Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh quảng bình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hi...

Tài liệu Vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh quảng bình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay

.PDF
119
158
134

Mô tả:

LUẬN VĂN: Vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh quảng bình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài ở mọi thời đại, trí thức luôn là nền tảng tiến bộ của xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Trong thời đại ngày nay, khoa học - công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão đã làm cho thế giới đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, mà thực chất là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức con người. Chính vì vậy, vai trò cốt lõi là tri thức và công nghệ trong mối quan hệ hữu cơ với đội ngũ trí thức ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nước ta đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình hội nhập với thế giới theo xu thế toàn cầu hoá. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra trước mắt chúng ta nhiều yêu cầu, đòi hỏi, điều kiện, trong đó có yêu cầu đặc biệt quan trọng là phát triển nguồn lực con người. Muốn thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức. Vậy nên, trong suốt tiến trình cách mạng, vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức luôn được đề cao, tôn vinh; việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nước nhà luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Năm 2008, tại Hội nghị Trung ương 7 (Khoá X), Đảng đã ra Nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, trong đó nhấn mạnh vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức nước nhà hiện nay: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”[20, tr.90]. Là một bộ phận của đội ngũ trí thức nước nhà, đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình có một vị trí và vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh và cũng luôn được các cấp uỷ Đảng, chính quyền quan tâm phát triển. Vậy nên, trong nhiều năm qua, cùng với đội ngũ trí thức của cả nước, đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình đã có sự tăng lên về số lượng, nâng dần về chất lượng. Đội ngũ này đã có những đóng góp nhất định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh; góp phần trực tiếp từng bước xoá đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong tỉnh. Tuy vậy, trước những đặc điểm và yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh, đội ngũ này còn bộc lộ nhiều hạn chế: Số lượng và chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển; cơ cấu còn có những mặt bất hợp lý, đặc biệt là về ngành nghề. Là một tỉnh duyên hải miền Trung, có nhiều lợi thế tiềm năng về nông-lâm-ngư nghiệp và du lịch nhưng bộ phận trí thức làm việc trong các lĩnh vực, ngành nghề này còn yếu, đặc biệt là thiếu những trí thức có trình độ cao và có chuyên môn giỏi. Nhìn chung, vai trò của đội ngũ trí thức trong việc thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh còn nhiều hạn chế. Quảng Bình hiện vẫn còn là tỉnh nghèo, kinh tế - xã hội chậm phát triển, nhất là khu vực nông thôn. Để sớm thoát nghèo và phát triển bền vững tỉnh Quảng Bình cần phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Đây là vấn đề hết sức cấp thiết đang đặt ra, đòi hỏi phải được nghiên cứu để có các giải pháp pháp thiết thực, phù hợp. Vì những lẽ trên, tôi lựa chọn vấn đề: “Vai trũ của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bỡnh trong sự nghiệp cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ triết học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học, nhiều bài viết hết sức có giá trị đã được công bố nghiên cứu về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức. Trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn này, ngoài khai thác các giá trị kinh điển, các quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và một số tư liệu khác, tác giả chú trọng tham khảo sâu hơn một số công trình khoa học, luận văn, luận án liên quan trực tiếp đến đề tài để có sự kế thừa và tránh trùng lắp. Cụ thể như sau: - Nguyễn Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch: Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước, Nxb Lao động, Hà Nội,1998. Trong công trình này các tác giả đã khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm cũng như những hạn chế của trí thức Việt Nam các tác giả đã đề ra những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. - Nguyễn Thanh Tuấn: Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1998: Trong công trình này tác giả đã nêu và phân tích những đặc trưng cơ bản của trí thức nói chung, trí thức Việt Nam nói riêng cùng lịch sử hình thành và phát triển của đội ngũ này. Đồng thời, tác giả cũng đã khai thác những đặc trưng mang tính truyền thống dân tộc của trí thức Việt Nam qua đó đề xuất một số phương hướng đổi mới công tác quản lý và chính sách đối với đội ngũ này để họ phát huy vai trò một cách có hiệu quả. - Phạm Tất Dong: Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Đây là công trình chung của tập thể tác giả. Từ việc nghiên cứu tình hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và một số yêu cầu đặt ra về nguồn lực trí tuệ, các tác giả đã khẳng định vai trò đồng thời làm rõ ưu, nhược điểm của đội ngũ trí thức ở nước ta, từ đó đề xuất những định hướng trong hoạch định chính sách để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2000 2010. - Bùi Thị Ngọc Lan: Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Trong công trình này, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích một cách khá công phu về vị trí, vai trò và thực trạng nguồn lực trí tuệ của đất nước, tác giả đã tập trung xây dựng hệ thống các giải pháp thiết thực, cấp bách nhằm phát huy có hiệu quả nguồn lực này trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Nguyễn Đắc Hưng: Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Trong công trình này, khái niệm trí thức, nguồn gốc hình thành, vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được tác giả nghiên cứu khá kỹ. Tác giả cũng đã trình bày một số vấn đề bức xúc đang đặt ra cho đội ngũ trí thức nước nhà và đề xuất một số phương hướng xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức. Ngoài những công trình trên còn có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ có nội dung và phạm vi nghiên cứu gần với đề tài hơn như: Đặng Thị Mai : Đội ngũ trí thức tỉnh Hải Dương trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2003; Nguyễn Xuân Phương: Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2004; Võ Quốc Tín: Đội ngũ trí thức tỉnh Cà Mau trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2008. Tuy nhiên, các luận án, luận văn này đều có cách tiếp cận khác nhau, đối tượng nghiên cứu khác nhau, mục đích nghiên cứu cũng như hướng giải quyết vấn đề cũng không giống nhau. Trên thực tế, cho đến nay chưa có một đề tài khoa học, một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách trực tiếp, có chủ ý và có hệ thống đến vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình, kể cả trên địa bàn tỉnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn: Trên cơ sở lý luận mác-xít và thực tiễn của Quảng Bình luận văn phân tích các giải pháp để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức của tỉnh Quảng Bình trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên luận văn cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: + Làm rõ quan niệm về trí thức và vai trò của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Phân tích thực trạng của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình; đánh giá vai trò của đội ngũ này trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh, tìm ra nguyên nhân, đặc biệt là các nguyên nhân của hạn chế, yếu kém, những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay. + Đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát huy vai trò đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà tỉnh đang thực hiện. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ trí thức của tỉnh Quảng Bình, chủ yếu là đội ngũ trí thức do ủy ban nhân dân tỉnh quản lý. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động của trí thức Quảng Bình ở một số lĩnh vực trong thời kỳ đổi mới, thời gian từ khi tái thành lập tỉnh năm 1989, đặc biệt trong giai đoạn tỉnh bước vào thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận cơ bản của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng ta về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới. Luận văn cũng kế thừa những thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn liên quan đến nội dung luận văn. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, sử dụng kết hợp các phương pháp thống kê, điều tra xã hội học. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là vai trò của đội ngũ trí thức do UBND tỉnh quản lý. - Luận văn đề xuất một số giải pháp thiết thực để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh, của đất nước. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của trí thức trong sự tiến bộ xã hội, bổ sung làm rõ thêm những đặc điểm cơ bản của trí thức Việt Nam nói chung, trí thức Quảng Bình nói riêng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Về mặt thực tiễn: Các giải pháp nhằm phát huy vai trò đội ngũ trí thức của tỉnh Quảng Bình được đề xuất trong luận văn này khi áp dụng thực hiện sẽ góp một phần làm chuyển biến việc xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình, để đội ngũ này có đóng góp xứng đáng và to lớn hơn nữa trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh hiện nay, góp phần đưa tỉnh thoát nghèo và trở thành một tỉnh giàu mạnh. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. Chương 1 trí thức và vai trò của trí thức đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh quảng bình 1.1. trí thức và vai trò của trí thức trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.1. Quan niệm về trí thức và những đặc điểm của trí thức 1.1.1.1. Quan niệm về trí thức Khái niệm “trí thức” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh là Intellidentina, nghĩa là sự thông minh, có trí tuệ, có nhận thức hiểu biết, dùng để chỉ một bộ phận người trong xã hội có được những đặc điểm này. Khái niệm này xuất hiện rất sớm trong lịch sử khi cùng với sự phân công lao động xã hội làm nảy sinh một bộ phận người tách khỏi lao động chân tay để lao động bằng trí óc. Tuy vậy, nó chỉ thực sự được sử dụng phổ biến ở khoảng thời gian từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay, khi mà vai trò của trí thức được thể hiện rõ nét như là nhân tố không thể thiếu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Về cơ bản, từ trước tới nay khái niệm trí thức vẫn được dùng để chỉ những người lao động trí óc, nhất là những người có học vấn cao. Tuy vậy, xung quanh khái niệm này có nhiều cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau. Sỡ dĩ có hiện tượng này trước hết là vì tuỳ góc độ tiếp cận đối tượng trí thức của mỗi người hay mỗi nhóm người có sự khác nhau. Hơn nữa, kể từ khi khái niệm này xuất hiện cho đến nay nó luôn được dùng để chỉ một lực lượng lao động đặc biệt trong xã hội, mà lực lượng này tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của lịch sử luôn có những thay đổi rất đa dạng về chức năng, vị trí, vai trò và nhiệm vụ. Vì vậy, trí thức là một phạm trù xã hội có tính lịch sử. Các nhà sáng lập và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học như C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh là những người đặc biệt quan tâm đến trí thức và vấn đề tri thức, không chỉ vì các ông là những người trí thức lớn mà còn là vì họ nhận thức được một cách sâu sắc vai trò quan trọng của trí thức đối với sự phát triển của xã hội. ở vào thời đại của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã quan tâm nghiên cứu tầng lớp trí thức trong quá trình phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực, tuy vậy, do những điều kiện nhất định các ông chưa đưa ra định nghĩa về trí thức. Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong điều kiện mới khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước Nga đã giành được chính quyền và bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải có sự đóng góp thật nhiều của nguồn lực có trí tuệ, VI.Lênin - nhà lý luận thiên tài, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới đã quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng và sử dụng tầng lớp trí thức. Ông đã định nghĩa về trí thức như sau: “Trí thức bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của những người lao động trí óc”[28, tr.372]. Trên cơ sở những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, tiếp thu tinh hoa văn hoá của dân tộc và trí tuệ thời đại, đồng thời qua thực tiễn xây dựng và sử dụng trí thức trong cách mạng giải phóng dân tộc, cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới định nghĩa về trí thức: Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác. Một người học xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức toàn toàn, thì phải biết đem trí thức đó áp dụng vào thực tế [36, tr.235]. Ngày nay, do lực lượng trí thức tăng nhanh và chiếm tỷ lệ khá cao trong cơ cấu dân cư nên cách tiếp cận nghiên cứu về trí thức cũng có những xu hướng khác nhau. Thứ nhất là xu hướng mở rộng khái niệm trí thức, cho rằng trí thức là những người lao động trí óc nói chung. Thứ hai là xu hướng muốn thu hẹp khái niệm trí thức, coi trí thức là những nhà tư tưởng, là một nhóm nhỏ những nhà bác học, những nhà sáng chế, phát minh. Cả hai xu hướng quan niệm này đều có những mặt chưa hợp lý, do những cách quan niệm khác nhau về nội hàm của khái niệm nên ngoại diên của khái niệm được mở rộng quá, hoặc bị thu hẹp quá. ở xu hướng thứ nhất chúng ta thấy, không thể đơn giản cho rằng cứ làm nghề lao động trí óc thì sẽ được coi là trí thức. Bởi lẽ, như quan niệm của VI.Lênin, trí thức không bao gồm tất cả những người lao động trí óc mà chỉ bao gồm những người có học thức và là đại diện của những người lao động trí óc; hơn nữa, theo Hồ Chí Minh, nếu một người chỉ có học thức nhưng không vận dụng được vào thực tiễn thì chỉ là “trí thức một nửa” mà thôi. Đồng thời, trên thực tế, những người lao động trí óc nhưng giản đơn không thể coi là trí thức được. ở xu hướng thứ hai, do chỉ giới hạn đối tượng ở một số trí thức bậc cao, những người lỗi lạc, ưu tú nên cũng không thể qua đó mà đánh giá hết được vị trí, vai trò và những cống hiến to lớn của những người có học vấn, có tri thức ở những cấp độ khác đối với sự phát triển của xã hội, trong lúc những người này chiếm số đông và tuy không phải là những nhà tư tưởng, những bác học, những nhà phát minh nhưng lao động của họ cũng hết sức phức tạp và luôn có sự kế thừa, phát huy và sáng tạo. Xu hướng thứ ba là nghiên cứu và đưa ra được định nghĩa bao quát được đầy đủ, phản ánh được những đặc điểm cơ bản của trí thức, không quá thu hẹp cũng như không mở rộng khái niệm một cách thái quá. Đây là xu hướng cơ bản và phổ biến nhất hiện nay. Xu hướng này được thể hiện qua các quan niệm sau: Trong Từ điển Bách khoa Liên Xô, do A.M Prokhorov chủ biên, xuất bản năm 1985, khái niệm trí thức được nhìn từ phương diện chức năng xã hội, trí thức được coi là tầng lớp những người làm nghề lao động trí óc phức tạp, sáng tạo, phát triển và truyền bá văn hoá. Trong Từ điển tiếng Nga do Gozegov chủ biên, trí thức được hiểu là người lao động trí óc có học vấn, có kiến thức nghề nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau của khoa học kỹ thuật, văn hoá. Trong Từ điển Triết học, Nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva, xuất bản năm 1986, do Rozental chủ biên đưa ra định nghĩa: “Trí thức là tập đoàn xã hội gồm những người làm nghề lao động trí óc. Giới trí thức gồm kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và những người làm công tác khoa học, một bộ phận lớn viên chức” [53, tr.598]. ở Việt Nam, trong Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, xuất bản năm 1986 lại cho rằng: “Trí thức - Tập đoàn xã hội, bao gồm những người chuyên làm nghề lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó”[51, tr.360]. Trong Từ điển Tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học biên soạn và phát hành năm 1997, Hoàng Phê chủ biên cho rằng: “Trí thức là người chuyên làm việc bằng trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình”[52, tr.999]. Gần đây, trong đề tài Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với trí thức nước ta hiện nay do Viện Xây dựng Đảng-Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, đã đưa ra khái niệm sau: Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn sâu, có đạo đức, lao động trí tuệ - sáng tạo khoa học, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học trong hoạt động thực tiễn, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển mọi mặt của đời sống xã hội [22, tr. 9]. Từ các định nghĩa trên chúng ta thấy rằng, mỗi định nghĩa đều có mặt hợp lý nhưng chưa thể xem là đã hoàn chỉnh và còn phải được thực tiễn kiểm nghiệm để tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Tuy vậy, nhìn chung, các định nghĩa về trí thức nói trên đều cho thấy có những điểm chung, thống nhất, đó là xác định nội hàm khái niệm trí thức đều dựa trên cơ sở đặc trưng là lao động trí óc và trình độ học vấn, chuyên môn cao của người trí thức. Đối với Đảng ta, trong quan niệm về trí thức luôn xuất phát từ quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng. Hiện nay, trong điều kiện mới việc đưa ra định nghĩa về trí thức cũng đã có sự thay đổi, bổ sung. Qua việc nghiên cứu, tham khảo các định nghĩa hiện có, đồng thời trên cơ sở tổng kết cả về mặt lý luận và thực tiễn, tại Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khoá X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đảng ta đã ra Nghị quyết, trong đó chỉ rõ: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội [20, tr.81]. Trong định nghĩa này, khái niệm trí thức về cơ bản vẫn dùng để chỉ những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao. Tuy vậy, nội hàm của khái niệm cũng đã được bổ sung cụ thể hơn. Từ các tiêu chí được đề cập trong định nghĩa cho thấy, nếu một người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao, nhưng trong lao động không có được sự sáng tạo, không truyền bá và làm giàu tri thức, không tạo ra được những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội cũng không thể được coi là trí thức. Đây là một đòi hỏi cao nhưng cần thiết đối với người trí thức, đặc biệt là đối với trí thức xã hội chủ nghĩa. Theo Phó giáo sư, tiến sĩ Đàm Đức Vượng, Viện trưởng Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài, nhân lực thì: Định nghĩa này khái quát đặc trưng và tiêu chí cơ bản của trí thức Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở định nghĩa này, khi định chính sách, chế độ cần phải cụ thể hoá, như ấn định bằng cấp nào là trí thức, tiêu chí đối với trí thức trong các lĩnh vực, ngành nghề, các thời kỳ khác nhau; cần xác định rõ trí thức là những người lao động trí óc, các nhà khoa học tự nhiên và xã hội, các viện sĩ, giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân, kỹ sư, kiến trúc sư, kỹ thuật viên, thầy giáo, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, nhà điêu khắc, nhà ngôn ngữ, nhà toán học, nhà hoá học, nhà vật lý học, nhà văn, nhà thơ, nhà thiết kế, một bộ phận lớn công chức, viên chức, các nhà sáng chế, phát minh, sáng tác, sáng tạo [66]. Trong xã hội ta, việc đòi hỏi người trí thức xã hội chủ nghĩa phải là người biết sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội không chỉ thuần tuý là đòi hỏi về mặt tài năng mà còn cả về mặt đạo đức, nhân cách. Người trí thức không chỉ có năng lực chuyên môn mà còn cần phải có đạo đức, nhân cách tốt mới có thể cống hiến được một cách tích cực những sản phẩm trí tuệ của mình vì sự tiến bộ, phát triển của xã hội, của quê hương, đất nước. Nếu như một người có tài năng, có sáng tạo nhưng những sản phẩm trí tuệ của họ chỉ phục vụ riêng cho lợi ích cá nhân, không vì sự phát triển của xã hội thì cũng không thể được coi là trí thức, đúng hơn là không phải là trí thức chân chính. Trí thức chân chính ở nước ta hiện nay phải là người dùng tài năng, trí tuệ của mình phụng sự xã hội, phụng sự Tổ quốc và nhân dân, vì tài năng, trí tuệ của họ là do xã hội tạo nên. Đây là biểu hiện mối quan hệ giữa tài và đức trong mỗi con người, nó hoàn toàn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với người trí thức xã hội chủ nghĩa - người trí thức chân chính, tài năng, trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo ra các giá trị mới; đạo đức đóng vai trò định hướng cho người trí thức sử dụng tri thức mới của mình hướng tới các giá trị nhân văn, nhân đạo, tiến bộ và phát triển. Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay định nghĩa về trí thức của Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ sở để từ đó giúp ta nhìn nhận, đánh giá và xây dựng quan điểm về trí thức. 1.1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của trí thức Qua nghiên cứu một số quan niệm về trí thức nói trên, đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của trí thức như sau: Thứ nhất: Lao động của trí thức là lao động trí óc phức tạp, là sự sáng tạo ra các giá trị mới, các tri thức mới. Đây là đặc điểm đầu tiên và cũng là đặc điểm cơ bản nhất, cũng chính là đặc trưng nổi bật nhất của trí thức để nhận diện và phân biệt người trí thức với những người lao động khác, những bộ phận lao động khác trong xã hội. Trí thức trước hết cũng là người lao động, nhưng lao động của họ là lao động trí óc phức tạp, có sự sáng tạo, đó là sự sáng tạo ra các giá trị mới, các tri thức mới. Kiểu lao động trí óc và sáng tạo ấy đặt ra đòi hỏi cao về tính độc lập của người trí thức trong tư duy, vận dụng kiến thức và kinh nghiệm đã được tích luỹ cũng như năng lực chuyên môn nghề nghiệp để tìm ra biện pháp tối ưu giải quyết công việc. Chúng ta biết rằng lao động là hoạt động tất yếu và phổ biến của con người và xã hội loài người do nhu cầu sinh tồn và phát triển. Trong lao động con người phải kết hợp cả hai yếu tố vật chất và ý thức, nghĩa là phải kết hợp cả thể lực và trí trí lực. Tuỳ theo mức độ kết hợp này mà hình thành 2 loại lao động khác nhau: lao động trí óc và lao động chân tay. Đối với người lao động chân tay- sở dĩ được gọi như vậy vì ở họ sự chi phí hao tổn năng lượng thần kinh, trí tuệ hạn chế, chủ yếu là làm theo sự hướng dẫn, chỉ vẽ của người khác, làm theo kinh nghiệm, hạn chế sự sáng tạo. Còn đối với lao động trí óc thì điều này ngược lại. Tuy nhiên, lao động trí óc cũng có nhiều dạng khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp. Tiêu chí để phân biệt hai dạng lao động này là sự hao phí trí tuệ, hàm lượng chất xám ít hay nhiều trong quá trình lao động. Đối với những người lao động trí óc giản đơn, sự hao phí năng lượng trí tuệ không phải là cơ bản thì họ không được gọi là người trí thức. Thậm chí, cũng không thể coi là trí thức đối với những người có trình độ học vấn cao, được tốt nghiệp đại học nhưng không được bố trí sử dụng đúng chuyên môn, không có việc làm phù hợp và tham gia lao động phổ thông giản đơn, hoặc thất nghiệp, vì họ có trình độ học vấn nhưng không lao động trí óc hoặc lao động trí óc giản đơn. Đối với người lao động trí óc phức tạp, đòi hỏi họ phải có sự chi phí hàm lượng trí tuệ lớn trong quá trình lao động và đặc biệt là phải có sự sáng tạo, tức dùng tri thức đã có để sáng tạo ra tri thức mới, các sản phẩm vật chất và tinh thần mới có giá trị đối với xã hội. Những người lao động trí óc ở dạng này mới thực sự được coi là trí thức. Hay nói cách khác, lao động của trí thức là sự tìm tòi, khám phá, sáng tạo cái mới, tiến bộ, đòi hỏi phải có tư duy ở mức độ cao, sự hao phí của năng lượng, thời lượng của bộ não là chủ yếu. V.I.Lênin cho rằng: Lao động nói chung đã là sáng tạo. Nhưng từ sự phân công lao động xã hội mà tính sáng tạo trội lên thuộc về lao động trí óc của người trí thức. Thứ hai: Trí thức là người có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định. Vì lao động của trí thức là lao động trí óc phức tạp, là sự sáng tạo ra các giá trị mới, các tri thức mới nên trí thức cần phải có một trình độ học vấn căn bản được xã hội thừa nhận. Chúng ta biết rằng, khả năng tham gia lao động trí óc phức tạp và sáng tạo không phải ai cũng có, ngoài một số ít thiên tài bẩm sinh, còn lại sự sáng tạo bao giờ cũng được bắt đầu từ sự bắt chước, sự kế thừa, nó được tích luỹ dần qua giáo dục, đào tạo và nảy sinh trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi, khảo nghiệm. Lao động sáng tạo là một quá trình tìm tòi gian khổ, công phu, đòi hỏi phải có kiến thức hệ thống và thế giới quan biện chứng để độc lập tư duy trong xử lý kiến thức mà chỉ người được đào tạo đến một trình độ học vấn cao về ít nhất là một lĩnh vực chuyên môn nhất định mới thực hiện được. Trí thức là người có trình độ học vấn cao nhưng tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử nhất định mà xã hội có những tiêu chí để đánh giá trình độ học vấn đó. Trước đây, một người có trình độ cao đẳng trở lên được coi là trí thức. Hiện nay tốt nghiệp cao đẳng chuyên nghiệp chưa thể được coi là người có học vấn cao, về cơ bản ở họ chưa có được tư duy hoàn toàn độc lập, sự sáng tạo còn hạn chế, nên mặc dầu họ có tham gia lao động trí óc nhưng không được coi là trí thức. Để đảm bảo cho hoạt động trí óc phức tạp, sáng tạo của trí thức được thực hiện thuận lợi, trí thức cần phải có trình độ học vấn tối thiểu đại học trở lên. Bởi hiện nay xét về mặt học thuật, chỉ có người được đào tạo qua bậc đại học trở lên mới được công nhận là người có trình độ học vấn cao, có năng lực tư duy độc lập. Hơn nữa, do đặc trưng của đào tạo đại học là gắn chặt giữa quá trình đào tạo và tự đào tạo nên những kiến thức mà người đã học qua đại học có được không thuần tuý chỉ được trang bị trong nhà trường, các cơ sở đào tạo mà còn là kết quả của quá trình tự đào tạo, rèn luyện, nỗ lực phấn đấu không ngừng, là sản phẩm của sự trăn trở, lăn lộn với đời sống, với thực tiễn của họ. Tuy nhiên, giới hạn này chỉ mới được xem xét về phương diện hình thức, là tiêu chí mang tính hình thức để giới hạn một đặc điểm trong nội hàm của khái niệm trí thức. Trên thực tế, đây chỉ là một trong nhiều tiêu chí để phân biệt trí thức chứ không phải là tiêu chí bắt buộc, bởi vì trong nhiều trường hợp cụ thể, không ít người dù không có bằng cấp, hoặc không đạt được trình độ học vấn đại học nhưng vẫn được xã hội thừa nhận là những nhà trí thức do sản phẩm mà họ làm ra cho xã hội có tính phát minh, sáng tạo và ứng dụng vào thực tiễn mang lại hiệu quả, có giá trị to lớn góp phần nâng cao nhận thức xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Thứ ba: Trí thức tham gia vào hoạt động lãnh đạo, quản lý xã hội và là nhân tố không thể thiếu của quá trình này trong bất cứ xã hội nào. Bất kỳ chế độ xã hội nào giai cấp cầm quyền và đảng của nó luôn cần đến sự tham gia trực tiếp của những người trí thức trong hoạt động lãnh đạo, quản lý và điều hành xã hội bởi hoạt động này là hoạt động chính trị phức tạp. Hoạt động này đòi hỏi người tham gia phải có bản lĩnh và năng lực trí tuệ hơn người bình thường, tức phải có những kiến thức, tri thức khoa học sâu, rộng về lĩnh vực lãnh đạo, quản lý; đồng thời có năng lực và uy tín trong việc tập hợp, tổ chức, giáo dục và thuyết phục quần chúng hướng vào thực hiện những nhiệm vụ mà giai cấp thống trị và đảng của nó đã vạch ra. Tuy nhiên, lịch sử đã cho thấy, việc bố trí, sử dụng trí thức tham gia các hoạt động lãnh đạo quản lý xã hội như thế nào còn do nhận thức, thái độ và ý chí của giai cấp cầm quyền; và không phải là toàn bộ trí thức mà chỉ là một bộ phận trí thức tiên tiến, ưu tú được lựa chọn. Nếu trong hàng ngũ lãnh đạo, quản lý vắng bóng lực lượng này xã hội sẽ trở nên trì trệ, lạc hậu và không thể phát triển lên được. Lịch sử cũng đã chứng minh, xã hội nào huy động được đông đảo trí thức tham gia lãnh đạo, quản lý và điều hành xã hội thì xã hội đó phát triển một cách ổn định, năng động, hợp quy luật và đảm bảo được những yếu tố văn hoá, văn minh. ở Việt Nam điều này thể hiện khá rõ nét. Dưới thời đại phong kiến nhiều “kẻ sĩ”, “sĩ phu” được nhà nước trọng dụng vào các vị trí lãnh đạo, quản lý khác nhau trong bộ máy chính quyền. Hiện nay, có một thực tế là, có không ít trí thức làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, trong các tổ chức đoàn thể của hệ thống chính trị ở Trung ương và địa phương. Đây là nhóm trí thức tham gia vào hệ thống quyền lực nhân dân thuộc hệ thống quản lý các cấp, trong các cơ quan công quyền và trong các lĩnh vực hành chính sự nghiệp và hoạt động xã hội. Trong số họ có những người giữ trọng trách chủ chốt trong lãnh đạo, quản lý. Bộ phận trí thức này được gọi là các cán bộ, quan chức có vai trò hoạch định đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện đường lối chính sách. Tuy đội ngũ này không đông bằng các trí thức khoa học, giáo dục - đào tạo, y tế hay văn hoá - nghệ thuật nhưng họ có vị trí, vị thế xã hội quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của đất nước và sự phát triển của tầng lớp trí thức nói chung ở nước ta. Thứ tư: Trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội đặc biệt, tuy không có hệ tư tưởng độc lập nhưng trí thức là đại diện cho trí tuệ nhân dân trong từng thời đại lịch sử. Khi nghiên cứu về trí thức từ góc độ cơ cấu xã hội - giai cấp, V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: trí thức không phải là giai cấp, mà “là một tầng lớp đặc biệt” trong xã hội. Tính chất “đặc biệt” của tầng lớp trí thức biểu hiện ở chỗ do vị trí của mình trong phân công lao động xã hội, trí thức không trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất - cái dấu hiệu quan trọng nhất để xác định giai cấp, do đó không phải là một giai cấp độc lập, không có hệ tư tưởng độc lập. Tầng lớp này được hình thành dựa trên đặc trưng chung nhất là lao động trí óc nhưng do có nguồn gốc xuất thân đa dạng, từ các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội, lao động ở các lĩnh vực khác nhau nên có lợi ích khác nhau. Về mặt tổ chức, điều kiện lao động và điều kiện sống của trí thức “không cho phép họ thống nhất lực lượng một cách trực tiếp rộng rãi, không cho họ được giáo dục trực tiếp trong lao động tập thể có tổ chức”[29, tr.18]. V.I Lênin cũng khẳng định, trí thức không phải là một lực lượng “siêu giai cấp”, “đứng trên các giai cấp”, “trọng tài tầng lớp”. Bởi vì, trong xã hội, các tập đoàn xã hội (gồm các giới, các tầng lớp…) luôn phụ thuộc vào các giai cấp. Với tư cách là một tầng lớp thì trí thức luôn gắn liền với một giai cấp nhất định. Lịch sử đã cho thấy, quá trình đấu tranh giai cấp và tác động nhiều mặt về lợi ích đã làm cho tầng lớp trí thức phân hoá thành những bộ phận khác nhau. Những bộ phận khác nhau đó bảo vệ lợi ích của lực lượng xã hội này hay lực lượng xã hội khác, giai cấp này hay giai cấp khác. Do đặc thù lao động là loại lao động trí tuệ phức tạp sáng tạo, nên trí thức có khả năng tổng kết, khái quát thực tiễn thành lý luận, để xây dựng hệ tư tưởng cho giai cấp cầm quyền. Vậy nên, bất cứ giai cấp nào khi nắm quyền cũng cần đến tri thức và tìm cách thu hút, tập hợp lực lượng trí thức về phía mình. Như vậy, về phương diện chính trị, trí thức tự bản thân không có hệ tư tưởng độc lập nhưng lại góp phần quan trọng trong việc tổng kết, hình thành nên hệ thống tư tưởng, học thuyết lý luận cho các giai cấp trong xã hội. Trong một thể chế chính trị nhất định, tính giai cấp của trí thức là do tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định, khuôn mẫu người trí thức do hệ thống giáo dục và đường lối đào tạo của nhà nước do giai cấp thống trị thiết lập tạo ra. Tuy vậy, như đã trình bày ở trên, do nguồn gốc xuất thân của trí thức hết sức đa dạng, từ mọi giai cấp, mọi tầng lớp, mọi giới trong nhân dân và vì họ là người có tri thức nên được lựa chọn làm đại diện về mặt trí tuệ trước hết cho thành phần mà họ xuất thân, những sáng tạo của họ trước hết phản ánh và phục vụ cho đời sống vật chất cũng như tinh thần của bộ phận nhân dân sản sinh ra họ. Từ đó, tựu trung lại, trí thức đại diện cho trí tuệ của nhân dân nói chung trong xã hội trên mọi phương diện trong các thời kỳ lịch sử từ khi lao động trí óc xuất hiện. Trong đó, bộ phận trí thức đi theo và ủng hộ giai cấp cầm quyền đang trong thời kỳ tiến bộ - giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, đại diện vì quyền lợi của các giai cấp, tầng lớp xã hội, đại diện cho dân tộc và toàn thể nhân dân và vì sự tiến bộ xã hội luôn luôn được đánh giá cao, được nhân dân lựa chọn uỷ thác nói lên tiếng nói của mình. Thứ năm: Trí thức ra đời là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất, trực tiếp là của các quá trình phân công lao động diễn ra trong lịch sử. Chúng ta biết rằng, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất, trong đó được thể hiện cụ thể và rõ nét bằng sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất là nguyên nhân dẫn đến những lần phân công lao động lớn trong lịch sử. Theo sự phân tích của Ph.Ăngghen trong tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước” thì lịch sử loài người đã diễn ra 3 lần phân công lao động xã hội. Lần thứ nhất: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Lần thứ hai: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Lần thứ ba: thương nghiệp ra đời, dẫn đến xuất hiện loại lao động trí óc và lao động chân tay. Theo quan niệm trước đây, những người tham gia lao động trí óc đều được coi là trí thức. Như vậy, trí thức ra đời gắn liền với sự phân công lao động xã hội, cụ thể là sự xuất hiện của lao động trí óc với đặc trưng là hao phí năng lượng thần kinh trung ương là chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội ngày càng cao. Lao động trí óc không thể thiếu và ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển xã hội loài người. 1.1.1.3. Vài nét về quá trình hình thành tầng lớp trí thức Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám Khi cách mạng xã hội chủ nghĩa giành được thắng lợi thì đội ngũ trí thức vô sản mới dần dần được hình thành bằng hai con đường: Sử dụng, cải tạo đội ngũ trí thức cũ của các chế độ trước, và phát triển đội ngũ trí thức mới của giai cấp công nhân, nhất là đào tạo mới từ con em lao động, trong đó, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức mới là cơ bản. V.I.Lênin chỉ ra rằng: Cũng như bất cứ giai cấp nào khác của xã hội hiện đại, giai cấp vô sản không những chỉ tạo ra tầng lớp trí thức riêng của mình, mà còn thu nạp cả những người ủng hộ mình trong tất cả mọi người có học thức. Đó chính là con đường của quá trình hình thành đội ngũ tri thức mới, nhất là trong giai đoạn đầu khi giai cấp công nhân mới giành được chính quyền: một mặt, khôn khéo sử dụng và cải tạo trí thức cũ; mặt khác, tích cực đào tạo trí thức mới từ công-nông. Trí thức vô sản có nhân sinh quan và thế giới quan mác-xít, gắn bó với nhân dân lao động, khắc phục dần những đặc điểm của trí thức nói chung và khả năng phát huy vai trò ngày càng cao trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. ở Việt Nam, kể từ sau thành công của cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền công nông được thiết lập, một đội ngũ trí thức mới - trí thức xã hội chủ nghĩa, trí thức Việt Nam hiện đại được hình thành. Về con đường hình thành đội ngũ trí thức Việt Nam hiện đại cơ bản cũng tương tự như quá trình hình thành đội ngũ trí thức vô sản nói chung. Tuy vậy, do đặc thù của xã hội Việt Nam vừa thoát thai từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, lạc hậu, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa nên trí thức Việt Nam hiện đại chủ yếu xuất thân là con em nông dân, công nhân, hoặc được hình thành trong quá trình trí thức hoá giai cấp công nhân và nông dân. Đây là một đặc điểm riêng của đội ngũ trí thức Việt Nam so với giới trí thức của nhiều nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Nhìn chung, chỉ có một số rất ít trong số trí thức được thừa hưởng truyền thống của các gia đình trí thức lâu đời. Đặc điểm đó đã tạo cho giới trí thức nước ta một ý thức gắn bó sâu sắc với nhân dân lao động, thông cảm với người lao động vất vả, cực nhọc, với hoàn cảnh nghèo nàn, lạc hậu của đất nước. Thiết tha mong muốn xây dựng nước ta thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, có thể sánh vai với các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới. Từ thực tiễn lịch sử cũng có thể thấy, giới trí thức Việt Nam nhận thức rõ rằng: chỉ có sát vai cùng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao động nói chung mới có thể giải phóng cho họ, xoá được nghèo nàn, lạc hậu và xây dựng, phát triển đất nước. ở đây cũng cần lưu ý thêm rằng, xét về nhóm xã hội trí thức, các nhà nghiên cứu thường dùng hai khái niệm: "tầng lớp trí thức" hay "đội ngũ trí thức". ở Việt Nam, do điều kiện lịch sử trước đây còn có cách gọi trí thức cũ và trí thức mới nhằm phân biệt trí thức được đào tạo dưới chính quyền, chế độ cũ với trí thức được đào tạo dưới chế độ mới. Trong nhiều tài liệu, văn bản còn gọi là "trí thức xã hội chủ nghĩa". Từ trước đến năm 1998, chủ yếu dùng thuật ngữ tầng lớp trí thức, thuật ngữ đội ngũ trí thức được thể hiện trong văn bản lần đầu tiên tại Chỉ thị 45-CT/TƯ, ngày 11/11/1998 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII. Từ đó đến nay thuật ngữ này được dùng phổ biến thay cho thuật ngữ tầng lớp trí thức. Như vậy, thuật ngữ đội ngũ trí thức là cách gọi mới thay thế cho khái niệm tầng lớp trí thức, một lực lượng quan trọng trong liên minh chiến lược công nhân - nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua phân tích một số đặc trưng cơ bản của trí thức cùng quá trình hình thành đội ngũ trí thức vô sản nói chung, trí thức Việt Nam hiện đại nói riêng trên đây giúp chúng ta có cơ sở nhận thức rõ hơn về trí thức. Quan niệm đúng về trí thức là điều kiện quan trọng cho việc khơi dậy và phát huy tiềm năng to lớn của trí thức, từ đó khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng và sự cống hiến của họ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.1.2. Vai trò của trí thức trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.2.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Công nghiệp hoá xuất hiện vào giai đoạn phát triển thấp của chủ nghĩa tư bản. ở thế kỷ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây Âu, công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Những khái niệm thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội nói chung và khái niệm công nghiệp hoá
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan