A. MỞ ĐẦU
I. TỔNG QUAN VỀ VĂN HOÁ DU LỊCH.
Văn hoá là một sản phẩm do con người tạo nên, nó không do một cá
nhân mà do cả một cộng đồng, tập thể người. Tương ứng với mỗi một thời
kỳ phát triển của loài người là một nền văn hoá đặc trưng riêng có. Đồng
thời văn hoá cũng đánh giá phần nào sự phát triển của văn minh nhân loại
và ngày nay văn hoá còn là một yếu tố cấu thành thúc đẩy động cơ đi du
lịch. Mỗi một quốc gia và một dân tộc có những nét đặc trưng văn hoá
riềng do vậy để hiểu biết, giao lưu, tìm hiểu và thưởng thức buộc con người
phải có hoạt động đi lu lịch và thông qua du lịch con người cảm thấy gần
gũi thân thiện với nhau hơn.
Ở Việt Nam bắt đầu từ nền văn hoá lúa nước trải dài theo thời gian
thông qua năm tháng đã tích luỹ được một kho tàng văn hoá lớn và nó ngày
càng có sức thu hút sự quan tâm chú ý của mọi người ở các quốc gia khác
nhau. Hơn bất cứ một ngành nào du lịch ngày càng có quan hệ mật thiết với
văn hoá. Văn hoá không chỉ là động lực của sự phát triển mà còn được coi
là điểm tựa, là nền tảng cho sự phát triển bền vững, văn hoá du lịch đang
trở thành xu thế chủ đạo trong chiến lược phát triển của ngành du lịch thế
giới.
Trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ “phát triển du
lịch tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du
lịch văn hoá sinh thái, môi trường xây dựng các chương trình và điểm du
lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và khu danh lam thắng cảnh.
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Với 25 tỉnh thành Bắc Bộ được coi như là cái nôi văn hóa của cả nước
nơi tập trung nhiều giá tị văn hoá gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh
thần có sức thu hút lôi cuốn ngày càng nhiều khách du lịch.
Để phát triển du lịch không một quốc gia nào trên thế giới lại không
coi trọng sự phát triển của du lịch văn hoá bởi vì du lịch văn hoá là một
loại hình du lịch có nhiều ưu điểm không phụ thuộc vào thời tiết có thể
phát triển quanh năm. Nguồn thu từ du lịch văn hoá là nguồn thu ổn định
với mức tăng trưởng ngày càng lớn nó giúp con người hiểu biết sâu sắc về
thế giới xung quanh (những khu vực, những vùng phụ cận trong phạm vi
quốc gia và trên thế giới.) Điều đó rất phù hợp với thời đại ngày nay quan
trọng hơn việ khai thác tiềm năng văn hoá truyền thống trong kinh doanh
du lịch cũng là một cách tốt nhất được tiến hành đồng thời với việc bảo vệ
tôn tạo chúng. Phát triển một cách hiệu qủa các tiềm năng, khuyến khích sự
phát triển của du lịch văn hóa trong giai đoạn mới.
B. NỘI DUNG
I> VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA DU LỊCH TRONG VĂN HOÁ KHU VỰC
HÀ NỘI
1. Những nét khái quát về du lịch văn hoá, di sản văn hoá và di tích
lịch sử văn hoá.
a. Du lịch văn hoá
Xu thế quốc tế hoá trong sinh hoạt văn hóa giữa cộng đồng và các
quốc gia trên thế giới được mở rộng dẫn tới việc giao lưu văn hoá tìm kiếm
những kiến thức về nền văn hoá nhân loại đã trở thành một trong những
nhu cầu của nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội, du lịch không còn là nghỉ
ngơi giải trí đơn thuần mà còn là nghỉ ngơi giải trí tích cực có tác dụng bổ
sung tri thức làm phong phú thêm đời sống tinh thần cuả con người.
Có thể hiểu du lịch văn hóa là một loại du lịch mà mục đích chính là
nâng cao hiểu biết cho cá nhân đáp ứng sự tìm hiểu qua các chuyến du lịch
đến nhưngx vùng đất mới, tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh
tế, chế độ xã hội, cuộc sống và phong tục tập quán của địa phương đất nước
đến du lịch hoặc kết hợp với nhiều mục đích khác nữa.
Du lịch văn hoá vừa là phương tiện, vừa là mục đích của kinh doanh
du lịch, vu lịch văn hoá nhằm chiuyển hoá các giá trị văn hóa, các giá trị
vật chất cũng như tinh thần cho hoạt động du lịch- du lịch văn hoá là
phương thức hấp dẫn vì nó giải quyết những nhu cầu về cảm thụ cảnh
quan của quocó gia và du lịch văn hoá thường dành cho những du khách có
trình độ cao trong xã hội. Du lịch văn hoá được xem như là tổng thể của du
lịch, xem đó là một hiện tượng văn hoá. Những cố gắng thu hút khách ở
các điểm du lịch phải mang tính văn hoá. Những động cơ thu hút đến các
điểm du lịch là để ngỉ ngơi và giải trí.
Người ta có thể chưa du lịch văn hoá ra nhiều loại theo các tiêu thức
khác nhau.
+ Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hoá: khách đi tìm hiểu các nền văn hó
chủ yếu . Mục đích chuyến đi tìm hiểu, nghiên cứu đối tượng khách chủ
yếu là các nhà nghiên cứu khoa học, học sinh, sinh viên đó là những
chương trình du lịch dã ngoại đến các bản làng dân tộc ít người (Như Hoà
Bình, Sơn La, Lai Châu) để khách tìm hiểu phong tục tập quán, lối sống
văn hoá của các dân tộc đó. Khách sẽ đi bộ khi tham quan các bản làng và
thường nghỉ qua đêm ở các bản làng đó.
+ Du lịch tham quan văn hoá: Đây là loại hình du lịch kết hợp giữa
tham quan với nghiên cứu tìm hiểu văn hóa trong một chuyến đi. Đối tượng
tham gia phong phú gồm cả khách đi vừa để tham quan, vừa để nghiên cứu
và những khách chỉ đi để chiêm ngưỡng, để biết và thoả mãn sự tò mò có
thể theo trào lưu. Do vậy, trong một chuyến đi du khách thường đi đến
những điểm du lịch trong đó vừa có những điểm du lịch văn hoá vừa có
nhữgn điều du lịch núi du lịch biển, du lịch dã ngoại, săn bắn... Đối tượng
khách kà những người vừa phưu lưu mạo hiểm thích tìm cảm giác mới và
chủ yếu là những người tuổi trẻ.
+ Du lịch kết hợp giữa tham quan văn hoá với các mục đích khác:
Mục đích chính của khách là đi công tác có kết hợp với tham quan
văn hoá. Đối tượng là những người đi dự hội thảo, hội nghị, kỷ niệm những
ngày lễ lớn, các cuộc triển lãm...
Du lịch văn hoá là loại hình du lịch tiềm năng bởi vì nó ít chịu sự phối
hợp củayêú tố d thời ụ, (thời tiết, khí hậu) nhưng nó phụ thuộc vào đặc
điểm nhân khẩu học như giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp,
tôn giáo của du khách.
+ Yếu tố thời vụ du lịch: So với các loại hình du lịch khác, du lịch văn
hoá mang tính đại chúng tuy có chịu ảnh hưởng tính thời vụ nhưng không
phụ thuộc hoàn toàn, ít chiụ ảnh hưởng bởi yếu tố thời tiết, khí hậu.
+ Yếu tố giới tính: Có tác động đến động cơ đi du lịch và động cơ đi
du lịch văn hoá là một trong những nguyên nhân chủ yếu của nam giới vì
đối vơí họ ít chịu ràng buộc bởi gia đình, thường có trình độ học vấn cao,
có địa vị xã hội.
+ Yếu tố độ tuổi: Tham gia chủ yếu vào các chuyến du lịch văn hoá
chủ yếu vẫn là những khách du lịch cao tuổi và thanh niên. Đối với khách
cao tuổi họ thường có nhiều thời gian rỗi, có kinh nghiệm trong việc đi du
lịch, họ thích tìm hiểu âm nhạc, nghệ thuật quần chúng, các món ăn đậm đà
tính dân tộc và họ quan tâm đến chất lượng phục vụ chủ yếu họ mua các
chương trình du lịch văn hóa. Ngược lại đối với thanh niên đây là nhóm có
số lượng đông đúc, họ ưa thích khám phá tìm tòi, muốn thử sức mình, thích
đi xa, thích tự do, thích thay đổi điểm du lịch và thường đi thành nhóm nhỏ
do đó họ có xu hướng đòi hỏi tính mới mẻ, đa dạng trong dịch vụ du lịch.
Họ có khả năng thanh toán thấp, ít có kinh nghiệm du lịch. Đối với khách
hàng trung niên thường là những người có địa vị xã hội, có khả năng thanh
toán cao, có sự tự chủ lớn trong du lịch tham quan họ thường kết hợp giữa
đi công tác và đi du lịch.
Khách du lịch văn hoá có thể được coi là khách du lịch thuần tuý vì
khách có thể chỉ đi vì động cơ văn hóa. Tuy nhiên số lượng khách du lịch
văn hoá thuần tuý trong thực tế thường rất ít mà khách du lịch thường kết
hợp các loại hình du lịch văn hoá với một loại hình du lịch khác trong một
chuyến hành trình.
+ Di sản văn hoá và di tích lịch sử văn hoá.
Các di sản văn hoá và di tích lịch sử văn hoá được coi là một trong các
nguồn tài nguyên du lịch quan trọng. Đây là nguồn nhân lực để phát triển
và mở rộng hoạt động du lịch văn hoá nói riền và du lịch nói chung.
Các di sản văn hoá và di tích lịch sử văn hoá gắn liền với môi trường
xung quanh. Bảo đảm sự sinh động của quá khứ đã nhào nặn nên chúng và
bảo đảm cho khung cảnh cuộc sống sự đa dạng của xã hội mặt khách đã
chứng minh cho những sáng tạo to lớn về văn hoá, tôn giáo xã hội loài
người, việc bảo vệ, khôi phục và tôn tạo những vết tích hoạt động của loài
người trong các thời kỳ lịch sử, những thành tựu văn hóa nghệ thuật không
chỉ là nhiệm vụ lớn của cả nước mà còn có giá trị rất lớn đối với du lịch.
Di sản văn hoá bao gồm những công trình từ những nền văn hoá trước
đây (Lâu đài, bảo tàng, lăng mộ) và nghệ thuật (tranh hoạ, âm nhạc, điêu
khắc) cũng như những địa danh nổi tiếng trong lịch sử như di tích các thần
thánh, những cung điện. Di tích lịch sử văn hoá là tài sản văn hoá quý giá
của mỗi địa phương, mỗi dân tộc, mỗi đất nước. Nó là bằng chứng trung
thành xác thực cụ thể nhất về đặc điểm văn hoá của mỗi nước. ở đó chứa
đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, những tinh hoá, trí tuệ,
tài năng của con người.
2. Vị trí và vai trò của du lịch văn hoá trong giai đoạn hiện nay.
a. Vị trí của du lịch văn hoá.
Du lịch văn hoá là xu thế chung của trào lưu phát triển du lịch văn hoá
từ xa xưa tuy mức độ khác nhau nhưng luôn là nhu cầu của du khách. Đầu
thời kỳ cận đại thì phương Đông rất hấp dẫn du khách vì ở đây có những
đền đài nguy nga, lăng tẩm nhiều nơi được xét là kỳ quan thế giới. Cuối thế
kỷ 20 đặc biệt là những năm 50 đến nay sự hấp dẫn lại là Châu Âu, Bắc Mỹ
bởi vì ở đó có những ngôi nhà chọc trời, ôtô, rượu Sâm banh, Sữa. Thời kỳ
này du khách rất chuộng vùng biển Địa Trung Hải, Italia, Pháp, Hawai...
Con người có xu hướng xa lánh nhịp sống ồn ào ở các đô thị, sự ô nhiễm
môi trường, sự huỷ diệt ở các vùng do hậu quả của chiến tranh và nạn phá
rừng, việc chặt che trong đầu tư tôn tạo các vùng đô thị cổ, các di tích lịch
sử chính là một trở ngại đối với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái nói
chung, ngành du lịch nói riêng vì vậy mà con người tìm đến du lịch văn
hóa, trở về quá khứ của mình.
Trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ công nghiệp hoáhiện đại hoá hiện nay, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là sợi chỉ đỏ
trong đường lối văn hoá của Đảng ta, bởi vì nói đến Việt Nam vừa được thế
giới công nhận là nước có tình hình an ninh chính trị ổn định nhất, điều đó
sẽ tạo điều kiện tốt nhất để thu hút du khách. Theo báo cáo của Sở du lịch
Hà nội trong 6 tháng đầu năm 2001 có 310729 du khách quốc tế của 155
nước đến Hà nội trong đó 6851 Việt kiều chiếm 25,5% tổng số lượt khách
quốc tế của cả nước nếu so cùng kỳ năm 2000 tăng 55,5% trong đó khách
Trung Quốc vẫn là đông nhất với 97156 lượt khách, chiếm tỷ trọng
32,95%. Sau đó là khách người Pháp 42227 người chiếm tỷ trọng 14,3%.
Khách Nhật 28961 người chiếm tỷ trọng 9,8%, Mỹ chiếm 19619 chiếm tỷ
trọng 6,7%. Ngoài ra ảutalia, Anh, Đài Loan, Đức, Đan Mạch, Canada
4800 đến 14 600 chiếm 1,6-5%.
Với tổng doanh thu đạt 2500 tỷ đồng. Trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay việc giữ
gìn bản sắc dân tộc là sợi chỉ đỏ trong đường lối văn hoá của Đảng ta bởi vì
nói đến văn hozs là nói đến dân tộc miền Bắc đã trởi qua hàng ngàn năm
sinh tử trong gian truân, vất vả nhân dân các dân tộc đã sáng tạo nâng cao,
bảo tồn, chắt chiu để có những công trình kiến trúc đến chùa, miếu mạo,
phong tục tập quán lế hội...
Ta có thể khẳng định rằng du lịch không thể tự mình phát triển được
nếu không dựa vào một nền tảng văn hoá và ngược lại nhờ có du lịch mà
các dân tộc hiểu biết được những thành tựu rực rỡ của nền văn hoá nhân
loại tạo ra sự cần thiết xích lại gần nhau giữa các nền văn hoá làm cho các
dân tộc ngày càng hiểu nhau hơn. Nhưng du lịch không chỉ dừng lại ở
thưởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên, ngắm nhìn các công trình vưn hoá, tìm
hiểu các di tích lịch sử để cảm thụ mà du lịch còn là một hoạt động khám
phá sáng tạo theo quy luật của cái đẹp.
b. Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá.
Khi nói đến văn hoá du lịch không có ý nghĩa rằng du lịch là chỗ dựa
duy nhất của sự phát triển văn hoá, không nhận thức rõ rằng điều này thì vô
tình phát triển chỉ có thể thành công xét về kinh tế, còn sẽ thất bại về việc
giữ gìn bản sắc dân tộc do sự tiếp xúc với du khách từ các miền khác đến
du lịch phát triển văn hoá là ngành kinh tế mũi nhọn đó là một định hướng
đúng của Đảng và Nhà nước văn hoá chính là nền tảng, là động lực thúc
đẩy sự phát triển du lịch và du lịch văn hoá phải tạo ra một môi trường văn
hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc dân tộc, làm sống lạicác giá trị văn
hoá truyền thống, giữ vững sự ổn định chính trị và an ninh xã hội. Xây
dựng độiu ngũ cán bộ, nhân viên làm du lịch tốt... Nhằm tạo ra sức hấp
dẫn với khách thập phương.
Hoạt động du lịch càng hiện đại hoá thì càng phải làm giàu thêm bản
sắc vf truyền thống dân tộc, nhưng văn hoá phải thật sự là yếu tố nhân bản,
là những yếu tố vô hình và hữu hình cái gọi là vô hình đó chính là sự
chuyển hoá các năng lực tinh thần của con người vào hoạt động kinh
doanh, đó chính là văn hoá (tài sản vô hình trong du lịch bao gồm cácyếu tố
chính như thông tin và khoa học kỹ thuật trong điều kiện. Tổ chức bộ máy
là một yếu tố nghệ thuạt và quản lý du lịch, sự tín nhiệm của khách hàng
đối với công ty sản phẩm du lịch, tuyệt nhiên văn hoá không phải là những
gian hàng bán sách, bán văn hoá phẩm và đặc sản của mỗi vùng, mỗi miền.
Văn hoá du lịch bền bỉ tích cóp, gạn lọc muôn ngàn tinh hoà từ muôn nẻo,
không ngừng chuyển tải, giao lưu, biến đổi và nâng cao để góp phần vào sự
giàu có và cường thịnh về nền văn hoá, kinh tế xã hội của dân tộc, của đất
nước. Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá đối với kinh doanh du lịch là
hết sức quan trọng, góp pần thúc đẩy du lịch vươn lên, tạo đà cho du lịch
ngày càng phát triển đem lại hiệu qủa to lớn và ổn định cho nền kinh tế Nó
có hiệu qủa là càng tăng giá trị văn hoá- văn minh bản sắc dân tộc thì hiệu
qủa kinh doanh du lịch này càng cao. Nhận biết được vấn đề đó các nhà
kinh doanh du lịch, các nhà quản lý kinh tế phải không những kiểm tra
ngăn chặn những vặt phi văn hoá bằng hệ thống pháp luật mà vấn đề lâu
dài và quan trọng hơn là xây dựng tạo ra để hấp dẫn từ bản sắc dân tộc,
thuần phong mỹ tục dân tộc được bảo tồn, nâng cấp các di tích lịch sử văn
hoá kiến trúc.
3. Điều kiện để phát triển du lịch văn hoá:
Sự phát triển du lịch văn hoá nói riêng và du lịch nói chung đòi hỏi
phải c ó những điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan cần thiết nhất
định (xem sơ đồ sau)
ĐIỀU KIỆN PHÁT
TRIỂN DU LỊCH VĂN
HOÁ
ĐIỀU KIỆN
CHUNG
ĐIỀU
KIỆN
THỜI
GIAN
ĐIỀU
KIỆN
NGUỒ
N
KHÁC
H
ĐIỀU KIỆN ĐẶC
TRƯNG
ĐIỀU
ĐIỀU
KIỆN
KIỆN
NỀN
CƠ SỞ
KINH
HẠ
TẾ ĐẤT TẦNG
NƯỚC
TÀI
NGUYÊN
DU LỊCH
TỰ
NHIÊN
Các tài
nguyên
có giá
trị lịch
sử
Tài
nguyên
có giá
trị kến
thức
ĐIỀU
KIỆN
TÀI
NGUYÊ
N DU
LỊCH
ĐIỀU
KIỆN
CHÍNH
TRỊ VÀ
AN
TOÀN
CÁC TÀI
NGUYÊN
DU LỊCH
NHÂN
TẠO
Các tài
nguyên
có giá
trị văn
hoá
đIỀU
KIỆN
VỀ TỔ
CHỨC
ĐIỀU
KIỆN
SẴN
SÀNG
ĐÓN
KHÁC
H
ĐIỀU
KIỆN
VỀ MẶT
KỸ
THUẬT
Các tài
nguyên
có giá trị
nghệ
thuật
quần
chúng
ĐIỀU
KIỆN
VỀ
MÔI
TRƯỜ
NG
VĂN
HOÁ
ĐIỀU
KIỆN
VỀ MẶT
KINH
TẾ
Các
thành
tựu sự
kiện
kinh tế
chính trị
xã hội
Kinh doanh du lịch là một loại hình kinh doanh cao cấp không thể
tách rời văn hoá vì xét cho cùng thì du lịch là hoạt động văn hoá. Văn hoá
là nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội đồng thời nó cũng là nhu cầu đặc
trưng của con ngưoừi khi đi du lịch do vậy văn hoá là yếu tố quyết định
tính hấp dẫn của sản phẩm du lịch vì nó giải quyết nhu cầu về nhận thức
thẩm mỹ. Có nghĩa là điểm đến du lịch nên đi phải có cái gì cho người ta
xem và người ta làm. Xét về hai khía cạnh: người đi du lịch và những nhà
kinh doanh du lịch để phát triển du lịch văn hoá thì yếu tố đó là tài nguyên
văn hoá.
- Khách du lịch: Với ước muốn tìm tòi, hiểu biết thêm về những giá trị
văn hoá, tinh thần của một dân tộc, một vùng, một địa phương nào đó và do
vậy họ sẽ đến với du lịch văn hoá, du lịch văn hoá chỉ có thể phát triển ở
một vùng, một địa phương, một đất nước nếu ở đó đã có tài nguyên văn hó
đa dạng phong phú, độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc kết hợp với một số
yếu tố khác tạo nên những địa điểm du lịch văn hóa đầy hấp dẫn thu hts.
Chính những yếu tố đó đã đưa khách du lịch tìm đến những nơi có tài
nguyên văn hoá lôi cuốn và do đó tài nguyên văn hoá là yếu tố quan trọng
nhất đối với lưu lượng đi du lịch văn hoá ngày càng tăng của khách du lịch
- Nhà kinh doanh : mục đích là thu hút được nhiều khách tham quan,
vui chơi giải trí, tìm hiểu về các lĩnh vực văn hoá... để từ đó có được doanh
thu cao, lợi nhuận lớn, muốn đạt được mục đích đó để phục vụ khách du
lịch đến tham quan tìm hiểu thì điều kiện đầu tiên là phải có tài nguyên du
lịch thì mới có thể điều kiện du lịch được . Khi có tài nguyên du lịch thì
khách mớia có ước muốn tham quan và do đó các nhà kinh doanh du lịch
mới có thể thu hút được lợi nhuạn từ đây, ngành du lịch cũng vì thế mà
phát triển hơn.
Để phát triển du lịch văn hoá thì cũng cần phải có tài nguyên văn hío,
đây là yếu tố quyết định, tài nguyên văn hóa với đặc điểm kỳ diệu thú vị,
đa dạng, độc đáo sẽ ngày càng thu hút đông đảo du khách đến tham quan
nhằm thoả mãn trí tò mò cũng như phàan nào đó đáp ứng được lòng mong
muốn hiểu biết sâu rộng về cái hay, cái đẹp của mỗi vùng, mỗi địa phương.
Tài nguyên văn hoá bao gồm những tài nguyên có giá trị về văn hoá phi vật
chất, nguồn tiềm năng du lịch phong phú đó là các loại hình nghệ thuật
truyền thống: tuồn, chèo, múa rối nước, dân ca, quan họ, hát xẩm, ca trù...
hết sức độc đáo. Đó là những nét đặc sắc dân gian và huyền thoại của các lễ
hội, điển hình nhất là những nét đặc trưng về phong tục tập quán, tâm hồn,
cốt cách của người Việt Nam nói chung và Bắc Bộ nói riêng.
Khác với tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hoá không hề bị can
thiệp nếu chúng ta biết duy trì, tôn tạo, bảo vệ và phát triển đừng để chúng
bị suy thoái theo thười gian và không gian, khai thác hợp lý nguồn tài
nguyên văn hoá cho phát triển du lịch là một jhướng đi đúng đắn hiện nay
và trong tương lai.
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HOÁ
1. Thực trạng về công tác tổ chức, quản lý nhà nước để phát triển du
lịch văn hoá.
* Thuận lợi: Trong tình hình hiện nay khi mà ngành du lịch đang trở
thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước thì việc nhà nước quan tâm
phát triển du lịch văn hoá ngày càng nhiều hơn. Nhà nước đã ban hành các
văn bản quản lý đầu tư tôn tạo các di tích lịch sử, di sản văn hoá, đặc biệt là
việc phong sắc hiệu và xếp hạng các di tích lịch sử, di sản văn hóa có ý
nghĩa quan trọng đối với việc phát triển du lịch văn hoá, ngoài ra nhà nước
còn cho thành lập các Công ty Du lịch, các Sở du lịch, Bộ Văn hoá- Thông
tin với các hoạt động kinh doanh lữ hành, đặc biệt là bán các Tour du lịch
văn hoá với mạng lưới và các chi nhánh văn phòng ngày càng rộng lớn
trong cả nước.
* Khó khăn: trong thời gian qua việc định hướng phát triển tràn lan
quản lý lỏng lẻo (ví dụ trong du lịch văn hoá) thì việc công nhận xếp hạng
các di tích lịch sử, di sản văn hoá) dẫn đến sự lộn xộn trong các công tác du
lịch làm thiệt hại cho Nhà nước và những đơn vị kinh doanh du lịch văn
hoá chính thống, hiện tượng trốn thuế kinh doanh hoặc quá trình giành giật
khách hàng bằng mọi giá từ khâu dịch vụ xét cấp thị thực nhập cảnh, đến
khâu vận chuyển, ăn nghỉ... gây ra nhiều lộn xộn. Nhà nước chưacó sự đầu
tư thích đáng cho việc bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử di sản văn hóa,
nhiều di tích, danh lam thắng cảnh đáng giá đang xuống cấp trầm trọng.
Các di tích lịch sử văn hoá của đất nước không được trông nom, tu bổ,
ngược lại ngày càng bị phá huỷ nghiêm trọng. Các cơ quan chủ quản chịu
trách nhiệm vẫn làm ngơ và pháp luật chưa nghiêm trị như những vụ: Hội
Chùa Hương năm qua đã có nhiều đền cầu nguyện mới mọc lên, suối cầu
may mà thực chất đó chỉ là những nơi dựng lên để thu tiền của du khách,
hay cây cối ở những điểm du lịch còn có những cảnh người lừa đảo xin tiền
Chùa Thầy, Tây Phương... Chặt phá bừa bãi ở Yên Tử. Khi khách tới tham
quan không tránh khỏi tâm trọng lẫn lộn vừa tôn kính vừa thất vọng trước
những cảnh này.
Đồng thời Nhà nước chưa có những chính sách thích đáng hoặc nếu
có thì các chính sách đưa ra vẫn chưa có hiệu lực trong việc đầu tư tái tạo
lại các di tích lịch sử văn hoá đã bị mất đi do tàn phá chiến tranh hoặc còn
lại thì không có vẻ đẹp trang trọng của đền đài thâm nghiêm từ ngàn xưa
để có séc thu hút khách vì “càng những công trình kiến trúc tôn giáo, công
trình kiến trúc cổ, kiến trúc văn hoá sẽ có niên đại càng xa thì càng có sức
thu hút du khách”. Có thể điểm qua một số di tích lịch sử văn hoá có giá trị
không những về văn hoá truyền thống của dân tộc mà còn có sức hấp dẫn
lớn đối với du khách trong và ngoài nước như: Phủ Thiên Trường – Nam
Định ngày xưa (thời Vua Trần) sử sách đã ghi lại to đẹp và uy nghiêm là
thế nhưng ngày nay có ai quay về để tham quan, tìm hiểu. Theo sử sách đã
dẫn thì nó chỉ còn là vết tích hoang tàn của chiến tranh để lại. Ngay ở Hà
Nội chùa Một Cột trong sử sách ghi rất to đẹp, cột bằng đá khảm nhiều
màu sắc, đường kính rộng hơn bây giờ rất nhiều, cao từ 5-7 m trên đó ngôi
đền thờ được xây dựng từ đời vua Lý Nhân Tông nở lên một loài sen ngàn
cánh, nơi cho các nhà sư chạy đàn tụng kinh rồi hương sen dưới hồ nơi cột
đá được mọc lên giữa hồ thơm ngát hoà lẫn trong mùi hương khói, thanh
thản, thoát tục. Với các tên chùa Diên Hựu (Hưởng phúc dài lâu) bây giờ là
đài sen Liên hoa Đài nhưng dẫu sao cũng không còn vẻ quyến rũ thơ mộng
với du khách như trong sử sách ghi chép, miêu tả. Chùa bây giờ chỉ còn lại
cột xi măng cao 2 m thấp nhỏ. Giữa hồ phất phơ một vài bông sen cánh bèo
và ngôi chùa bé tí tẹo không phải nằm trên toà sen.
2. Tổ chức khai thác sản phẩm du lịch văn hoá
Đất nước ta được ưu đãi là những giá trị văn hoá và lịch sử, là niềm tự
hào của dân tộc Việt Nam. Với lợi thế này các công ty du lịch của Việt
Nam đã nghiên cứu các trị văn hoá lịch sử đó đưa vào các chương trình du
lịch văn hoá của mình.
Đến với khu vực Bắc Bộ này điểm dứng chân đầu tiên của du khách
đó là Hà Nội, thủ độ của nước ta, một trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị
của cả nước. Đến với Hà Nội du khách không thể không đến những danh
thắng được lưu giữ từ bao đời nay như: Hồ Gươm, Chùa Một Cột và Khu
Lăng Bác, Văn Miếu, Quốc Tử Giám, Chùa Trấn Quốc, Đền Quán Thanh,
Thành Cổ Loa... Trong đó hồ Gươm và Chùa Một Cột, khu di tích Văn
Miếu Quốc Tử Giám luôn được coi là biểu tượng của văn hoá kinh kỳ. Văn
Miếu được xây dựng nưm 1070 đời Lý Thánh Tông. Là nơi thờ Khổng Tử,
Tử Phôi, Chu Công, Nhân Tử, Mạnh Tử và 72 học trò giỏi của Khổng Tử.
Năm 1156 Lý Nhân Tông cho sửa lại Văn Miếu chỉ thời Khổng Tử. Nưam
1176 Lý Nhân Tông cho dựng Quốc Tử Giám sau Văn Miếu làm nơi dạy
học cho con các vua quan và đây trở thành trường Đại học đầu tiên của đất
nước, thời Trần là Việc Quốc họ, Thời Lê gọi là Thái Học Đường.
Từ khi thành lập dù các triều đại kế tiếp nhau có đổi tên nơi đây vẫn là
trường Đại học duy nhất của cả nước, đào tạo những người có học vị cao
cấp. Đồng thời đây cũng là nơi tổ chức thường kỳ các buổi bình văn, bình
thơ thu hút nhiều nho sũ nổi tiếng của đất kinh kỳ, có khi với cả sự hiện
diện của cả nhà vua. Văn Miếu Quốc Tử Giám ngày nay được dùng làm
nơi trưng bày chuyên đề cố sử của Thủ đô và mặc dù bây giờ Hà Nội đã có
hàng chục trường Đại học khác nhau song Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn
giữ được vị trí trân trọng và thiêng liêng trong làng kẻ sỹ Việt Nam.
Hồ Gươm là một viên ngọc nằm giữa thủ đô Hà Nội, được gắn với
truyền thuyết trả lại gươm thần cho vua Lê Thái Tổ, giữa hồ có tháp nhỏ,
đó lối đền chùa xung quanh. Phía trước là Bái đường rồi đến nhà Tam đảo,
phía sau mới là hai dẫy nhà hàng lang thập điện và gác chuông...
Bên cạnh các di tích lịch sử, công trình kiến trúc đặc sắc, Hà Nội còn
có hệ thống các Viện bảo tàng như bảo tàng Cách mạng, Bảo tàng Lịch sử,
bảo tàng Quân đội. Ở đây du khách sẽ hình dung được cuộc đấu tranh
không mệt mỏi của cả dân tộc để giữ gìn, bảo vệ đất nước mình khỏi sự
xâm lược bên ngoài. Hà Nội thu hút khách du lịch không chỉ bởi di tích lịch
sử và những công trình kiến trúc độc đáo mà còn bơỉ bản thân người Hà
Nội sống hiện đại nhưng không mất đi tính dân tộc, rất đỗi thanh lịch,
thanh tao:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
Người Hà Nội cũng tự hào về bàn tay và khối óc của họ với các nghề
nổi tiếng như trồng hoa, đúc đồng. Người Hà Nội cũng rất hiếu khách, các
món ăn của người Hà Nội đã trở thành một nghệ thuật với các món ăn rất
nổi tiếng như chả cá Lã Vọng, bánh cuốn Thanh Trì...
Cách trung tâm Hà Nội về phía Bắc là khi di tích Cổ Loa, một trong
số ít những kinh thành cổ nhất Đông Nam á cũng là một điểm du lịch có
sức hấp dẫn lớn đối với du khách... .
Nằm ở phía Bắc Hà Nội là một vùng di tích văn hoá Kinh Bắc. Nếu
như nói đến Hà Nội là trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của cả nước thì
chúng ta có thể nói rằng Kinh Bắc là tượng trưng về mặt văn hoá của cả
dân tộc. Đến với Kinh Bắc chúng ta đến với các kiến trúc cổ với hàng trăm
ngôi đình, chùa, miếu cổ kính rêu phong. Thấp thoáng bên cạnh hệ thống
chùa tháp thì kiến trúc đình làng cũng vô cùng đặc sắc. Đình làng là nơi
thời Thành Hoàng và bàn việc làng (đình Thể Hà, đình Đình Bẳng). Gắn
liền với những di tích lịch sử là hội làng hội xuân, hội chùa, hội cờ... đồng
thời nơi đây còn là nơi xuất xứ nhiều huyền thoại như chuyện Trương Chi,
Mỵ Nương, Bà Chúa Kho... Đây còn là mảnh đất của âm nhạc (Dân ca
quan họ Bắc Ninh chiếm một vị trí độc tôn), những làn điệu dân ca ngọt
ngào, say đắm đã vượt qua thời gian, biên giới chinh phục bạn bè quốc tế
và tiêu biểu cho tâm hồn dân tộc Việt Nam và nền văn hoá dân tộc. Với
người Kinh Bắc dù có ở đâu, đi đây không ai không thuộc một làn điệu,
một vài bài hát dân ca quan họ đi sâu vào máu thịt con người từ lúc còn
nằm trong bụng mẹ, từ các lời ru thuở trong nôi. Kinh Bắc có 49 làng quan
họ nổi tiếng ôm ấp trong mình hơn 200 làn điệu dân ca, là nguồn cảm hứng
cho âm nhạc dân tộc. Ngoài ra chúng ta còn có thể tới thăm làng tranh nghệ
thuật Đông Hồ, đất Kinh Bắc còn nổi tiếng về các mặt hàng thủ công mỹ
nghệ như the, lụa phù lưu, nồi đồng Quến Phương.
Vùng Tây Bắc từ Hoà Bình qua Sơn La đến Lai Châu đều có các di
tích lịch sử gắn liền với quá trình đấu tranh kiên cường của dân tộc ta. Kể
từ sau cách mạng tháng 8 đến cuộc kháng chiến chống Pháp mà đã đi vào
lịch sử nước nhà như một dấu son chói lọi của lịch sử thế giới. Nhà tù Sơn
La nơi chứng nhận tinh thần bất khuất của các nhà cách mạng tiền bối và
đặc biệt là Điện Biên Phủ, cách Hà Nội 500 km là nơi thu hút nhiều du
khách đến tham quan chiến trường xưa với các địa danh nổi tiếng như đồi
A1, Him Lam, đồi Độc Lập, hầm tướng Đờcat, hầm của Bộ chỉ huy Việt
Nam và các thắng cảnh vùng Điện Biên. Đến vùng này du khách còn được
đi dã ngoại tham quan cuộc sống của các dân tộc ít người như H’mông,
Tày, Dao...
Sa Pa là khu di tích có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, thời tiết ở đây
thật kỳ thú là một điểm du lịch nghỉ mát đồng thời cũng là một điểm du
lịch văn hoá nổi tiếng. Du khách đến đây hẳn không thể bỏ qua “tham
quan” một hoạt động sinh hoạt văn hoá độc đáo đó là phiên chợ tình của
các thanh niên nam nữ nơi núi rừng Sa Pa. Tại phiên chợ này nam nữ chưa
có gia định tự do tìm bạn mà nên vợ nên chống, càng về khuya phiên chợ
càng nồng nàn say đắm. Vẻ hồn nhiên trong sáng của các đôi thanh niên
nam nữ dân tộc ít người thật là thánh thiện. Đến bãi đá cổ Sa Pa (nay được
đề nghị là di sản thiên nhiên) chắc chắn sẽ là một điểm du lịch hấp dẫn nữa
với du khách.
Ngoài ra đến với Hoà Bình du khách sẽ được thưởng thức những điệu
múa dân gian, những món ăn đặc sắc mà đặc biệt là loại rượu cần nổi tiếng
với hu suối khoàng Kim Bôi và các bản làng của các dân tộc Tày, Thái...
- Xem thêm -