Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chuyên ngành kinh tế Vấn đề cắt giảm chi tiêu công của chính phủ việt nam trong tình hình hiện nay...

Tài liệu Vấn đề cắt giảm chi tiêu công của chính phủ việt nam trong tình hình hiện nay

.DOC
23
125
78

Mô tả:

Vấn đề cắt giảm chi tiêu công của chính phủ Việt Nam trong tình hình hiện nay? Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách Nhà nước là một trong 6 nhóm giải pháp đã được nêu trong Nghị quyết 11 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Từ sau khi nghị quyết nói trên được ban hành, cắt giảm đầu tư công như thế nào cho thực sự hiệu quả là vấn đề được tranh luận Chúng ta không thể áp đặt buộc giảm cái này hay cái kia, mà các bộ ngành, địa phương tùy thuộc vào từng yêu cầu cụ thể để chủ động rà soát”. Đó là nhấn mạnh của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc trong cuộc trao đổi với chúng tôi, xung quanh việc tiết giảm chi tiêu công để kiềm chế lạm phát. Nhằm kiềm chế lạm phát, Chính phủ đặt vấn đề phải tiết giảm chi tiêu công. Chi tiêu công bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư. Chính phủ chủ trương trong tình hình hiện nay, chúng ta phải giảm chi tiêu công, trong đó có chi dùng thường xuyên. Chi thường xuyên gồm: chi hành chính sự nghiệp, chi tiếp khách, chi mừng sự kiện này kia... Nhưng đối với đầu tư khu vực công thì Chính phủ chưa đặt vấn đề giảm chi, nhất là khu vực ngân sách Nhà nước. Tổng mức đầu tư ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội thông qua thì phải giữ tổng mức đó. Tuy nhiên, hiện nay giá cả đang leo thang, trong khi khối lượng vốn không thay đổi và tất yếu, không thể nào hoàn thành khối lượng công việc như ban đầu đã định ra. Trước tình hình này, các bộ ngành, địa phương phải chủ động rà soát danh mục dự án để cắt giảm hoặc tạm dừng đầu tư. Theo đó, những công trình chưa cấp thiết thì dừng lại chưa triển khai, những công trình đang triển khai dở dang, hiệu quả cao thì ưu tiên dồn vốn để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành. Vậy còn đầu tư từ các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng nguồn vốn tín dụng Nhà nước thì tiết giảm như thế nào? Trong thời gian qua, tổng dư nợ tín dụng cho đầu tư tăng trưởng quá lớn. Thông thường, tiền lệ tăng trưởng dư nợ nói trên chỉ nằm trong khoảng từ 26 - 30% nhưng năm 2007, đã tăng ở mức 53,88%! Trong quý 1/2008, Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp giảm tổng dư nợ tín dụng nhưng vẫn tăng 10,8%, trong khi bình thường như quý 2/2007 chỉ tăng 5,04%. Vì thế, Chính phủ yêu cầu khu vực đầu tư công có liên quan đến nguồn vốn Nhà nước, phải rà soát và xem lại, nhất là đối với đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty 90 – 91. Theo đó, những đầu tư nào có hiệu quả và cần thiết cho nền kinh tế thì tiếp tục. Chẳng hạn đầu tư dự án điện, sản xuất than, xi măng... thì không thể cắt giảm, còn đầu tư bất động sản phải xem xét vì thời gian qua, vốn giải ngân vào khu vực này cũng nhiều. Hay như, đầu tư vào một số khu công nghiệp Nhà nước, dự án sản xuất boxit hay dự án bảo tàng... trong tương lai thì cần nhưng trước mắt đã cần chưa? Vì thế, các bộ ngành, địa phương phải ngồi lại với nhau để rà soát từng dự án. Tiêu chí để rà soát, “xem lại” và tiết giảm chi tiêu công, trong đó có đầu tư công là gì, thưa ông? Tiêu chí ở đây là: chúng ta không thể áp đặt buộc giảm cái này hay cái kia mà các bộ ngành, địa phương tùy thuộc vào từng yêu cầu cụ thể để chủ động rà soát. Ví dụ: ở miền núi thì không thể cắt giảm đầu tư đường sá, trường trạm, bệnh viện... hay chương trình 135, xóa đói giảm nghèo mà phải đảm bảo đủ nguồn vốn để họ làm. Hoặc đối với những tỉnh đồng bằng sông Hồng thì vấn đề thủy lợi là quan trọng và không thể cắt giảm được. Với tinh thần đó, Chính phủ muốn tạo ra sự chủ động từ các địa phương là chính. Bây giờ ngân sách đã phân cấp rồi, hội đồng nhân dân các cấp phải chủ động, Chính phủ bảo đảm không giảm tổng số vốn đã duyệt nhưng vì giá cả tăng nên khối lượng công trình phải giảm. Cònviệc giảm như thế nào thì địa phương phải chủ động. Thưa Bộ trưởng, sẽ khó tránh khỏi tình trạng các bộ ngành, địa phương đều cho rằng các dự án do mình chủ quản là “ưu tiên số 1” và không thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng. Xử lý vấn đề này như thế nào? Không được. Phải thấy là vốn đầu tư tín dụng đã giao cho ngân hàng rồi. Ngân hàng sẽ tính toán hiệu quả cụ thể từng dự án để cho vay. Chính phủ đã yêu cầu ngân hàng không được tăng tổng mức dư nợ cho vay đầu tư của nền kinh tế thì các ngân hàng phải tự xem xét. Do đó, đối với những dự án thu hồi vốn kém, đương nhiên họ sẽ tự động không giải ngân. Mặt khác, không ai có thể khẳng định một cách chủ quan rằng, dự án của tôi là cần thiết và phải ưu tiên trước hết. Vai trò của bộ quản lý ngành trong vấn đề này rất quan trọng. Khá nhiều doanh nghiệp Nhà nước dồn tới 37% nguồn vốn của mình để đầu tư vào tài chính, ngân hàng, bất động sản. Điều này có thực sự nguy hiểm khi nền kinh tế đang lạm phát và hệ thống tài chính tiền tệ đang “có vấn đề”? Bộ Kế hoạch và Đầu tư chưa đưa ra con số này nhưng theo tôi, đầu tư ngoài rất nguy hiểm. Nếu lợi nhuận trước mắt cao, các tập đoàn và tổng công ty sẽ bỏ nhiệm vụ chính của họ. Phải thấy rằng, khi Chính phủ cho phép thành lập các tập đoàn, tổng công ty này là để kinh doanh các ngành hàng mà Chính phủ đã hoạch định từ trước. Nếu tỷ trọng đầu tư ngoài lớn sẽ xảy ra hai hiện tượng: một là, bỏ rơi và không đảm đương được nhiệm vụ trọng tâm mà Nhà nước đã giao cho. Hai là, đầu tư chéo nhau và đầu tư chéo trong hệ thống ngân hàng. Kinh nghiệm tại một số nước trong khu vực khi xảy ra khủng hoảng kinh tế 1997 - 1998 cho thấy, nếu nền kinh tế xảy ra khủng hoàng, sẽ rất khó kiểm soát đổ vỡ tài chính từ các tập đoàn này. Tại phiên họp ngày 24/6 của Ủy ban Kinh tế, báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, việc rà soát, sắp xếp đầu tư công để tập trung vốn cho các công trình quan trọng, cấp bách, hiệu quả được thực hiện đồng bộ trên phạm vi cả nước. Và, 80.550 tỷ đồng là con số đã được các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước công bố cắt giảm, tính đến cuối tháng 5/2011. Báo cáo cũng cho biết, số tiền này bằng khoảng 9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm nay. Đáng chú ý, các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước đã cắt giảm 39.212 tỷ đồng tại 907 dự án, số vốn tín dụng kế hoạch năm 2011 giảm 10% là 3.000 tỷ đồng. Phần hạn chế, tồn tại của bản báo cáo không nhắc đến nội dung cắt giảm đầu tư công. tiêu chí cắt giảm và mối quan hệ là hai trở ngại rất lớn cho vấn đề này. Thứ nhất, đối với tiêu chí cắt giảm, phân tích lợi ích - chi phí là công cụ cơ bản nhất để đưa ra quyết định. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp ở chỗ là hầu như không ai có thể lượng hóa được chính xác các lợi ích và chi phí nên rất khó để có thể tính ra được một con số thuyết phục về lợi ích ròng của dự án. Điều này dẫn đến những lập luận vì mục tiêu an sinh, an ninh quốc phòng, ổn định xã hội trở nên phổ biến. Lúc này, quyền nằm trong tay người ra quyết định và những áp lực liên quan. Thứ hai, cắt của người thân hay cắt của người sơ, người có tiếng nói hay không có tiếng nói là điều không hề đơn giản. Về sự việc này, ông mượn câu chuyện về việc cắt giảm chi tiêu trong một gia đình để phân tích vấn đề. Việt Nam nên áp dụng hai tiêu chí là giới hạn chi tiêu và cắt đều ở bối cảnh trước mắt. Đối với việc giới hạn chi tiêu công, Nhà nước nên đưa ra đưa ra mục tiêu trong 5 năm tới, tổng chi tiêu công (cả đầu tư và chi tiêu thường xuyên) chỉ là 30% GDP thay vì từ 35-40% GDP như hiện nay. Với giới hạn này thì tất cả các bên sẽ ngồi lại với nhau để chia cái bánh đã được giới hạn. Đối với việc cắt giảm trước mắt, cắt đều có lẽ là biện pháp có thể khả thi vì trong trường hợp này tất cả các khoản chi tiêu đều được cắt một tỷ lệ như nhau. Thoạt nhìn thì có vẻ phi lý và phản khoa học, nhưng do không có tiêu chí không rõ ràng, nên nếu áp dụng các tiêu chí có thể sẽ dẫn đến tình trạng khoản cần thiết nhất (sữa của con) bị cắt như phân tích ở trên. Thôi thì cứ cắt đều. Sau một thời gian, nếu thấy những chỗ nào bất hợp lý thì có những biện pháp bổ sung thêm trong giới hạn cứng của chi tiêu 30% nêu trên. Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư nhà nước Về lâu dài, TS. Nguyễn Đình Cung, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế TƯ (Bộ KH-ĐT), cho rằng, đồng thời với việc rà soát, cắt giảm đầu tư như hiện nay đang làm trong khuôn khổ thực hiện Nghị quyết số 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội thì cần phải nghiên cứu và đổi mới cơ chế quản lý đầu tư nhà nước. Cơ chế quản lý mới, theo ông Cung, ít nhất phải đáp ứng được một số nội dung: Một là, ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế đối với đầu tư nhà nước để mức độ hiệu quả kinh tế đối với từng dự án phải đo lường được một cách cụ thể trong đề xuất, thẩm định, quyết định, kiểm tra, giám sát và đánh giá đầu tư. Trên cơ sở đó, các dự án đầu tư có hiệu quả cao nhất sẽ được lựa chọn, từ đó đầu tư sẽ được phân bổ và sử dụng một cách tập trung hơn; kiểm tra và giám sát đầu tư cũng sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn. Hai là, thay đổi cơ chế phân cấp quản lý đầu tư. Các địa phương, các bộ vẫn có quyền chủ động xây dựng và đề xuất dự án đầu tư nhưng lựa chọn dự án đầu tư cần được thực hiện theo nguyên tắc đấu thầu công khai theo cơ chế thị trường. Qua đó sẽ lựa chọn được các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong phân cấp, cần tính đến phát triển cơ cấu kinh tế vùng trong thẩm định lựa chọn và quyết định đầu tư để các dự án đầu tư trong cùng một vùng không cạnh tranh nhau, loại trừ lẫn nhau mà phải phối hợp và bổ sung lẫn nhau. Ba là, tăng cường thẩm quyền và năng lực của cơ quan chuyên trách quản lý đầu tư nhà nước. Bốn là, thiết lập hệ thống thông tin toàn quốc về đầu tư nhà nước, trên cơ sở đó thực hiện công khai hóa thông tin về toàn bộ đầu tư nhà nước nói chung và từng dự án đầu tư nhà nước nói riêng. Về việc này, theo tôi các thông tin sau đây cần phải được công khai hóa: - Thông tin về dự án đầu tư như: tên dự án; mục tiêu dự án; quy mô; ngành nghề; tổng vốn, tiến độ phân bổ vốn và tiến độ thực hiện, thời hạn bắt đầu và kết thúc... - Đơn vị hoặc cá nhân đề xuất dự án, đơn vị và cá nhân xây dựng dự án, những cơ quan và cá nhân tham gia thẩm định dự án, những lập luận ủng hộ và phản biện về dự án, báo cáo đánh giá tác động kinh tế - xã hội của dự án. - Chủ đầu tư thực hiện dự án, những lý do hay tiêu chuẩn lựa chọn chủ đầu tư. - Danh sách ứng viên nhà thầu và đơn vị được chọn thực hiện dự án, những tiêu chí đã được sử dụng để chọn nhà thầu thực hiện dự án. - Tiến độ thực hiện dự án, những khó khăn mới phát sinh, chênh lệch (nếu có) giữa tiến độ thực hiện và kế hoạch, nguyên nhân, cá nhân và cơ quan chịu trách nhiệm về nhưng sai sót hay chênh lệch so với kế hoạch. Việc rà soát, cắt giảm, bố trí cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước không phải là việc giản đơn và chỉ thực hiện trong năm nay, mà là một công việc thường xuyên và lâu dài trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ chế mới về quản lý đầu tư nhà nước không chỉ áp dụng cho việc lựa chọn và quyết định đầu tư đối với những dự án đầu tư mới mà còn áp dụng để rà soát, cắt giảm và cơ cấu lại danh mục các dự án đầu tư hiện có. Cau 1: Đánh giá hoạt đông chi tiêu của Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đào tạo? ô Cơ chế thị trường mở, nhưng cỗ xe giáo dục Việt Nam trong tình trạng ì ạch triền miên. Mỗi một năm, nước ta có hàng trăm cuộc hội thảo, hội nghị về giáo dục từ vi mô đến vĩ mô. Trong đó, “cộm lên” và cũng chưa ngã ngũ là vấn đề có nên chăng xem “giáo dục là dịch vụ” và “tri thức là hàng hoá”? Cứ hễ nhắc đến sự xuống cấp của giáo dục, những cán bộ cấp cao trong ngành vẫn đổ thừa cho “kinh tế thị trường”, cho “thương mại hoá”, cho tính thực dụng, thậm chí cho sự can thiệp của công nghệ thông tin… và gán cho những cụm từ ấy nhiều tiêu cực mà quên rằng, vấn đề là ở chỗ con người ứng xử và vận dụng chúng như thế nào. Qua rồi cái thời người đi học được thụ hưởng một nền giáo dục miễn phí. Năm 2004, Nhà nước chỉ đầu tư 17,2 % trên 150 tỉ ngân sách/ năm cho việc phát triển giáo dục (trong khi đó, tỷ lệ này ở Thái Lan là: 21,2 %, Hàn Quốc : 28,2 %, Nhật: 18,7 %, Cuba: 30,1 % ). Tuy nhiên những năm qua, Nhà nước đã không ngừng tăng ngân sách cho lĩnh vực GD&ĐT với giá trị tăng tuyệt đối trong 3 năm liên tiếp gần đây (2006-2008) đều trên dưới 10.000 tỷ. Với quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” mấy năm nay Chi phí cho giáo dục ở Việt Nam vượt xa các nước phát triển cao! Có thể thấy, chi phí cho giáo dục ở Việt Nam rất lớn. Tỷ lệ chi phí cho giáo dục trên GDP là 8,3% vượt xa các nước phát triển cao thuộc khối OECD kể cả Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn Quốc. Điều này thể hiê ên trong chính sách của Nhà nước Viê êt Nam, giáo dục và đào tạo luôn được ưu tiên phát triển hàng đầu. Vì vâ êy, cơ sở vâ êt chất, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị được đầu tư phục vụ cho giáo dục - đào tạo tại Viê t Nam luôn đáp ứng được nhu cầu của học sinh, sinh viên …. ê Có người cho rằng cần phải so sánh dựa trên chi phí tính bằng tiền đô la Mỹ, và như thế chi phí cho một học sinh ở Việt Nam rất thấp. Nhưng điều này không hợp lý vì các nước có trình độ phát triển khác nhau. Chỉ có so sánh dựa vào khả năng chi phí của nền kinh tế mới có giá trị phân tích: đó chính là tỷ lệ chi phí trên GDP. Bên cạnh mă êt tích cực đó, ta cũng thấy có những bất câ êp còn tồn tại: Chi tiêu cho giáo dục ở VN chiếm 8,3% GDP, vượt cả Mỹ chỉ có 7,2%. Trong tổng số chi phí cho giáo dục, hiện nay người dân ở Việt Nam phải chi trả 40% cho giáo dục, trong khi ở các nước phát triển cao: trung bình dân chúng chỉ phải chi trả 20% cho giáo dục, phần còn lại là từ ngân sách nhà nước. Như vâ êy: ta thấy 1 bất câ êp là tuy Viê êt Nam có nền kinh tế kém phát triển, thu nhâ êp đầu người thấp nhưng tỉ lê ê đóng góp cho giáo dục mà dân chúng phải chi trả lại chiếm 1 khoản tương đối lớn, tỉ lê ê đóng góp này cao gấp đôi so với những nước phát triển. Hệ thống giáo dục ở Việt Nam tổ chức khá phức tạp, dẫn đến sự rối rắm trong việc nắm vững chi phí của nền kinh tế cho giáo dục. Vì vâ êy, khi nhâ ên được Ngân sách mà Nhà nước cấp cho, Bô ê GD – ĐT phải có chính sách chi tiêu sao cho hợp lý và công khai các khoản chi phí hiê ên tại đã sử dụng. Để có thống kê toàn diện, ngoài thống kê do Bộ GD-ĐT thu thập, Tổng cục Thống kê cũng phải điều tra thu thập những phần mà Bộ không thể cung cấp. Cau 2 hiệu quả chi tiêu công để xóa đói giảm nghèo như thế nào ? .1 Các công cụ để XĐGN : Ta thấy việc trợ cấp cho người nghèo không có khả năng tự đảm bảo cuộc sống của mình là một hành động rất thiết thực, sẽ nâng cao mức sống của người dân nghèo trong cùng một cộng đồng. Nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách an sinh xã hội nói chung và đối với hộ nghèo, vùng khó khăn nói riêng. Về mặt kinh tế : Chính sách tín dụng ưu đãi ; chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho các hộ dân tộc thiểu số nghèo ; các dự án nông, lâm, khuyến ngư phát triển các nghành nghề ; các dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng đặc biệt khó khăn Cung cấp hàng hóa công: Chính sách trợ giúp y tế ; chính sách hỗ trợ giáo dục ; chính sách về nước sạch và nhà ở ; chính sách hỗ trợ pháp lí. .2 Tính hiệu quả của chương trình : Nhà nước ta sử dụng các hình thức trên để hỗ trợ cho người nghèo. Vậy hiệu quả của chương trình được đánh giá thông qua hiệu quả của các hình thức trên như thế nào. Nếu như thông qua các hình thức trên người nghèo có được hưởng những lợi ích đó hay không, và đã cải thiện được đời sống của người dân như thế nào thì đó chính là hiệu quả của chương trình Thông qua các tiêu chí như : - Chương trình mang lại phúc lợi gì, tỉ lệ thoát nghèo - Đối tượng được nhận - Chi phí bỏ ra là thấp nhất . Quản lý chi tiêu công ở VN : Nhiều bất cập  Cần gỡ thủ tục cho chi tiêu công Hiện nay việc quản lý chi tiêu công ở VN đang bộc lộ những tồn tại yếu kém, tính minh bạch chưa cao, chưa chuyên nghiệp và còn khá hình thức. Chính vì vậy mà đổi mới quản trị chi tiêu công nhằm đáp ứng các yêu cầu của quản trị công hiện đại được coi là việc không thể trì hoãn thêm nữa. Quản trị chi tiêu công theo cách “truyền thống” - đây là nhận định của TS Trịnh Tiến Dũng - Trợ lý GĐ quốc gia kiêm Trưởng ban Quản trị quốc gia Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc tại VN khi đánh giá về thực trạng quản trị chi tiêu công ở VN hiện nay. TS Dũng cho rằng cách quản trị này rất chính tắc nhưng ít năng động và khá hình thức. Cách làm này đang trở nên ít phù hợp trong bối cảnh VN ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới với cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ đầy đủ của một thành viên; do đó, cần phải đổi mới. Thiếu dấu ấn “người chủ” Cũng theo TS Dũng thì thời gian qua, quản trị chi tiêu công ở VN cũng đã bộc lộ những tồn tại yếu kém rất cơ bản, xét theo tiêu chí quản trị khu vực công hiện đại, phổ biến trên thế giới như tính công khai minh bạch chưa cao, trách nhiệm giải trình còn hạn chế, hiệu quả kinh tế - xã hội chưa đạt như mong muốn và đặc biệt chưa có sự tham gia đáng kể của người chủ đích thực của đồng tiền ngân sách là nhân dân. “Bức tranh ngân sách còn phiến diện. Hiện các khoản thu chi ngân sách nhà nước chưa được phản ánh toàn diện và đầy đủ trong ngân sách nhà nước, làm cho bức tranh ngân sách bị méo mó, phiến diện. Theo một số nghiên cứu, thì có tới 30 quỹ và định chế tài chính các loại chưa được đưa vào cân đối trong ngân sách nhà nước” - TS Dũng nói. Cùng quan điểm trên với TS Dũng - PGS TS Trần Đình Thiên - quyền Viện trưởng Viện Kinh tế VN lại nhận định: Cách phân bổ vốn đầu tư ngân sách thời gian qua còn theo kiểu bao cấp - chia đều, vẫn mang khá nặng dấu ấn của cơ chế xin cho. Việc chi tiêu ngân sách chưa thực sự gắn chặt với trách nhiệm đến cùng; chỉ chịu sự ràng buộc của những hình thức chế tài có hiệu lực không cao, kèm theo đó là năng lực bộ máy còn yếu. Ông Đào Xuân Tuế - Phó Vụ trưởng Vụ Ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính cũng thừa nhận hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước chưa cao cả trong chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Theo ông Tuế, nguyên nhân do công tác xã hội hóa, đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập triển khai vẫn còn chậm, kết quả hạn chế dẫn tới gánh nặng chi ngân sách nhà nước và tình trạng chi tiêu kém hiệu quả, lãng phí chưa được khắc phục...TS Võ Trí Thành - Trưởng ban Hội nhập kinh tế quốc tế, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cảnh báo rằng trong điều kiện khủng hoảng như hiện nay, việc cứu nền kinh tế khẩn trương, quyết liệt cũng có thể làm sao nhãng bài toán hạn chế lãng phí, thất thoát trong chi tiêu công. Người ta dễ tạm thời bỏ qua những sai sót trong quá trình thực thi và tham nhũng, đi kèm thất thoát có thể có thêm đất nảy nở. Theo TS Thành, phạm vi đối tượng tác động và nguồn quỹ của gói kích thích kinh tế thường khá rộng. Chẳng hạn như gói kích thích kinh tế dự tính 143.000 tỷ đồng VN. Chính vì vậy, trong ngắn hạn nó lại khó được giám sát đầy đủ. Chính những điều này, nếu thiếu kiểm soát, có thể làm gia tăng căng thẳng xã hội trong điều kiện nhóm người nghèo, người dễ bị tổn thương đang phải hứng chịu những tác động bất lợi nhất từ cuộc khủng hoảng kinh tế. Cần điều chỉnh Luật ngân sách nhà nước PGS TS Trần Đình Thiên cho rằng, để có thể giải quyết được những tồn tại trên, thì việc sửa Luật ngân sách nhà nước không chỉ là cần thiết mà có thể nói là đặc biệt cấp bách bởi hai lý do: Thứ nhất là với việc gia nhập WTO, nền kinh tế đã chuyển sang giai đoạn mới về chất, một trình độ phát triển mới. Các thể chế kinh tế hiện hành bao gồm cả những thành tố cơ bản nhất như Luật ngân sách nhà nước không đáp ứng được yêu cầu mới. Thứ hai là thực tiễn những năm qua cho thấy có nhiều bất cập trong hoạt động chi tiêu ngân sách nhà nước nhằm mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Tình trạng tăng trưởng nóng, đầu tư cao nhưng kém hiệu quả, dẫn tới lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô vài năm gần đây đi liền với xu hướng gia tăng đầu tư dàn trải, trầm trọng hơn tình trạng lãng phí, thất thoát, tham nhũng... chứng tỏ hiệu quả thấp của hoạt động thu chi ngân sách và nhiều vấn đề gay gắt đang tồn tại trong lĩnh vực này. Thực tế cũng chứng tỏ căn bệnh nói trên đang khá nghiêm trọng và có nguồn gốc cơ chế kinh tế, nằm trong chính sự không phù hợp của Luật ngân sách nhà nước với các điều kiện, yêu cầu của nền kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới và hội nhập quốc tế thành công. Những vâvs đề nổi cô êm trông chi tiêu công đă c biê êt là chi tiêu cho bô ê máy nhà nước. ê Đại biểu Hồ Xuân Phương (Nghệ An) nhấn mạnh đến ý khác, chúng ta hiện đang chi cho bộ máy hành chính quá nhiều. Năm 2006 tốc độ tăng thu lớn hơn tốc độ tăng chi tức là 6,2% thu so với tăng chi 7,2%. Tốc độ tăng chi thường xuyên, chưa kể tăng chi, mới cũng cao hơn tốc độ chi cho đầu tư phát triển, tức là 5,4%, trong khi đó chi đầu tư phát triển chỉ có 5,1%, nghĩa là bội chi mà QH phê chuẩn 5% GDP không được dùng để chi nhiều hơn cho phát triển mà dùng nhiều hơn để chi cho bộ máy của hệ thống chính trị. Đồng tình với nhận xét này, đại biểu Đồng Hữu Mạo (Thừa Thiên - Huế) cho rằng, đánh giá về chi tiêu ngân sách chưa thực sự rõ ràng khi thời gian, định mức chi ngân sách cho các cơ quan, nhất là khối hành chính sự nghiệp, khối Đảng, các đoàn thể chưa thật sát. Dự ước về chi năm 2006 cho thấy, chi cho quản lý hành chính ước đạt 107,7% so với dự toán. Trong khi đó, chi đầu tư phát triển dự ước thực hiện 105,1% so với dự toán. Nếu xét đơn thuần thì thấy sự bất hợp lý vì chúng ta dành ưu tiên cho tốc độ tăng so với dự toán của khối hành chính lớn quá. Còn xét thực chất về định mức chi mà ngay từ đầu, xác định trong dự toán chưa thật sát, có phần nào rất thấp, vì vậy nó không bảo đảm cho hoạt động của khối hành chính. Cho nên trong quá trình thực hiện là phải tăng, vì vậy đánh giá rất là khó. Vừa qua, Chính phủ đã cho phép các đơn vị hành chính sự nghiệp được tự chủ về tài chính. Theo ông Mạo, việc khoán chi này rất hay, nhưng qua nhiên cứu ông thấy nếu như định mức chi tiêu hành chính như thế này thì chủ trương của Chính phủ sẽ không thực hiện được, tức là mức chi cho bộ máy nay vẫn sẽ lớn. "Cần xây dựng lại chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, trên cơ sở đã xác định được biên chế, vì trong Nghị định của Chính phủ thì khoán luôn cả biên chế hành chính. Nếu như cơ quan, đơn vị nào đó cứ giảm được biên chế thì cái phần dôi ra về tiền lương, các khoản theo lương của đơn vị đó đơn vị được hưởng. Ở đây, cần xác định chức năng, nhiệm vụ của bộ máy rõ ràng, trên cơ sở đó khoán kinh phí và thứ hai là phải xác định một mức chi tiêu cho hợp lý để trên sở đó mà khoán. Nếu được như vậy thì rõ ràng sẽ thúc đẩy cho việc thực hành tiết kiệm và chống lãng phí cũng như chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính sự nghiệp", ông Mạo đề xuất. Dự toán chưa sát thực tế Theo báo cáo của Chính phủ, ước thu ngân sách Nhà nước năm 2006 đạt 258.600 tỷ đồng, tăng 8,7% so với dự toán năm và tăng 19,1% so với thực hiện của năm 2005. Với kinh nghiệm nhiều năm đánh giá và theo dõi tình hình ngân sách, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Ngân sách và Kinh tế Tào Hữu Phùng cho rằng, thực tế sau khi đánh giá trình QH tại kỳ họp này và số đánh giá vào cuối năm bao giờ nó cũng chênh lệch, mà con số này lên tới 20.000 tỷ đồng.Do vậy, ông đề nghị Chính phủ cần đánh giá sát hơn, tránh tình trạng là ước thì thấp. Theo ông Phùng, thu ngân sáhc năm nay có thể cao hơn 3.000-4.000 tỷ đồng nữa. Ngoài ra, chúng ta đang thất thu một nguồn lớn từ nợ đọng thuế, gần 10.000 tỷ đồng, trong đó có khoảng 2.000 tỷ đồng vẫn có thể thu hồi được. Hay thu từ khu vực DN ngoài quốc doanh tuy tăng 4,6% nhưng vẫn còn tiềm năng, bởi đa số DN mới được thành lập đi vào hoạt động và có nhiều khởi sắc. Chính vì vậy, dự toán năm 2007 nhìn chung rất tích cực. Song, ông kiến nghị QH nên tính vào dự toán thu dầu thô tích cực hơn với sản lượng 18 triệu tấn và giá nên tính 65 USD/thùng. Số tăng thêm này khoảng 6.000 tỷ QH không phân bổ cho bất kỳ một nhiệm vụ chi nào mà đưa hết vào dự phòng, khi nào thu được thì QH phân bổ sau. Thu nội địa cũng có thể tăng 2.000 tỷ đồng nếu kiên quyết thu nợ đọng thuế và từ hải quan. Số tăng thu này đề nghị Chính phủ bổ sung cho quốc phòng, an ninh. Trong khi đó, QH sẽ tiến tới chấm dứt bù lỗ tràn lan, như bù lỗ xăng, dầu như năm ngoái, lỗ đến 11.000 tỷ không đưa vào dự toán, năm nay lỗ 8.700 tỷ. Việc miễn, giảm thuế cho các DN cổ phần hoá cũng sẽ kết thúc. Bởi theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại Nguễyn Ngọc Trân, ước tính thuế thu từ DN không dưới 2.000 tỷ đồng. CPH nếu miễn, giảm thuế cho những DN làm ăn lỗ còn có thể hiểu được, nhưng những công ty có lợi đến hơn 90 tỷ, lợi nhuận trước thuế đó mà miễn thuế nữa như vậy thì đây là thất thu rất lớn cho ngân sách. Một vấn đề khác cũng được một số đại biểu đề cập, đó là nguồn thu từ sổ xố kiến thiết. Theo Nghị quyết Đại hội Đảng X, nguồn thu này sẽ được sử dụng để đầu tư các công trình phúc lợi về giáo dục, y tế, bỏ việc coi đây là nguồn thu thường xuyên ổn định của NSNN. Song, đại biểu Đặng Văn Xướng (Long An) góp ý, đến khi dự toán phân bổ ngân sách TW và địa phương năm 2007 lại ngầm xem đó như là một nguồn thu ăn chắc, dù trên thực tế thu xổ số kiến thiết ngày càng khó khăn, nhất là năm 2006 nhiều địa phương không đạt chỉ tiêu. Các địa phương có thu từ xổ số kiến thiết sắp tới sẽ hụt một khoảng ngân sách rất lớn. Những vấn đề của phí và lê ê phí. Làm sao giảm lạm thu phí, lệ phí? Chuyện phí và lệ phí đang nổi lên như một vấn đề thời sự được nhiều người quan tâm, khi vào hạ tuần tháng 9, Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội cho rằng đã có tình trạng vi phạm trong việc thu phí và lệ phí, mà hậu quả là các khoản thu này đang đè nặng trên vai người dân. Trước đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã có văn bản báo cáo Chính phủ về việc người nông dân hiện đang phải chịu đến 122 khoản thu có tính cách như thuế. Theo kết quả giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ phí, thì việc huy động đóng góp sức dân đang nảy sinh nhiều vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân. Mức huy động đóng góp tự nguyện của người dân đã được thực hiện tùy tiện tại các địa phương, gây ra những bất hợp lý giữa các vùng có cùng điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Kết quả khảo sát tại 46 tỉnh, thành phố, ở 135 xã, 117 hợp tác xã nông nghiệp của Cục Hợp tác xã và phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho thấy đóng góp của các hộ nông dân ở mức cao và có sự chênh lệch lớn giữa các vùng với mức từ 250.000 đồng - 800.000 đồng, cá biệt có địa phương yêu cầu đóng tới 2 triệu đồng/hộ/năm. Điều nghịch lý là những vùng kinh tế khó khăn, thu nhập thấp thì mức đóng góp có xu hướng cao hơn các vùng thuận lợi. Nhiều địa phương đã hành chính hóa các khoản đóng góp có tính chất tự nguyện thông qua việc giao chỉ tiêu huy động, không phân biệt hoặc không giải thích cụ thể những khoản đóng góp nào có tính chất bắt buộc và khoản đóng góp tự nguyện. Thậm chí có địa phương, việc xác nhận những thủ tục hành chính liên quan đến lợi ích của người dân - vốn là dịch vụ công - cũng phải đóng lệ Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đề nhị xóa bỏ 18 khoản thu Đó là các khoản: Đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, cấp mới hộ khẩu thường trú, đăng ký hộ khẩu thườn trú, đăng ký khai tử, cấp giấy chứng minh nhân dân, cấp lại bản chính giấy khai sinh, cắt chuyển hộ khẩu, nhận hộ khẩu, cấp đổi sổ hộ khẩu vì thay đổi địa giới hành chính, chứng thực hồ sơ đi học & đi làm, xác nh hộ tịch, đăng ký tạm trú & tạm vắng. Đồng thời đề nghị xóa bỏ một số khoản thu khác như quỹ an ninh qu phòng, quỹ phòng chống lụt bão, quỹ kinh tế mới, xây dựng cơ sở hạ tầng điện hạ thế, thủy lợi phí (một ph Tổng các khoản đóng góp đề nghị xóa bỏ này ước 1.200 tỉ đồng/năm, trong đó, phí và lệ phí: 20 tỉ đồng; quỹ ninh quốc phòng: 200 tỉ đồng; quỹ phòng chống lụt bão: 300 tỉ đồng; thủy lợi phí: 650 tỉ đồng… (Nguồn: Báo cáo về các khoản đóng góp của nông dân và một số chính sách giảm bớt các khoản đóng góp của nông dân, do Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn gửi Chính phủ). phí. Ở các đô thị, tình trạng lạm thu phí và lệ phí đang diễn ra thường xuyên và rất đáng lo ngại. Chẳng hạn ở các trường học, theo quy định của Luật Giáo dục ban hành năm 2005 thì ngoài học phí và lệ phí tuyển sinh, người đi học và gia đình họ không phải đóng thêm khoản tiền nào khác. Nhưng trên thực tế, dư luận nhiều năm nay vẫn than phiền về vô số các khoản đóng góp của cha mẹ học sinh, từ xây dựng cơ sở hạ tầng, quỹ phát triển giáo dục, tiền điện, tiền nước, tiền mua và sửa chữa máy vi tính cho nhà trường… Điều gì đã khiến tình trạng này hàng chục năm qua chưa được điều chỉnh? Do ngân sách thiếu hụt, do sự tùy tiện của các địa phương hay sự cố tình lạm dụng những chủ trương đúng đắn của Nhà nước nhằm mang lại lợi ích cục bộ, thậm chí lợi ích cá nhân? Và tại sao trong 340 loại phí và lệ phí mà Chính phủ chỉ đạo các địa phương phải bãi bỏ thì một số nơi vẫn chưa thực hiện? Theo đánh giá của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội, Chính phủ vẫn chưa bao quát hết những khoản phát sinh từ phí và lệ phí không còn phù hợp với cơ chế thị trường. Bà Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội nhận xét: “Do ngân sách hạn hẹp, Nhà nước không thể hoàn toàn lo nổi tất cả các vấn đề, vì vậy người dân phải tham gia đóng góp cùng với Nhà nước. Tuy nhiên, người dân tham gia mức độ nào, Nhà nước tham gia mức độ nào, thì phải công khai, minh bạch. Trong thực tế điều này còn nhập nhằng. Hàng năm kinh phí dành cho giáo dục vẫn tăng, song hiệu quả ra sao, người dân đóng góp như thế nào thì chưa làm rõ. Trong hoạch định các chính sách sắp tới, cần thiết phải làm rõ phần nào của Nhà nước lo, phần nào của người dân tham gia. Chính sách cũng phải phân chia theo các vùng, miền khác nhau. Làm rõ những vấn đề đó thì người dân mới thấy được sự đóng góp của mình cùng với Nhà nước là hữu ích”. Để giảm bớt gánh nặng cho người dân, mới đây Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội đã yêu cầu Chính phủ xem xét bãi bỏ một số loại phí, lệ phí liên quan đến mọi công dân thuộc các lĩnh vực dịch vụ công mà các cơ quan hành chính có trách nhiệm cung cấp, như cắt chuyển, xác nhận, cấp đổi, đăng ký hộ khẩu; đăng ký tạm trú, tạm vắng; đăng ký khai tử; chứng thực hồ sơ đi học… Ủy ban còn đề nghị Chính phủ nghiên cứu quy định chính sách xã hội thông qua hình thức bảo hiểm y tế để người nghèo có điều kiện được chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Đồng thời sớm chỉ đạo phương án đổi mới chính sách học phí đối với các cơ sở đào tạo công lập, tư thục và từng bước tính toán đầy đủ các khoản thu hợp lý vào học phí, để chấm dứt tình trạng lạm thu trong học đường. Hiện nay có nhiều khoản thu phí và lệ phí mà các địa phương, các ngành đặt ra nhưng không kiểm soát nổi, cũng rất cần được bãi bỏ. Chính điều này khiến cho yêu cầu minh bạch các khoản thu phí và lệ phí càng trở nên cần thiết, bởi cũng như trong việc đóng thuế, người dân cần biết đồng tiền đóng góp của mình có mang lại hiệu quả gì không? Có thể dẫn chứng trường hợp cụ thể diễn ra trong năm 2006, sau khi Chính phủ ban hành các quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí qua đó nhiều khoản thu phí được bãi bỏ, vậy mà tổng thu về phí tăng, nguyên nhân là do sự phân công rạch ròi cho các địa phương thu phí và nhiều công trình hạ tầng đã phát huy hiệu quả nhờ sự đóng góp của người dân. Để hạn chế việc thu phí và lệ phí tùy tiện, các địa phương cũng nên khuyến khích người dân phát huy tinh thần dân chủ. Điều 15 Pháp lệnh về phí và lệ phí ghi rõ: Tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí phải cấp chứng từ thu. Trường hợp không được cấp chứng từ, hay cấp chứng từ không đúng qui định của Bộ Tài chính thì người dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong bất cứ lĩnh vực nào, sự minh bạch đều hạn chế được tiêu cực, với phí và lệ phí thì sự minh bạch cũng giúp làm nhẹ bớt gánh nặng đóng góp hiện nay của người dân. Nhưng điều chỉnh của nhà nước về phí và lê ê phí để hỗ trợ nhân dân. Việc huy động đóng góp sức dân đã nảy sinh nhiều vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân. Việc mỗi hộ dân phải thường xuyên đóng góp khoảng 28 khoản/năm cho xã và hợp tác xã là quá nhiều, gây khó khăn cho người dân, đòi hỏi phải sớm điều chỉnh. Lệ phí đóng góp mỗi năm đang đè nặng vai người nông dân nghèo. Tại phiên họp chiều 20/9, Ủy ban Thường vụ (UBTV) Quốc hội nghe báo cáo và thảo luận kết quả giám sát việc chấp hành pháp luật về thực hiện một số biện pháp xử lý hành chính; kết quả giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ phí. Theo kết quả giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ phí, chính sách huy động sức dân thông qua các khoản đóng góp tự nguyện dưới hình thức "Nhà nước và nhân dân cùng làm" đã đáp ứng được yêu cầu thiết yếu về sản suất, đời sống của nhân dân, góp phần giảm đáng kể ngân sách nhà nước đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện tích lũy của nền kinh tế còn thấp. Tuy nhiên việc huy động đóng góp sức dân đã nảy sinh nhiều vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân. Việc mỗi hộ dân phải thường xuyên đóng góp khoảng 28 khoản/năm cho xã và hợp tác xã chiếm từ 2,5 - 5,2% mức thu nhập bình quân một hộ là quá nhiều, gây khó khăn cho người dân, đòi hỏi phải sớm điều chỉnh. Mức huy động đóng góp tự nguyện của người dân còn được thực hiện tùy tiện tại các địa phương, gây ra những bất hợp lý giữa các vùng có cùng điều kiện phát triển kinh tế-xã hội. Kết quả khảo sát tại 46 tỉnh, thành phố, ở 135 xã, 117 hợp tác xã nông nghiệp của Cục Hợp tác xã và phát triển nông thôn ( Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho thấy đóng góp của các hộ nông dân ở mức cao và có sự chênh lệch lớn giữa các vùng với mức từ 250.000 đồng - 800.000 đồng, cá biệt có địa phương yêu cầu đóng tới 2 triệu đồng/hộ/năm. Điều nghịch lý là những vùng kinh tế khó khăn, thu nhập thấp thì mức đóng góp có xu hướng cao hơn các vùng thuận lợi. Nhiều địa phương đã hành chính hóa cách khoản đóng góp có tính chất tự nguyện thông qua việc giao chỉ tiêu huy động, không phân biệt hoặc giải thích cụ thể những khoản đóng góp nào có tính chất bắt buộc và khoản đóng góp tự nguyện. Thậm chí có địa phương gắn việc thực hiện các khoản đóng góp tự nguyện với việc chính quyền xác nhận những thủ tục hành chính liên quan đến lợi ích của người dân, gây tâm lý bức xúc trong nhân dân. Đặc biệt, việc sử dụng các khoản đóng góp của dân ở một số nơi còn tùy tiện, không có quy chế, thiếu dân chủ, nên không phát huy được vai trò giám sát của người dân, cộng đồng hưởng lợi ích công trình. Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội cho rằng do chế tài xử lý vi phạm pháp luật về phí, lệ phí cho đến nay chưa được ban hành hướng dẫn thực hiện, gây nên tình trạng thiếu quy định pháp lý đủ mạnh có tính răn đe đối với các bộ, ngành, chính quyền các cấp, các tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành nghiêm quy định của pháp luật về phí, lệ phí. Cần tiếp tục đổi mới công tác quản lý phí, lệ phí nhằm đảm bảo sự đồng bộ, nhất quán trong hệ thống pháp luật về phí, lệ phí; làm rõ quan hệ giữa phí, lệ phí và giá dịch vụ. Cần tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động thu phí, lệ phí bằng cách rà soát lại các khoản đóng góp của nhân dân để loại bỏ những khoản thu bất hợp lý, đồng thời xác định lại những khoản thu cần thiết phải huy động sự đóng góp của nhân dân để thực hiện phương châm " Nhà nước và nhân dân cùng làm" nhằm tăng cường nội lực cho xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là ở vùng nông thôn. Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khẩn trương ban hành những văn bản hướng dẫn đối với một số khoản phí, lệ phí trong danh mục có khả năng thu nhưng chưa thực hiện thu; tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành quy định về chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng đảm bảo các khoản thu phí, lệ phí được sử đúng mục tiêu, đúng chế độ, tiêu chuẩn... Theo đại biểu Trần Thế Vượng, báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ phí đã chỉ ra được những mặt được, chưa được trong hoạt động thu phí, lệ phí. Để ngăn chặn tình trạng mỗi nơi, mỗi ngành đặt ra các khoản thu, mức thu khác nhau, không kiểm soát nổi như hiện nay, cần làm tốt công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động thu phí, lệ phí. Đại biểu Đào Trọng Thi cho rằng, cần thay đổi quan điểm về dịch vụ công có chất lượng cao đối với nhu cầu sử dụng của người dân. Khi người dân yêu cầu được sử dụng dịch vụ công có chất lượng cao thì cần có cơ chế cho phù hợp với bối cảnh hiện nay... TTXVN Bắc Ninh tuy là địa phương có diện tích nhỏ (nhỏ nhất cả nước) nhưng quy mô dân số đông với hơn 1 triệu dân, lại có vị trí địa lý cận kề thủ đô Hà Nội, tiếp giáp với nhiều đầu mối kinh tế quan trọng. Hơn 10 năm qua, Bắc Ninh luôn là tỉnh giữ nhịp độ tăng trưởng kinh tế- xã hội ở tốp đầu các tỉnh đồng bằng Bắc bộ. Thực tiễn qua hoạt động phân bổ ngân sách chi thường xuyên tại tỉnh Bắc Ninh đặt ra một số vấn đề cơ bản sau: 1. Hàng năm, cơ quan chuyên môn giúp việc UBND tỉnh (Sở Tài chính) cần rà soát, phân tích xác định định mức chi hợp lý, mỗi khoản chi thường xuyên lệ thuộc để từ đó tham mưu cho UBND tỉnh phân định rõ: định mức và khối lượng. Định mức có nhiều loại: Định mức cơ sở, định mức ngành, định mức địa phương, định mức quốc gia. Định mức là cơ sở để quản lý, (trước khi xác định mức chi thường xuyên phải rà soát để “căn chỉnh” định mức đã có), loại bỏ những hạng mục chi không cần thiết từ đó thiết lập hệ thống định mức mới. Trong nhiều năm qua tỉnh Bắc Ninh đã xác lập được hàng ngàn định mức chi cho các cấp, các nội dung cụ thể và đã điều chỉnh được 40% định mức, xây dựng mới 30% lượng định mức đủ để làm căn cứ quản lý và xây dựng kế hoạch ngân sách. 2. Xây dựng dự toán chi thường xuyên sát thực tế và đúng quy định. Khi cân đối ngân sách, chi thường xuyên lệ thuộc định mức phân bổ từ Trung ương, nhưng mỗi cơ sở thụ hưởng thường viện dẫn căn cứ tính dự toán là định mức chi; nếu lấy định mức phân bổ thì không đáp ứng hết nhu cầu thực tế, nếu lấy định mức chi thì dễ phá vỡ cơ cấu. Để làm tốt việc xây dựng dự toán chi thường xuyên, tỉnh Bắc Ninh đồng thời giải quyết các vấn đề: - Tinh gọn bộ máy, phân định rạch ròi chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị, mỗi cấp. Việc hợp nhất, tách chia, lồng ghép nhiệm vụ để có bộ máy tinh gọn giúp cho cơ quan xây dựng dự toán cân đối ngân sách phù hợp bảo đảm đủ nguồn để hoạt động. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ xác định chuẩn xác đối tượng hưởng chi ngân sách.. - Giải quyết hài hoà định mức chi trong tổng định mức phân bổ được giao yêu cầu phải đạt được là định mức chi có căn cứ thuyết phục của từng loại công việc thuộc danh mục tổng nguồn, tổng các cơ cấu được phân định. Chỉ xử lý một số trường hợp đặc biệt khi cơ quan co thẩm quyền cho phép. Với cách làm đó, dự toán chi thường xuyên của các đối tượng thụ hưởng ở Bắc Ninh đã được hài hoà, công khai, công bằng và đảm bảo để các đơn vị hoạt động. 3. Đề cao vai trò xã hội hoá nguồn lực, sử dụng lồng ghép nguồn lực để nâng cao nguồn lực tài chính cho chi thường xuyên. Xã hội hoá cần chỉ rõ loại gì, bao nhiêu, cơ sở pháp lý, tính ổn định, vững chắc. Nếu có những chương trình mục tiêu, chương trình trọng điểm thì lồng ghép để tránh trùng lặp. 4. Quản lý chặt chẽ chi tiêu trong năm kế hoạch nhằm hạn chế tối đa thất thoát, sử dụng sai mục đích ngân sách. HĐND-UBND tỉnh Bắc Ninh yêu cầu mỗi đơn vị thụ hưởng phải quản lý chặt chẽ quá trình thực hiện. Chẳng hạn, khi mua sắm phải tìm nguồn cung cấp, đấu giá, đấu thầu nhằm tiết kiệm nhất, phải tuân thủ quy tắc quản lý, sử dụng tài sản công…Hàng năm tỉnh luôn đặt ra mục tiêu tiết kiệm chi trong khuân khổ quy định, nhờ đó 100% các đơn vị dự toán không bị phá vỡ, không để nợ đọng phải thu, phải trả. 5. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu kết hợp với kiểm tra, thanh tra thường xuyên nhằm chấn chỉnh, phát hiện, xử lý trong khi thực hiện dự toán chi thường xuyên. Tỉnh Bắc Ninh yêu cầu các khối cơ quan quản lý cấp trên, các cơ quan chuyên môn phải có tối thiểu 2 cuộc kiểm tra, thanh tra/năm. Do vậy, những sai sót được phát hiện giúp các đơn vị hoạt động đúng quỹ đạo, tránh những tổn thất không đáng có. 6. Tỉnh Bắc Ninh gắn việc chấp hành dự toán chi thường xuyên, mức độ thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, chính trị trong các cuộc sơ kết, tổng kết, chấm điểm thi đua hàng năm, bình xét các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên theo khối. Việc làm thường xuyên nề nếp này có tác dụng khuyến khích từng đơn vị tự xác định được mức độ thi đua và tạo lập thói quen sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách. Nhiều năm qua, bằng những biện pháp đồng bộ, dự toán ngân sách nhà nước tỉnh Bắc Ninh liên tục hoàn thành xuất sắc, chi thường xuyên được đảm bảo, kết quả tích cực đó đã góp phần xây dựng nền tài chính lành mạnh, thúc đẩy toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh tiến bộ vững chắc, tạo được dấu ấn: Tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm qua là 13,8%/năm, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt, từng bước phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. Chi tiêu của chính phủ cần phải minh bạch Tags: Klaus Roland, chi tiêu của chính phủ, ngân hàng thế giới, giám đốc ngân hàng, được đưa vào, chi tiêu công, ngân sách, đầu tư, minh bạch, đánh giá, hiệu quả, cần phải, VN, tăng, quan Trao đổi với TS , ông Klaus Roland - Giám đốc Ngân hàng thế giới tại VN - nhận xét, nhiều cơ quan của Chính phủ VN chưa thực sự biết được khoản chi nào được đưa vào ngân sách và khoản nào không được đưa vào. Do vậy, khó đánh giá được hiệu quả sau đầu tư. - Thưa ông, tại sao cần minh bạch trong chi tiêu của Chính phủ? - Qua bản báo cáo chi tiêu công của Chính phủ vừa công bố, chúng ta thấy được những chỉ tiêu của VN là tương đối khả quan, và không phải tất cả những khoản chi tiêu đều được đưa vào trong ngân sách. Khi công khai tài chính, sẽ thấy được mô hình chi tiêu hiện tại để phân tích những điểm mạnh và điểm yếu. Cần đưa khuôn khổ tài chính trung hạn vào trong báo cáo chi tiêu công trong 5 năm tới, và tìm ra vấn đề nào là quan trọng để đưa vào kế hoạch chi tiêu công. - Vậy theo ông, ngành nào cần tăng chi hoặc giảm chi trong thời gian tới? - Khi nói đến chi tiêu công, chúng ta không thể đưa ra quyết định vội vàng, không nên nhìn vào tổng thể mà phải nhìn vào từng ngành, từng lĩnh vực. Chúng tôi đã cung cấp nhiều con số, sự kiện để các bạn cân nhắc tập trung đầu tư vào lĩnh vực nào và giảm chi ở lĩnh vực nào. Tuy nhiên, tôi thấy việc chi tiêu thường xuyên để duy trì và bảo dưỡng các công trình hiện còn hạn chế, cần tăng cường trong thời gian tới. Khoản chi tiêu này rất quan trọng, đặc biệt trong giao thông vận tải và thuỷ lợi. Còn ngành giáo dục thì cần cân nhắc giảm chi tiêu thường xuyên và tăng chi tiêu đầu tư. - Đầu tư mới nhiều công trình cũng đồng nghĩa tiềm ẩn rủi ro, liệu VN nên hạn chế rủi ro bằng cách nào, thưa ông? - Cho đến giờ, tôi đánh giá những dự án đầu tư vào VN có ảnh hưởng tích cực đến kinh tế xã hội. Tuy nhiên, do một số tác động nên kết quả không được như ý muốn. Vậy, các dự án cần cân nhắc và lựa chọn khá kỹ lưỡng để mang lại hiệu quả tốt, không chỉ là phát triển kinh tế mà còn cho xoá đói giảm nghèo. Các bạn có thể thấy kinh nghiệm của các nước khác để giảm thiểu lãng phí khi đầu tư là ngày càng tăng cường chất lượng đầu tư. Để giải quyết điều đó, cần đánh giá cẩn thận dự án đầu tư. Theo tôi, một trong những tiêu chí là cân nhắc dự án đó có đem lại lợi ích cho người dân VN hay không. - Dư luận cho rằng, một số nhà tài trợ đầu tư theo chiều hướng có lợi cho họ hơn là hiệu quả xã hội cho VN, ông nghĩ sao? - Tất nhiên, các nhà đầu tư cũng phải nhìn thấy lợi ích của bản thân họ, song vấn đề đặt ra ở đây là hài hoà lợi ích của nhà tài trợ và của VN. Đánh giá chi tiêu công của VN năm 2004: Xu hướng tài khoá và bền vững tài khoá: VN đã thận trọng trong chính sách tài khoá, với mức thâm hụt tương đối nhỏ. Tổng nợ (cả nợ nước ngoài và nợ trong nước) khá thấp và tỷ lệ chi tiêu công so với GDP bền vững. Cơ cấu chi tiêu công: Tốc độ tăng chi bình quân hàng năm tăng trên 16%, cao hơn tốc độ tăng trưởng nhờ thu ngân sách có nhiều tiến bộ. Chi đầu tư phát triển tư nhân tăng nhanh. Phân bổ ngân sách đã thành công trong hỗ trợ người nghèo (giảm số hộ nghèo từ 58% năm 1993 xuống còn 26%). 10 khuyến nghị chính theo kết quả chi tiêu công: - Xây dựng khuôn khổ tài khoá - Động viên ngân sách và xu thế ngân sách - Quản lý rủi ro - Xây dựng quan hệ hợp lý giữa chi đầu tư và chi thường xuyên - Giám sát công khai tài chính và quản lý quỹ tài chính cấp huyện và xã - Nâng cao hệ thống tính toán bổ sung cân đối ngân sách hiện tại - Củng cố cơ chế huy động vốn cho chính quyền địa phương - Giao quyền tự chủ tài chính và xã hội hoá - Cung cấp vốn ODA theo hình thức hỗ trợ ngân sách - Chương trình thực hiện chi tiêu công. Chi tiêu cho giáo dục: Những con số "giật mình"! Tags: Việt Nam, Bộ GD, Hàn Quốc, tổng cục thống kê, các nước phát triển, ngân sách nhà nước, giáo dục, chi phí, tỷ lệ, chi tiêu, dựa vào, thu nhập, tính, cao, trường - Từ New York (Mỹ) chuyên viên thống kê cao cấp của Liên Hợp Quốc Vũ Quang Việt gửi tới TS những phân tích thú vị về chi tiêu cho giáo dục Việt Nam rút ra qua những số liệu tính và phương pháp tính toán của bản thân. TS xin giới thiệu những kết luận cũng như phương pháp của tác giả, đồng thời, mong nhận được ý kiến bạn đọc về vấn đề này. Chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam trong khoảng thời gian năm 2000-2005 rất lớn so với mức thu nhập của người dân và thu nhập của cả nước. Một vài con số sau đây thể hiện điều đó: Chi tiêu cho giáo dục ở VN năm 2005 chiếm 8,3% GDP, vượt cả Mỹ chỉ có 7,2%. Trong chi tiêu trên, dân các nước phát triển cao chi trả 20%, Số HS tiểu học đang giảm, từ còn ở Việt Nam dân chi trả tới 40%. Phần còn lại là nhà 9,7 triệu (năm 2000) xuống nước chi trả. 7,8 triệu (năm 2004) trong khi dân số vẫn tăng (Ảnh: Nguyên Vũ) Tuy nhiên, do việc quản lý tổ chức giáo dục bất hợp lý, trường phải thu thêm, trò phải học thêm nên so với lương chính thức năm 2004 của giáo viên tính bình quân chỉ có 14 triệu đồng, thu nhập thật gồm lương chính thức và phụ thu bình quân một giáo viên có thể đạt ít nhất là 31 triệu đồng, tức là hơn gấp đôi lương chính thức. Tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục cao như thế, nhưng môt điều đáng lo lắng mà ít người để ý là số học sinh tiểu học, cơ sở của bất cứ một nền giáo dục nào, hình như đang bỏ học hoặc không đi học. Theo số liệu của Bộ GD-ĐT, số HS tiểu học đang giảm, từ 9,7 triệu (năm 2000) xuống 7,8 triệu (năm 2004) trong khi dân số vẫn tăng. Tình hình này khó hiểu. Phải chăng dân nghèo không đủ sức gửi con đến trường hay là do một lý do nào khác? Bộ GD ĐT cần có một câu trả lời về vấn đề này. Những kết luận trên dựa vào số liệu chính thức của Bộ GD - ĐT, của Tổng cục Thống kê và số liệu tính theo phương pháp gián tiếp của tác giả. Những kết quả đáng lưu ý * Chi phí cho giáo dục ở Việt Nam vượt xa các nước phát triển cao! Có thể thấy, chi phí cho giáo dục ở Việt Nam rất lớn (bảng 1). Tỷ lệ chi phí cho giáo dục trên GDP là 8,3% vượt xa các nước phát triển cao thuộc khối OECD kể cả Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn Quốc(bảng 1 và 2). Có người cho rằng cần phải so sánh dựa trên chi phí tính bằng tiền đô la Mỹ, và như thế chi phí cho một HS ở Việt Nam rất thấp. Nhưng điều này không hợp lý vì các nước có trình độ phát triển khác nhau. Chỉ có so sánh dựa vào khả năng chi phí của nền kinh tế mới có giá trị phân tích: đó chính là tỷ lệ chi phí trên GDP. Kết quả này cũng cho ta so sánh mức trách nhiệm chi phí cho giáo dục: từ ngân sách nhà nước và từ đóng góp của nhân dân (bảng 2). Người dân hiện nay ở Việt Nam chi trả 40% chi phí giáo dục, trong khi ở các nước phát triển cao trung bình dân chúng chỉ chi trả 20%, phần còn lại là từ ngân sách nhà nước. Bảng 1.Tỷ lệ chi phí cho giáo dục ở Việt Nam 2000-2005 2000 2002 2003 2004 2005 Tổng chi cho 23,219 giáo dục (tỷ) 25,882 34,088 37,552 54,223 68,968 Tỷ lệ 5.3 chi/GDP (%) 6,4 6.1 7.6 8.3 3,8 3.7 4.6 5.0 Tỷ lệ ngân sách cho giáo 3.2 dục /GDP 2001 5.4 3.2 (Nguồn: Bộ GD-ĐT và Ngân sách nhà nước. Tổng chi và tỷ lệ chi là do tác giả tự tính) Bảng 2. Số liệu so sánh chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam và các nước Việt Mỹ Nam Pháp Nhật Hàn Quốc OCDE Chi tiêu cho giáo dục/GDP (%) 8.3 7.2 6.1 4.7 7.1 6.1 Từ ngân sách 5 5,3 5.7 3.5 4.2 4.9 Từ dân và các nguồn khác 3,3 1,9 0.4 1.2 2.9 1.2 Từ ngân sách 60 74 93 74 59 80 Từ dân và các nguồn khác 40 26 7 26 41 20 Tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục (%) (Nguồn: Số liệu VN là cho năm 2005 do tác giả tính. Số liệu các nước khác là cho năm 2002 từ OECD, Education at a Glance 2005) * Thu nhập của giáo viên: bị rơi vãi! Dựa vào chi phí cho giáo dục ở Việt Nam như trên và dựa vào tỷ lệ 62,3% chi phí thường xuyên cho giáo dục là để trả lương (theo tỷ lệ hiện nay ở Việt Nam), ta có thể thấy là thu nhập của giáo viên, tính một cách bình quân có thể lên tới 31 triệu đồng một năm vào năm 2004, gấp hơn 2 lần lương nhận chính thức. Với ngân sách tăng cho giáo dục vào năm 2005, thu nhập có thể lên tới 38,5 triệu đồng nếu như hệ thống giáo dục được tổ chức và điều hành qui củ và hợp lý. Vấn đề thực tế là giáo viên không nhận được thu nhập như thế, mặc dù thu nhập nhận được cao hơn lương chính thức, vậy thì phần này rơi vãi nơi đâu? Điều này cho thấy việc phân tích thường xuyên chi phí giáo dục là đòi hỏi cấp bách để nâng cao hiệu quả của hệ thống giáo dục. Bảng 3.Thu nhập và lương giáo viên: 2000 Tổng chi thường 21,367 xuyên cho giáo 2001 2002 2003 2004 2005 23,522 31,080 34,352 49,323 62,735
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan