản chất con người. Dưới tác nhân của văn hóa, đặc biệt là
văn hóa đạo đức và văn hóa thẩm mỹ, con người có thể nảy nở ra khát vọng, nhu cầu
trở nên tốt đẹp, cái mà từ lâu, Mác gọi là sự nảy nở nhân tính, làm cho hoàn cảnh có
tính người ngày càng nhiều hơn. Nhân đạo hóa hoàn cảnh là con đường có tính quy
luật để giáo dục con người bồi dưỡng, vun trồng nhân tính. Đó là cơ sở lý luận để giáo
dục con người hoàn lương và hướng thiện. Hoạt động giáo dục cải tạo ấy với tính cách
là giáo dục văn hóa, làm thức tỉnh con người đạo lý, tình thương, lẽ phải.
Dân chủ là sự làm chủ xã hội của nhân dân. Lịch sử phát triển của loài người,
trên một phương diện căn bản, đó là lịch sử phát triển của quyền làm chủ xã hội của
nhân dân lao động. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, chủ nô là chủ xã hội, người dân là
nô lệ - công cụ lao động biết nói. Trong xã hội phong kiến vua chúa, chúa đất là chủ xã
hội người dân là tôi đòi phục dịch. Trong xã hội tư bản, nhà tư sản làm chủ lực lượng
sản xuất chi phối mọi quan hệ xã hội, người dân là kẻ làm thuê, hoàn toàn phụ thuộc
vào tầng lớp trên. Đã là nô lệ, là tôi đòi, là người phụ thuộc vào tầng lớp trên, thì nhân
dân nói gì tới quyền làm chủ, nói gì tới trình độ, năng lực và phương thức làm chủ xã
hội.
Chỉ trong chủ nghĩa xã hội - xã hội mà người chủ thực sự là người dân - quần
chúng nhân dân là lực lượng làm nên lịch sử của chính mình, của xã hội. Do đó, trong
chủ nghĩa xã hội, người dân dùng sức lực, trí tuệ, tài năng của mình để xây dựng xã hội
của chính mình - xã hội xã hội chủ nghĩa - một xã hội tiến bộ nhất, phát triển nhất trong
lịch sử xã hội loài người.
Như vậy, dân chủ phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, của con người
và loài người nói chung. Bản chất xã hội như thế nào thì bản chất dân chủ sẽ như thế
ấy. Xã hội nô lệ và xã hội phong kiến là các xã hội không có dân chủ - đó là các xã hội
chủ nô, xã hội vua chúa. Cách mạng tư sản đem lại dân chủ cho giai cấp tư sản. Nhưng
như vậy, từ trong bản chất của nó, giai cấp tư sản - dân chủ tư sản là dân chủ của một
tầng lớp người - tầng lớp tư sản, tầng lớp có của, tầng lớp số ít. Đó là xã hội mà người
chủ là giai cấp tư sản.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng đem lại dân chủ thực sự cho
nhân dân lao động. Giai cấp công nhân, người đại diện cho lực lượng sản xuất - lực
lượng phát triển và tiến bộ của xã hội, đại diện cho toàn thể nhân dân lao động trong
xã hội, đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân, và từ đó cũng đấu tranh và bảo
đảm lợi ích của các giai cấp khác trong toàn xã hội. Sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước do giai cấp công nhân, nhân dân lao động tự quyết.
Như vậy, dân chủ cũng thể hiện ở trình độ làm chủ xã hội của con người - của
nhân dân. Trình độ làm chủ ở đây là trình độ tổ chức xã hội - mọi hoạt động xã hội,
trong đó, chủ yếu là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, là nhà nước xã hội chủ
nghĩa - nhà nước thực hiện mục đích dân chủ, nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân được tổ chức một cách khoa học để phát huy cao độ năng lực hoạt động
của nhân dân, đem lại hiệu quả coa nhất, thực hiện lý tưởng của nhân dân là phát triển
xã hội và phát triển con người.
Điều đó cũng có nghĩa, dân chủ thể hiện ở cả phương thức tổ chức, phương
thức hoạt động của xã hội, của lực lượng cách mạng; đó là tính chất, trình độ, cách
thức hoạt động của nền dân chủ Tựu trung lại, dân chủ thể hiện một cách đầy đủ bản
chất xã hội, bản chất con người, là trình độ phát triển xã hội và phát triển con người.
Nếu văn hóa là phạm trù Người, chỉ mối quan hệ giữa con người với con người, con
người với thiên nhiên, trong đó kết tinh toàn bộ các giá trị, các phương thức sống, các
năng lực hoạt động và trình độ phát triển của chính con người, thì dân chủ đích thực là
phạm trù văn hóa.
Quyền làm chủ của nhân dân, trình độ làm chủ và phương thức làm chủ xã hội
của nhân dân chính là văn hóa của con người, của nhân dân và của xã hội. Quyền làm
chủ thực sự, đầy đủ, toàn diêNga nói lên văn hóa dân chủ cao trong lĩnh vực cầm
quyền của nhân dân. Năng lực làm chủ thể hiện nội lực - sức sống - sức mạnh bên
trong của văn hóa dân chủ. Phương thức làm chủ (cầm quyền) thể hiện trong cách thức
tổ chức và hoạt động sống, nói chung đó là cách thức làm chủ xã hội mà ở đó nổi bật
lên phong cách tư duy, phong cách lãnh đạo, phong cách quản lý, phong cách ứng xử
trong mọi quan hệ, mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đó là những yếu tố
nói lên bản chất và nội dung văn hóa dân chủ.
Văn hóa dân chủ là một khía cạnh, một phương diện của văn hóa nói chung, ở
đó kết tinh toàn bộ các giá trị dân chủ, trình độ, phẩm chất, năng lực thực hiện dân chủ,
phương thức thực hiện dân chủ của nhân dân, chúng được hình thành và phát triển trên
một nền dân chủ nhất định với sự kế thừa và phát triển những giá trị của các nền dân chủ
tiên tiến trên thế giới.
2. Văn hóa dân chủ với mục tiêu và lý tưởng của Đảng Cộng sản
Văn hóa dân chủ biểu hiện đúng bản chất, thể hiện rõ nhất ở nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa - một chế độ xã hội thực sự của dân, do dân, vì dân. Nền dân chủ đó
phấn đấu cho lý tưởng dân chủ - quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân, tổ chức xã
hội với cơ chế vận hành phát huy cao độ sức sáng tạo của người lao động, xây dựng
cuộc sống tốt đẹp. Phương thức làm chủ của chế độ dân chủ là mọi quyền lực tập trung
ở một nhà nước do giai cấp công nhân - giai cấp nông dân - tầng lớp trí thức quản lý
và điều hành, đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân - nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước dân chủ. Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với lý tưởng dân chủ và thực thi dân chủ là đấu tranh vì
chủ nghĩa xã hội - một xã hội phát triển lực lượng sản xuất với nền khoa học - công
nghệ hiện đại, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, nhằm thực hiện "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người".
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được thiết lập và vận hành bằng quyền lãnh đạo
của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội thông qua đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản. Mục tiêu, íy tưởng của Đảng Cộng sản là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa
- dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, và đó cũng chính là mục
tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
Vì vậy, một cách khách quan và khoa học, có thể khẳng định vai trò chân
chính và duy nhất của Đảng Cộng sản trong sứ mệnh cầm quyền và lãnh đạo toàn thể
xã hội thông qua nhà nước, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là phương thức
lãnh đạo duy nhất và tối ưu thực hiện được mục tiêu xã hội chủ nghĩa của giai cấp
công nhân, của toàn thể nhân dân lao động. Nền dân chủ đích thực, tiến bộ phải là nền
dân chủ của nhân dân lao động - lực lượng duy nhất sáng tạo ra lịch sử và quyết định
tương lai phát triển của xã hội loài người. Năng lực, khả năng thực hiện nền dân chủ
đó có thể là Đảng Cộng sản - Đảng mang mục đích, lý tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa
- dân chủ thực sự chứa đựng những nội dung tiến bộ và nhân văn. Đảng Cộng sản,
mục tiêu và phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản vì thế, thực chất là chủ thể
mang văn hóa dân chủu, thực hiện lý tưởng văn hóa dân chủ và đem lại mục tiêu văn
hóa dân chủ cho xã hội, cho toàn dân. Ngoài Đảng Cộng sản không thể có một Đảng
nào khác mang bản chất văn hóa dân chủ đích thực, và vì thế, cũng không một Đảng
nào đại diện được cho văn hóa dân chủ, không đủ sức sống và sức mạnh thực hiện
được một nền dân chủ đầy đủ chất xã hội chủ nghĩa - chất văn hóa dân chủ.
Chính văn hóa dân chủ Việt Nam - văn hóa dân chủ Hồ Chí Minh - văn hóa
Đảng Cộng sản Việt Nam là sức sống, nó tạo nên sức mạnh của cách mạng Việt Nam,
làm nên những kỳ tích trong lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Và chính bản chất văn hóa dân chủ đó đang là đích hướng cho sự vận động phát triển - tiến bộ của dân tộc Việt Nam trên con đường đi tới tương lai của mình.
II. Văn hóa dân chủ với phát triển xã hội trong điều kiện Đảng Cộng sản
cầm quyền
1. Văn hóa dân chủ từ góc độ là quyền làm chủ của nhân dân với sự phát
triển xã hội
Văn hóa dân chủ biểu hiện trước hết ở chỗ, nhân dân lao động với tư cách chủ
thể xã hội được sử dụng quyền lực của mình đến đâu và sử dụng quyền lực để thực
hiện mục tiêu chính trị ra sao. Văn hóa dân chủ, như trên đã chứng minh, biểu hiện đầy
đủ nhất ở mục tiêu, lý tưởng xã hội của Đảng Cộng sản, vì nó phản ánh tư tưởng, ý chí,
nguyện vọng của toàn dân trong việc xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp.
Khi nắm được quyền lực để thực hiện mục tiêu, lý tưởng chính trị đó của nhân
dân, Đảng Cộng sản chuyển quyền lực vào tay nhân dân thông qua nhà nước - cơ quan
đại diện, nơi tập trung sức mạnh của nhân dân, nơi người dân thực hiện quyền làm chủ
xã hội của mình. Vì vậy, nhà nước mà Đảng Cộng sản xây dựng là nhà nước dân chủ:
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân; bao nhiêu quyền hạn đều ở nơi dân.
Dân chủ ở đây không chỉ là ý chí, là khẩu hiệu, mà nó biến thành hiện thân
của dân, thể hiện trong nhà nước thực sự là của dân: Chủ tịch nước là người đứng đầu
nhà nước có sứ mệnh bảo vệ và thực hiện ý chí, nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân.
Các cơ quan Quốc hội (lập pháp), Chính phủ (hành pháp), Tòa án, Viện kiểm sát (tư
pháp) đều là cơ quan của dân, do dân bầu ra để thực hiện mục đích của nhân dân, đem
lại lợi ích cho nhân dân.
Văn hóa dân chủ rõ ràng ở đây thể hiện ở tính chất, đặc điểm, bản chất của nhà
nước là tạo được quyền làm chủ thực sự và cao nhất cho nhân dân.
Quyền làm chủ của nhân dân trước hết thể hiện ở chỗ, quyền lực nhà nước tạo
được quyền cao nhất cho nhân dân, nó được thiết lập thông qua chế độ kinh tế, chính
trị, văn hóa và xã hội như thế nào; nó được thực hiện bằng các thiết chế, quy định ra
sao. Có nghĩa là, nội dung dân chủ được thể chế hóa thành chế độ dân chủ, chế độ đó
thể hiện trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội - tức là nền dân
chủ. Nền dân chủ đó là một cơ cấu xã hội tồn tại, vận động như một hệ thống, một
chỉnh thể chính trị được vận hành theo những quy luật hay những tính quy luật khách
quan nhất định. Những quy luật hay những tính quy luật khách quan ấy được thể hiện
trong quan hệ giữa quyền dân chủ với mục tiêu chính trị và tính chất cũng như trình độ
phát triển của kinh tế - xã hội; giữa quyền dân chủ và hệ thống thể chế; quan hệ giữa
tập trung và dân chủ; giữa dân chủ và chuyên chính; quan hệ giữa quyền dân chủ thực
tế và ý thức, năng lực chủ quan thực hiện các quyền đó; quan hệ giữa truyền thống và
hiện đại; giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh... trong việc thực thi dân chủ.
Thực hiện và giải quyết một cách thực sự những vấn đề đó trong các quan hệ
của chúng là tạo được hiệu quả làm chủ cao nhất của nhân dân, và chính điều đó, một
mặt nói lên văn hóa dân chủ của chủ thể chính trị; mặt khác, đến lượt mình, văn hóa
dân chủ lại thúc đẩy sự phát triển của bộ máy chính quyền, bộ máy nhà nước và điều
quan trọng nhất là nó thể hiện sự phát triển của chính nhà nước, của kinh tế, xã hội,
văn hóa và con người.
Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng mô hình hoạt động: Đảng lãnh đạo - Nhà
nước quản lý - Nhân dân lao động làm chủ. Đó là một mô hình tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân lao động. Đảng là
chủ thể lãnh đạo chính trị - vạch ra đường lối, chủ trương, chiến lược, sách lược cho cỗ
máy hệ thống chính trị hoạt động hiệu quả. Nhà nước là sản phẩm của việc thể chế hóa
đường lối, chiến lược, sách lượci chính trị của Đảng. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là một tổ chức chức nhà nước khoa học, được vận hành bằng pháp luật theo
nguyên tắc nhân văn xã hội chủ nghĩa - nó điều tiết các giá trị và mọi quan hệ theo
hướng phát triển xã hội - con người, tức là theo hướng tiến bộ; nhân dân là người làm
chủ quá trình vận hành nhà nước, thực hiện mục tiêu nhân văn đó.
Vấn đề khó khăn nhất là làm thế nào để nhân dân thực sự làm chủ mọi khâu,
mọi yếu tố trong mô hình đó. Về lý thuyết, mô hình đó là đúng đắn và có khả năng
thực thi. Nhưng chính trị không thuần túy là vấn đề lý thuyết, mà phải là vấn đề thực tế.
Khi tất cả quá trình chính trị đó được cụ thể hóa trong chiến lược, sách lược, giải pháp
thực hiện ở tất cả các ngành, các cấp, từng địa phương, từng đối tượng nhân dân với tư
cách các chủ thể chính trị thực sự - nghĩa là có văn hóa làm chủ thực sự, lúc đó mới
tạo ra được sức mạnh thực sự của sự phát triển xã hội. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của nhân dân; sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc là sự nghiệp của nhân dân; sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội do
nhân dân tự làm lấy!
Văn hóa dân chủ nằm sâu trong các tầng lớp văn hóa - xã hội, ở mọi phương
diện hoạt động sống của con người từ kinh tế đến chính trị, từ văn hóa đến đời sống.
Trong kinh tế, việc thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
phát huy mọi thành phần kinh tế cũng như mọi hình thức hoạt động của chúng chính là
phát huy quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế của nhân dân. Văn hóa dân chủ ở đây
thể hiện trong sự tự quyết của các chủ thể kinh tế. Nhà nước phải thực sự là nơi tổ
chức cơ chế hoạt động, người thực thi phải là nhân dân. Từ các chủ trương kinh tế,
nhân dân là chủ thể nắm vững mục tiêu, kế hoạch kinh tế; tự chủ tìm tòi, sáng tạo để
đem lại hiệu quả kinh tế, nâng cao chất lượng sản phẩm kinh tế.
Trong thực tiễn hoạt động kinh tế, nhất là ở các địa phương (tỉnh, thành phố,
huyện, quận, xã, phường), quan hệ kinh tế hết sức phức tạp, nhất là quan hệ kinh tế chính trị. ở đó, sự vi phạm dân chủ còn rất phổ biến, và nhiều nơi đã xẩy ra những
xung đột trầm trọng. Văn hóa dân chủ trong kinh tế không chỉ hạn chế tình trạng mất
dân chủ trong hoạt động kinh tế, mà còn làm cho quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội
lành mạnh, làm điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Về chính trị, trong thực tế, nhất là ở cấp vĩ mô, nhân dân chưa thực sự được
làm chủ chính trị, khẩu hiệu: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra còn quá xa vời.
Ta nói chính quyền là của dân, do dân, vì dân, nhưng trong thực tế, ở nhiều địa phương,
Hội đồng nhân dân có vai trò mờ nhạt, thậm chí không nắm được chứ chưa nói là đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vậy nên, người dân chưa thực sự gắn bó, đặt niềm tin
và tự nguyện đề xuất kiến nghị với Đảng và Chính phủ chăm lo cho công việc chung.
Hơn nữa, ở nhiều địa phương, hiện tượng đảng viên, cán bộ chính quyền gây
khó khăn cho nhân dân còn khá phổ biến, đó là chưa nói tới sự ức hiếp, trù dập người
dân. ở một số địa phương có hiện tượng: Đảng là tất cả, chính quyền là trên hết! Người
dân chỉ biết tuân theo Nghị quyết của Đảng, Chỉ thị của chính quyền. ở những nơi đó,
đảng với chính quyền không còn là đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Quyền làm chủ của nhân dân trở thành hiện thực, văn hóa dân chủ được nâng
cao và trở thành động lực thúc đẩy xã hội phát triển khi xã hội được xây dựng theo
nguyên tắc xã hội công dân. Nhân dân là chủ nhân xã hội; sứ mệnh và sự nghiệp của
nhân dân do nhân dân tự làm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Văn hóa dân chủ
trong xã hội công dân thể hiện ở chỗ: cán bộ đảng, cán bộ chính quyền một mặt phải
thực sự là đại diện cho nguyện vọng, ý chí của nhân dân, mặt khác phải thực sự là
công bộc của dân, lo trước dân, hưởng sau dân. Chính phủ mà không bảo đảm được
đời sống của nhân dân là "Chính phủ có lỗi", Chính phủ không làm trọn được sứ mệnh
của mình là phục vụ nhân dân thì "nhân dân có quyền phế bỏ Chính phủ" (Hồ Chí
Minh). Cán bộ đảng, cán bộ chính quyền, các tổ chức đảng và nhà nước luôn nghĩ đến
cuộc sống hàng ngày, giải quyết những khó khăn cho nhân dân, tạo điều kiện để nhân
dân phát huy tính tích cực trong mọi hoạt động thực tiễn và nhiệm vụ chính trị của
mình... điều đó thể hiện văn hóa dân chủ thực sự, và là sức sống và sức mạnh của một
nền chính trị, sức mạnh phát triển xã hội.
Bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực của nhân dân là thống nhất và không chia
sẻ trong tay nhân dân. Những việc hệ trọng của nhân dân đều d nhân dân quyết định.
Người dân có quyền tham gia bàn bạc và thực hiện các công việc quản lý xã hội với
các hình thức thích hợp. Mọi người đều bình đẳng, có cơ hội và điều kiện ngang nhau
trong việc thực hiện quyền tự do, dân chủ, phát triển toàn diện nhân cách, trí tuệ và sức
lực phù hợp với nguyện vọng và quyền lợi của mình. Mỗi người dân thực sự làm chủ
bản thân, làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội.
Văn hóa dân chủ cũng thể hiện ở chỗ, mỗi đảng viên, cán bộ trong cơ quan,
trong các tổ chức đảng và nhà nước làm chủ tổ chức và cơ quan ra sao? được bảo vệ
như thế nào trong đấu tranh thực hiện dân chủ? Hiện nay, trong hoạt động đảng, chính
quyền, hiện tượng những đảng viên, cán bộ hết lòng vì chân lý, vì lẽ phải, vì sự trong
sáng của tổ chức, của cơ quan, tập thể mà thẳng thắn đấu tranh với cái sai, cái xấu, cái
ác thì cuối cùng đã không biết "tránh đâu"! Đây là hiện tượng phi văn hóa dân chủ cần
loại trừ để đảng trong sạch, nhà nước vững mạnh.
Coi trọng hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong toàn xã hội: thực
hiện đúng vai trò lãnh đạo của đảng đối với toàn hệ thống chính trị là yếu tố quyết định
bảo đảm việc thực thi dân chủ của nhân dân. Hệ thống chính trị phải thực sự trở thành
công cụ hữu hiệu trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội, tất cả vì nhân dân, vì sự tiến bộ của con người. Sự lãnh đạo của
đảng với hệ thống chính trị thể hiện ở chỗ: Đảng với đường lối đúng đắn, với sức
mạnh trí tuệ, với kinh nghiệm cách mạng phải làm cho hệ thống chính trị cụ thể hóa
được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện thành công sự nghiệp
cách mạng của dân tộc.
2. Văn hóa dân chủ từ góc độ năng lực làm chủ với sự phát triển xã hội
Từ việc thiết lập quyền dân chủ đến việc xây dựng thiết chế dân chủ để hình
thành nền dân chủ; từ dân chủ trong chính trị đến dân chủ trong kinh tế và xã hội; từ
sự hiểu biết dân chủ đến ý thức thực hiện dân chủ... đó là một quá trình xây dựng và
phát triển xã hội, đồng thời đó cũng là quá trình phát triển trình độ làm chủ của nhân
dân. Có được quyền thực hiện dân chủ, đó là điều kiện quan trọng, có thể nói là quyết
định lý tưởng dân chủ của nhân dân, song đó mới chỉ là một mặt của văn hóa dân chủ.
Văn hóa dân chủ biểu hiện rất quyết định trong trình độ và năng lực thực hành dân chủ
của người dân. Trình độ và năng lực dân chủ vừa thể hiện nền văn hóa dân chủ cao,
vừa là sức sống và động lực, là sức sống và sức phát triển nội tại của xã hội.
Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân (chủ thể chính trị) cũng thể hiện ở
khả năng tổ chức và hoạt động chính trị. Các chủ thể chính trị phải được đặt vào đúng
vị trí, được thực hiện đúng chức năng và làm tốt vai trò của mình. Điều này thể hiện
trước hết ở việc người công dân có đủ hiểu biết, lựa chọn mục tiêu chính trị, lựa chọn
người lãnh đạo trong các lĩnh vực hoạt động của mình. Người dân, tổ chức chính trị xã hội phải có khả năng lựa chọn, giới thiệu người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
mình vào các tổ chức đảng, chính quyền, tham gia các hiệp hội. Và người dân biết luật
và thực hiện quyền giám sát của mình. Đó chính là năng lực tổ chức chính trị. Tham
gia gián tiếp và trực tiếp giám sát các hoạt động xã hội thể hiện trình độ và năng lực
quản lý hoạt động đầy trách nhiệm của các tổ chức do mình bầu ra để đại diện cho ý
chí nguyện vọng của mình, thực hiện mục đích chính trị của mình.
Trình độ và năng lực dân chủ biểu hiện ở hiệu quả hoạt động của nhân dân
trong một nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa. Người dân có sự hiểu
biết đúng đắn và sâu sắc về nhà nước pháp quyền; biết rõ vai trò và trách nhiệm của
mình trong nhà nước pháp quyền. Nhân dân ở đây là tất cả các thành viên trong xã hội.
Nhân dân cũng là những người tham gia các tổ chức công quyền, các chức vụ trong bộ
máy nhà nước. Mọi công dân cũng là những người đứng ra ứng cử, tự nguyện tham gia
lãnh đạo các tổ chức, các phong trào, gia nhập Đảng Cộng sản. Trình độ và năng lực
làm chủ - văn hóa dân chủ - ở tất cả các loại công dân có khác nhau tùy thuộc sự phân
công của tổ chức đảng, của bộ máy nhà nước, của các đoàn thể. Vấn đề là từng loại
công dân này thể hiện văn hóa dân chủ ở chỗ họ có năng lực và trình độ thực hiện
nhiệm vụ chính trị của mình đến đâu. Văn hóa dân chủ trong khía cạnh này thể hiện ở
năng lực và trình độ làm chủ - hoàn thành tốt chức trách từng cá, của người cán bộ,
đảng viên trong đảng, nhà nước, đoàn thể. Trình độ văn hóa dân chủ của cá nhân, tập
thể đó vừa nói lên trình độ phát triển xã hội, con người, vừa là nội lực của chính quá
trình phát triển của tổ chức, của tập thể và xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới, trong điều kiện xã hội mở cửa, thực hiện hội nhập
kinh tế, văn hóa, xã hội thì trình độ và năng lực làm chủ xã hội của chủ thể cũng còn
thể hiện ở sự nhanh nhậy, sắc bén trước tình hình thế giới, khả năng ứng xử linh hoạt,
biết tiếp thu một cách chọn lọc những cái mới để đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát
triển xã hội; đó cũng là hiệu quả của chủ thể chính trị - xã hội trong việc tham gia vào
công cuộc đổi mới, mở cửa, hội nhập vì mục tiêu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội con người.
Nói đến năng lực làm chủ xã hội hiện nay cần nói tới năng lực thực thi quyền
lực của nhân dân trong việc thực hiện mục tiêu chính trị quốc gia, đem lại lợi ích dân
tộc. Trong năng lực thực thi quyền lực thì năng lực cầm quyền của giới lãnh đạo, quản
lý - giới tinh hoa của nền dân chủ - là vô cùng quyết định tới thành bại, đến sự phát
triển - tiến bộ xã hội ta. Giới tinh hoa trước hết phải nói tới các chủ thể chính trị - các
nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
giành độc lập - tự do cho Tổ quốc thể hiện năng lực cách mạng cao. Song trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một năng lực mới, nó cần đến khoa học công nghệ chính trị cao, khoa học - nghệ thuật quản lý kinh tế - xã hội tốt. Chính ở đây
cán bộ Đảng, Nhà nước ta còn nhiều hạn chế. Để thực hiện được trọng trách của Đảng,
đội ngũ cán bộ này phải trang bị cho mình nhiều kiến thức khoa học về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội. Nâng cao văn hóa cầm quyền ở đội ngũ cán bộ này là yêu cầu tất
yếu trong phát huy dân chủ, tạo ra sức mạnh phát triển đất nước.
Đội ngũ cán bộ chuyên môn, cán bộ tổ chức, quản lý trong Đảng và Nhà nước,
đặc biệt là cán bộ trong các cơ quan công quyền khi bước vào xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
càng bộc lộ nhiều yếu kém. Đây không chỉ nói lên hạn chế về văn hóa tri thức, văn hóa
khoa học mà cũng chính là văn hóa dân chủ, bởi nó hạn chế rất lớn năng lực làm chủ
của cán bộ, đảng viên của ta. Không lấp đầy những lỗ hổng văn hóa đó thì năng lực
làm chủ, văn hóa cầm quyền sẽ yếu kém, không đưa kinh tế - xã hội tiến lên được.
Trên lĩnh vực chính trị, quan hệ đảng - dân, nhà nước - xã hội, xã hội - cá nhân
có quan hệ đa chiều và vô cùng phức tạp. Thực hiệni việc tạo ra sự đồng thuận xã hội,
tạo ra sự bình đẳng trong bản chất dân chủ là quyền lực và do đó, lacs mạnh của nhân
dân được phát huy ngày càng đầy đủ, tính độc lập tự chủ của nhân dân được thể chế
chính trị - xã hội tôn trọng và được tạo điều kiện phát huy... Đó là năng lực và trình độ
văn hóa dân chủ của nền chủ nghĩa và của từng chủ thể chính trị.
Trong yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong điều kiện
phát triển kinh tế tri thức, trình độ và năng lực văn hóa dân chủ biểu hiện ở chỗ dân
chủ hóa một cách thực sự, mở rộng được một cách toàn diện, vừa phải hội nhập và đối
htoại được với các nền pháp chế thế giới, vừa phải tôn trọng các giá trị pháp lý dân tộc,
bảo đảm nguyên tắc chính trị của Đảng ta, có lợi cho sự ổn định chính trị - xã hội và
phát triển - sự tiến bộ của đất nước, của dân tộc. Điều đó, văn hóa dân chủ đòi hỏi phải
xóa bỏ triệt để các thể chế quan liêu bao cấp và những rào cản, tiếp tục đẩy mạnh cải
biến xã hội cổ truyền với tâm lý phong kiến, tiểu nông và cả những di chứng vừa có
tính nô lệ, vừa có tính vọng ngoại còn tồn tại trong xã hội, trong tư tưởng, tâm lý con
người; tiếp thu và xây dựng nền tảng tư tưởng, tâm lý mới của xã hội văn minh trên cơ
sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tiễn của sự phát triển xã hội,
thực chất là văn hóa dân chủ đòi hỏi dân chủ hóa xã hội trên cơ sở một xã hội kỷ
cương với hệ thống pháp luật mới, năng động, phù hợp và thúc đẩy xã hội phát triển,
tức là đòi hỏi một chế độ xã hội pháp quyền, một nền dân chủ pháp quyền. Dân chủ và
pháp quyền là hai mặt cơ bản tạo thành chất của một xã hội văn minh. Trình độ và
năng lực dân chủ biểu hiện ý thức và khả năng xây dựng mo ọt xã hội thực sự dân chủ,
tự do cho nhân dân, và gắn liền với tự do đó bao giờ cũng phải là một xã hội kỷ cương
theo pháp luật.
nền dân chủ ở nước ta đang tự khắc phục những yếu kém, những sai sót, đặc
biệt là những hạn chế trong trình độ và năng lực theo yêu cầu sự nghiệp đổi mới. Dù
phải cải tạo, xây dựng nền dân chủ mới, nhưng không thể phủ nhận nguyên tắc dựa
vào và phát huy quyền lực và năng lực làm chủ của nhân dân mà nòng cốt là công nông - trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo; nguyên tắc tự do của cộng đồng được phát
huy trên cơ sở độc lập - tự chủ - tự do của nhân dân được đảm bảo; nguyên tắc dân chủ
pháp quyền, sự thống nhất giữa dân chủ với kỷ cương và đonà kết xã hội, hợp tác,
đồng thuận giữa nhà nước với doanh nghiệp, nhà nước với xã hội công dân... theo
hướng dân chủ hóa, tạo động lực cho phát triển, phát triển vì hạnh phúc của con người.
Dân chủ hóa là nhằm mục đích huy động cao độ tiềm năng, phát triển năng lực
xã hội trong các dân tộc, giai tầng xã hội, các thành phần kinh tế, phát huy nội lực để
thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Việt Nam xã
hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh.
3. Văn hóa dân chủ từ góc độ phương thức thực hiện dân chủ với phát
triển xã hội
Văn hóa dân chủ không chỉ thể hiện ở nền dân chủ mà ở đó chính quyền,
quyền lực thuộc nhân dân, ở cách thiết lập nhà nước để đưa chính quyền về tay nhân
dân, ở phương thức xây dựng và sử dụng chính quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Đó là nội dung phương thức thực hiện dân chủ - phương thức thực hiện dân chủ ở tầm
vĩ mô hay còn gọi là cách nhìn từ trên xuống.
Thực chất, bản chất của nhà nước là thực hiện bản chất, mục tiêu, lý tưởng của
một đảng. Mục tiêu, lý tưởng của đảng và nhà nước mà không phù hợp, không thể theo
nguyện vọng của nhân dân thì không thể nói đến nhà nước dân chủ. Mục tiêu, lý tưởng
đó là phấn đấu cho lý tưởng nhân văn, vì nó phù hợp với lý tưởng con người chân
chính, loài người tiến bộ. Vậy là cách tổ chức nhà nước, cách tổ chức hoạt động của
chính quyền, phương thức quản lý xã hội vì nhân dân... nói lên xã hội đó có văn hóa
dân chủ hay phi văn hóa dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam thể chế hóa tư tưởng và
quan điểm của Đảng vào trong Nhà nước, xây dựng một nhà nước pháp quyền với thể
chế và cách thức hoạt động vì dân - đó là nền chính trị biểu hiện văn hóa dân chủ cao.
Nhưng tầm quan trọng và độ lớn của phương diện đó làm cho nhiều khi chúng
ta không quan tâm hoặc ít quan tâm tới phương thức thực hiện quyền lực chính trị từ
tầm vi mô - tức nhìn từ phía dưới.
Nếu như mục đích của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta
xây dựng là đem lại tự do - hạnh phúc cho nhân dân, và mọi quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân (Hồ Chí Minh), thì một trong những biểu hiện văn hóa dân chủ cao là
phương thức hoạt động tự do, độc lập, tự chủ của các chủ thể chính trị - người dân.
Đây cũng là một bản chất và tiêu chí phấn đấu của một xã hội công dân - xã hội hiện
đại.
Dân chủ của một xã hội văn minh - văn hóa dân chủ thể hiện thực chất ở sự
thống nhất hai mặt: quyền tự chủ, độc lập, tự do của cộng đồng với tư cách là quyền
lực của nhân dân, của dân tộc và quyền lực của cá nhân với tư cách chủ thể chính trị,
quyền tự chủ và tự do của các cá thể xã hội - công dân xã hội. Dân chủ như vậy là kết
hợp hài hòa cái nhìn từ trên xuống và nhìn từ dưới lên, dân chủ cả từ chiều rộng lẫn
chiều sâu. Đây là hai mặt của một vấn đề, chúng ta có quan hệ biện chứng, tác động
nhân quả, khắc phục sự tương khắc, tạo ra sự tương đồng, thống nhất để đi tới phát
triển.
Nền chính trị dân chủ Việt Nam được kế thừa những giá trị chính trị, văn hóa
chính trị dân chủ tiến bộ của chính trị Việt Nam. Dù có những lúc phương thức chính
trị, dân chủ đó không được thực hiện, nhưng xu hướng chính trị, dân chủ Việt Nam là
theo hướng đó. Nó thực sự là bản chất nhân lõi sức sống và sức mạnh phát triển của
nền chính trị nói riêng, văn hóa chính trị Việt Nam nói chung. Cho đến nay, văn hóa
chính trị đạt tới chất lượng nhất định, nó ngăn cản những biểu hiện phản văn hóa dân
chủ do cuộc sống hiện tại gây ra. Mặt khác cũng phải thấy, tinh thần xã hội cộng đồng
nhà - làng - nước Việt Nam cũng hạn chế tinh thần dân chủ nói chung, văn hóa dân
chủ nói riêng của con người Việt Nam. Tính cộng đồng như chỗ dựa cho sự tồn tại một
xã hội bình ổn. Tư tưởng và tinh thần tự do của cá nhân yếu cũng hạn chế nhiều tinh
thần và năng lực tự chủ, độc lập, tự do của nhân dân ta trong yêu cầu xây dựng một
nền chính trị dân chủ với tư cách văn hóa chính trị cao.
Phương thức hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân lao động làm chủ là phương thức khoa học và đúng đắn hiện nay ở nước ta. Đây
là phương thức và cơ chế phát huy tính độc lập, tự chủ và tự do sáng tạo của toàn dân.
Nó thể hiện văn hóa dân chủ thực sự của nền chính trị, nền dân chủ văn hóa... Vấn đề
là làm thế nào để thực hiện được phương thức và cơ chế đó trong hiện thực?
Điều này phụ thuộc vào thể chế hoạt động phải được Đảng, Nhà nước hóa và
phải được pháp luật bảo đảm và bảo vệ việc thực hiện đúng và nghiêm chỉnh. Đảng chỉ
thực sự lãnh đạo xã hội, nhà nước, bằng đường lối, chủ trương, sách lược xây dựng và
phát triển đất nước, dân tộc. Nhà nước phải thực sự trở thành nơi đại diện cho nhân
dân, đủ sức quản lý mọi quá trình kinh tế - xã hội - văn hóa của đất nước. Nhà nước
phải thực sự độc lập trong quản lý, điều hành công việc đúng chức năng. Nhân dân
làm chủ làm sao thực sự là người làm chủ. Pháp luật cần cụ thể hóa quyền lực thực tế
của từng loại người dân trong xã hội.Nhân dân là người thực sự làm chủ sự nghiệp, sứ
mệnh của đất nước. Đảng lãnh đạo là lãnh đạo các cơ quan nhà nước, lãnh đạo nhân
dân thực hiện mục tiêu quốc gia. Còn " Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm
của nhân dân; chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn hể từ
Trung ương đến xã do dân tổ chức nên" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.5, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.698). Và dân phải là người tham gia hoặc ủy quyền cho tổ
chức kiểm tra, giám sát các hoạt động của nhà nước. Từ chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước phải được nhân dân nắm vững và triển khai thực hiện. Tài chính công
phải do nhân dân nắm quyền kiểm soát, công khai, chính xác, hiệu quả. Tổ chức, cơ
quan nhà nước... sử dụng ngân sách nhà nước mà không hiệu quả, thiếu hụt thì dân
quyết việc xử phạt, đền bù. Mọi sai phạm của cơ quan nhà nước phải được nhân dân
xử lý thông qua cơ quan dân lập nên là các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã
hội. Nhân dân các cấp, nhất là cấp cơ sở, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, dưới sự
điều hành của các cấp nhà nước địa phương, thực hiện cuộc sống dân sinh, mưu cầu hạnh
phúc.
Làm được như vậy thì chế độ ta thực sự là văn hóa dân chủ, và đó là sức mạnh
thúc đẩy mọi quá trình kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội, thúc đẩy xã hội tiến lên.
4. Văn hóa dân chủ với tư cách là năng lực ứng xử với sự phát triển xã hội
Văn hóa trong ứng xử với tư cách một phạm trù chung nhất, biểu hiện trong
toàn bộ văn hóa cầm quyền. Chủ thể chính trị của một chính đảng với tư cách cơ quan
cao nhất - sử dụng quyền lực với một thái độ và hành vi ra sao. Nếu chủ thể chính trị
độc quyền, sử dụng quyền lực chính trị cho mục đích cá nhân, đó là ứng xử chính trị
phi văn hóa, vô văn hóa. Cầm quyền có văn hóa là sử dụng quyền lực của chính đảng
để phục vụ nhân dân, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, xây dựng một xã hội có văn
hóa cao.
Sự lãnh đạo dân chủ, văn hóa lãnh đạo là làm sao cho quan hệ người - người,
cấp trên - cấp trên, cán bộ - nhân dân... có một môi trường hoạt động lành mạnh, trong
sáng, đẹp đẽ. Đó không chỉ là nhằm đem lại kết quả chính trị, mà bản thân nó cũng là
mục tiêu chính trị, động lực chính trị.
Gắn liền với văn hóa lãnh đạo và văn hóa quản lý là văn hóa tổ chức. Tổ chức
là yếu tố và là khâu rất quyết định cả mọi thành công. Lênin nói rằng: "Hãy cho tôi
một tổ chức tôi sẽ đảo lộn nước Nga lên" là vì thế. Tổ chức là khoa học cấu trúc các
thành tố rời rạc, lộn xộn lại thành một chỉnh thể hữu cơ có khả năng vận động linh
hoạt và hiệu quả nhất. Tổ chức xã hội, tổ chức chính trị lại càng đòi hỏi độ tinh xảo, tế
nhị, uyển chuyển của nó. Bởi đây là những con người, nhất là những con người có
trình độ, nhiều cá tính, ước mơ, khát vọng.Nếu tổ chức nhằm mục tiêu tốt đẹp thì tổ
chức là sức mạnh của cách mạng - của sự phát triển. Tổ chức chính trị, chính trị - xã
hội có sức tồn tại lâu bền, có sức mạnh lớn phải bảo đảm dân chủ cao. ở đây phải có
các nguyên tắc kết dính, nguyên tắc vận hành. Trong tổ chức đảng phải thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ; trong tổ chức xã hội phải dân chủ, công khai, tự chủ, bảo
đảm công bằng trong quyền lợi và lợi ích.
Cơ cấu tổ chức phải khoa học; cấu tạo người lãnh đạo, người chỉ huy phải
được tập thể bầu; sự lựa chọn phải trên cơ sở đòi hỏi khách quan của tổ chức. Người
lãnh đạo, quản lý phải đủ phẩm chất và năng lực thực hiện mục tiêu của đảng, của nhà
nước, đoàn thể. Sự tùy tiện, áp đặt theo ý muốn, ý đồ chủ quan, vì mục đích cá nhân...
là vi phạm dân chủ - đó là hành vi phi dân chủ, không có văn hóa dân chủ, giảm hiệu
quả chính trị.
Từ Trung ương đến địa phương, việc đưa người vào tổ chức Trung ương Đảng,
Quốc hội, Chính phủ cũng như các cấp các ngành - tức là việc xây dựng các tổ chức
chính trị, xã hội phải theo mục đích của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân, vì nước
và vì nhân dân. Do đó việc chọn người vào các tổ chức Đảng, Nhà nước phải là chọn
người hiền tài, theo yêu cầu công việc. Tránh tình trạng phe cánh, đấu đá nhau vì mục
tiêu cá nhân. Phe thắng thì kéo hết người thuộc cánh mình vào. Đó không phải là chọn
lựa người hiền tài vì việc nước, việc dân, phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, mà là thực
hiện mục đích cá nhân không lành mạnh. Nó làm yếu đảng, yếu nhà nước, quốc gia,
làm lụi bại xã hội, tha hóa con người. Đây là sự vi phạm dân chủ, thiếu văn hóa dân
chủ; và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, bế tắc, lụi bại kinh tế, xã hội của đất
nước.
Thực tế tổ chức phi văn hóa dân chủ là nguyên nhân hình thành và phát triển
những tệ nạn xã hội cả trong đảng và trong bộ máy nhà nước, mà một trong những tệ
nạn đó trước hết phải kể đến quan liêu và tham nhũng. Quan liêu và tham nhũng liên
quan, gắn bó chặt chẽ với nhau như một khái niệm gạch nối. Chúng khác nhau về tính
chất và nội dung, nhưng đều xuất phát từ một nguyên nhân là chủ nghĩa cá nhân - cái
tôi và sự vun vén cho cái tôi như là mục đích.
Quan liêu biểu hiện sự ứng xử phi dân chủ, do đó phí văn hóa dân chủ, và khi
trầm trọng sẽ là phản dân chủ, phản văn hóa dân chủ. Quan liêu theo nguyên nghĩa là
công việc bàn giấy. Nhưng khi ta nói bệnh quan liêu có nghĩa là sự xa rời, tách khỏi dân.
Ngày nay, quan liêu biến tướng, nó trở thành bệnh đứng trên dân, ra lệnh và có quyền ban
phát cho dân. Khi được đảng và nhà nước giao quyền thì người lãnh đạo nắm quyền trong
tay, sử dụng cả những quyền mà mình không có, lợi dụng quyền để hoạch họe, đe nẹt,
hãm hại người khác và cả nhân dân. Vậy là, từ là công bộc của dân, kẻ quan liêu trở thành
kẻ hại dân, hại nước, ăn trên ngồi trốc, hưởng trước dân, đùn việc khó cho dân. Trước cấp
trên thì hắn khúm núm, sợ sệt, lừa dối; với dân thì ra oai hoạnh họe; đó là thói cửa quyền,
hách dịch, gây khó dễ cho dân. Tồi tệ hơn, hắn dùng quyền lực gây quan hệ làm ăn, móc
nối với kẻ cơ hội, quan liêu khác để cầu lợi vinh thân. Từ đó mà hắn tham ô hối lộ, tham
nhũng của dân, của nước. Đây là những con mọt đục ruỗng xã hội; khi khó khăn, thất thế
nó dễ chuyển hóa thành kẻ phản bội đảng, phản bội nhân dân. Đây cũng là căn bệnh nẩy
sinh từ sự vi phạm dân chủ, góp vào sự trì trệ, kìm hãm sự phát triển xã hội không chỉ
trong chính trị, xã hội mà cả văn hóa, con người.
Nền văn hóa dân chủ có được hay không, điều đó phụ thuộc quyết định vào
Đảng cầm quyền. Đảng Cộng sản thực sự là Đảng mang bản chất dân chủ, phấn đấu
cho dân chủ. Vấn đề là Đảng chân chính - Đảng đúng nghĩa của nó. Đến lượt mình, để
Đảng Cộng sản vững mạnh thì một trong những trọng trách của Đảng là xây dựng văn
hóa cầm quyền, trong đó có văn hóa lãnh đạo, văn hóa quản lý, văn hóa tổ chức.
III. Một số giải pháp nâng cao văn hóa dân chủ với phát triển xã hội
trong thời gian tới
Phát huy năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước trên mọi mặt đời
sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học. Đó thực sự là điều kiện bảo đảm và
phát huy dân chủ của nhân dân. Sự quản lý của nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội một cách khoa học chính là làm hạn chế kẽ hở và sai lầm dẫn đến tiêu cực.
Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, bản thân nó đã có nghĩa là quyền
dân chủ của các thành phần xã hội được phát huy.
Nâng cao vai trò của hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị cũng như toàn bộ hoạt động xã hội. Trước hết phải đổi mới hoạt động của các
tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội phải có vị trí, vai trò, chức
năng độc lập và cụ thể trong hệ thống chính trị, có quyền hạn và tiếng nói quan trọng
đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Mỗi thành viên, tổ chức trở thành người
chủ xã hội. Vai trò, quyền hạn của các tổ chức này phải được Hiến pháp, luật pháp quy
định và có quy chế thực hiện trong thực tế. Mỗi tổ chức chính trị - xã hội từ chức năng
của mình cần bao quát, đảm đương một lĩnh vực hay một mặt của đời sống chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì như vậy, tiếng nói và sự thực hiện dân chủ sẽ toàn diện,
đồng thời sâu sát thực tế, dân chủ sẽ được thực hiện và phát huy mạnh mẽ.
Hoàn thiện và thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, pháp chế để bảo đảm cho tự do
dân chủ trong toàn xã hội. Pháp luật, pháp chế là công cụ để nhân dân thực hiện dân
chủ. Pháp luật quy định cụ thể công dân được làm và không được làm gì. Pháp chế tạo
điều kiện cho công dân có thể thực hiện tối đa quyền công dân. Pháp luật và pháp chế
phải bảo đảm sinh mệnh chính trị cho nhân dân thực hiện dân chủ. Phải xử phạt phân
minh và giải quyết kịp thời những sự việc có vấn đề diễn ra trong đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội; bảo vệ những người trung thực, dũng cảm đấu trnah với
những hiện tượng phản dân chủ. Sự phê phán, đấu tranh với cái phản dân chủ phải
được pháp luật bảo vệ và khuyến khích. Xử phạt nghiêm minh những hành vi đối xử
không công bằng, mờ ám, chụp mũ đối với những người vì lẽ phải và lợi ích chung mà
đấu tranh.
- Xem thêm -