Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ứng dụng hệ thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tạ...

Tài liệu ứng dụng hệ thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương việt nam chi nhánh phú thọ

.PDF
91
94
128

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH  HOÀNG THỊ PHƯƠNG ỨNG DỤNG HỆ THỐNG XẾP HẠNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH PHÚ THỌ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG MÃ SỐ: 60.31.12 NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS NGUYỄN THỊ THÚY VÂN TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2011 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG NHẰM HẠN CHẾ RRTD 3 1.1. KHÁI NIỆM VỀ TÍN DỤNG VÀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG 3 1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của các tổ chức XHTD 3 1.1.2 Khái niệm về tín dụng 4 1.1.3 Khái niệm về XHTD 5 1.1.4 Rủi ro tín dụng 7 1.1.4.1 Khái niệm rủi ro tín dụng 7 1.1.4.2 Các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng 7 1.1.4.3 Ảnh hƣởng của RRTD đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nền kinh tế xã hội 12 1.1.5 Sự cần thiết của XHTD 13 1.1.5.1 XHTD là cơ sở để quản trị rủi ro tín dụng 13 1.1.5.2 XHTD nhằm phân loại khách hàng cho vay và là cơ sở xây dựng chiến lƣợc marketing hiệu quả 14 1.1.5.3 Cơ sở phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro 15 1.1.6 Nguyên tắc của XHTD đối với khách hang 16 1.2. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC XHTD ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG 17 1.2.1 Đối với các khách hàng mới XHTD lần đầu 17 1.2.2 Đối với các khách hàng thƣờng xuyên 17 1.3. CÁC TIÊU CHÍ XHTD 18 1.3.1 Quy mô doanh nghiệp 18 1.3.2. Các chỉ tiêu tài chính 18 1.3.3 Các chỉ tiêu phi tài chính 19 1.4. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI KẾT QUẢ XHTD 19 1.4.1. Nguồn thông tin 19 1.4.2. Nguồn nhân lực 20 1.4.3. Công nghệ ngân hang 20 1.4.4. Những thay đổi trong cơ cấu, thủ tục, chính sách 20 1.5. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI TRONG VIỆC XHTD NHẰM HẠN CHẾ RRTD VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 21 1.5.1 Quy trình quản trị rủi ro tín dụng theo Ủy Ban Basel 21 1.5.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 25 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XẾP HẠNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH PHÚ THỌ 28 2.1 GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH PHÚ THỌ 28 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng TMCP Ngoại thƣơng Việt Nam (VCB) 28 2.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển VCB – Chi nhánh Phú Thọ 29 2.1.3 Hoạt động huy động vốn tại VCB Chi nhánh Phú Thọ 30 2.2 CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC VỀ XHTD TẠI VIỆT NAM 34 2.3 HÊ THỐNG CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG VÀ XHTD DOANH NGHIỆP TẠI VCB CHI NHÁNH PHÚ THỌ 36 2.3.1 Mô tả quy trình cách thức XHTD đối với DN 36 2.3.2 Đối tƣợng và nguyên tắc XHTD 36 2.3.2.1 Đối tƣợng XHTD 36 2.3.2.2 Nguyên tắc và thời hạn chấm điểm 37 2.3.3 Chỉ tiêu hệ thống XHTD nội bộ đối với khách hàng DN 37 2.3.3.1 Xác định quy mô DN 37 2.3.3.2 Thông tin tài chính 38 2.3.4 Tổng hợp điểm của khách hang 50 2.3.5 Ứng dụng kết quả chấm điểm và xếp hạng tín dụng nhằm hạn chế RRTD tại Chi Nhánh Phú Thọ 53 2.3.5.1 Xác định giới hạn tín dụng 53 2.3.5.2 Phân loại nợ 53 2.4. SO SÁNH PHƢƠNG PHÁP XHTD CỦA VCB VỚI TỔ CHỨC TÍN DỤNG KHÁC 55 2.4.1. Với Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam (BIDV). 56 2.4.2. Với Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) 58 2.5 ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC XHTD NỘI BỘ TẠI VCB CHI NHÁNH PHÚ THỌ 59 2.5.1. Kết quả phân loại nợ theo hệ thống XHTD nội bộ 59 2.5.2 Đánh giá những mặt đạt đƣợc và hạn chế của việc ứng dụng hệ thống XHTD nội bộ tại VCB Chi nhánh Phú Thọ 61 2.5.2.1 Những mặt đạt đƣợc 61 2.5.2.2 Những hạn chế 63 5.2.3 Một số nguyên nhân khách quan và chủ quan ảnh hƣởng đến công tác XHTD nội bộ tại VCB- Chi nhánh Phú Thọ 64 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG XHTD DOANH NGHIỆP NHẰM HẠN CHẾ RRTD TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH PHÚ THỌ 68 3.1 . ĐỐI VỚI VCB TRUNG ƢƠNG VÀ VCB CHI NHÁNH PHÚ THỌ 68 3.1.1 Quan điểm XHTD là bƣớc quan trọng để hạn chế RRTD 68 3.1.2 Định hƣớng phát triển một VCB thống nhất 70 3.1.3 Xây dựng hệ thống thông tin hoàn chỉnh 71 3.1.4 Đào tạo nguồn nhân lực 73 3.1.5 Các kiến nghị để hoàn thiện phƣơng pháp XHTD nhằm hạn chế RRTD. 74 3.2 ĐỐI VỚI CƠ QUAN CHỨC NĂNG 80 3.2.1 Đối với ngân hàng Nhà nƣớc 80 3.2.2 Bộ Tài Chính và các DN 82 3.2.3 Các cơ quan nhà nƣớc khác 83 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Toàn cầu hóa là một xu hướng phát triển tất yếu khách quan, mang lại nhiều cơ hội cũng như rủi ro thách thức cho các ngành kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Với đặc thù của NHTM Việt Nam thì nguồn thu từ hoạt động tín dụng vẫn là nguồn thu chủ yếu trong khi môi trường kinh doanh tín dụng hiện nay còn tồn tại nhiều rủi ro. Do đó việc nghiên cứu ứng dụng những phương pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế RRTD đã trở thành một trong những vấn đề ưu tiên hàng đầu trong công tác quản trị ngân hàng, và phương pháp đang được nhiều NHTM quan tâm đó là xây dựng hệ thống XHTD nội bộ. Dưới sự chỉ đạo của VCB trung ương và sự nỗ lực của cán bộ nhân viên, Chi nhánh Phú Thọ đã xây dựng thành công hệ thống XHTD nội bộ cho các DN. Tuy nhiên trong quá trình triển khai công tác XHTD nội bộ vào thực tiễn hoạt động đã gặp không ít vướng mắc khó khăn do các nguyên nhân chủ quan khách quan, và làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh. Chính vì lẽ đó tác giả đã chọn đề tài “Ứng dụng hệ thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi Nhánh Phú Thọ” làm luận văn tốt nghiệp, với hy vọng có thể giúp Chi nhánh Phú Thọ giảm bớt rủi ro phát triển vững vàng trong thời kỳ hội nhập. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài: Đề tài nghiên cứu những lý thuyết cơ bản về nghiệp vụ XHTD Phân tích thực trạng hoạt động XHTD nội bộ nhằm hạn chế RRTD tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Phú Thọ. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống XHTD nội bộ nhằm hạn chế RRTD của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Phú Thọ 3. Phương pháp nghiên cứu đề tài: Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả dùng phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh để phân tích và làm rõ những vấn đề của luận văn. 2 Nguồn dữ liệu được thu thập từ các báo cáo của VCB tại Hội sở chính, VCB Chi nhánh Phú Thọ, các tạp chí, các website có liên quan do chính tác giả tổng hợp và xử lý. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống XHTD nội bộ tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Phú Thọ trong khuôn khổ luận văn này tác giả chỉ nghiên cứu đối tượng XHTD là các DN. Phạm vi nghiên cứu tập trung vào các vấn đề liên quan đến hoạt động XHTD nội bộ tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Phú Thọ. 5. Bố cục của đề tài: Đề tài gồm 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận về XHTD nhằm hạn chế RRTD - Chương 2: Thực trạng công tác XHTD doanh nghiệp nhằm hạn chế RRTD tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Phú Thọ. - Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống XHTD DN nhằm hạn chế RRTD tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Phú Thọ. 3 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG NHẰM HẠN CHẾ RRTD 1.1. KHÁI NIỆM VỀ TÍN DỤNG VÀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG. 1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của các tổ chức XHTD Những tổ chức xếp hạng tín nhiệm đầu tiên xuất hiện tại Mỹ, nơi thị trường trái phiếu phát triển bậc nhất, dựa vào sự lớn mạnh của các công ty đường sắt mà hầu hết là các công ty tư nhân cùng với sự phát triển của các công ty tiện ích công cộng, những đối tượng này thường có nhu cầu lớn về vốn. Bên cạnh đó do mức thu nhập của người dân Mỹ tăng nhanh, góp phần vào sự phát triển của thị trường nợ, và gián tiếp thúc đẩy sự lớn mạnh của các tổ chức định mức tín nhiệm. Năm 1909, việc xếp hạng các chứng khoán được bắt đầu với công ty John Moody chuyên xếp hạng các trái phiếu đường sắt. Một năm sau đó, Moody’s bắt đầu xếp hạng các trái phiếu công nghiệp và tiện ích công cộng. Công ty Standard & Poor bắt đầu xếp hạng các công cụ nợ vào năm 1922 và Fitch Investors Service (Fitch’s) cũng được thành lập vào năm này. Tuy nhiên, xếp hạng tín nhiệm chỉ phát triển nhanh ở Mỹ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933; thời kỳ này thị trường nợ có quá nhiều hàng hóa, từ trái phiếu liên bang, trái phiếu địa phương, đến trái phiếu công ty đều phát triển theo cấp số nhân và hàng loạt các nhà phát hành trái phiếu bị phá sản, vỡ nợ. Giai đoạn từ 1940 đến 1970, các tổ chức này hoạt động tương đối ổn định, thị trường nợ hoạt động tương đối an toàn và không có bước đột biến. Trong suốt 50 năm ra đời, việc xếp hạng tín nhiệm chủ yếu phát triển trong phạm vi nước Mỹ. Trước năm 1970, ngay cả các công ty định mức tín nhiệm hàng đầu cũng chỉ có một nhóm nhân viên phân tích. Từ sau năm 1970, cùng với sự phát triển của kinh tế thế giới, bản thân các công ty đã bắt đầu xuất hiện nhóm các nhà 4 phân tích tín dụng, hoạt động xếp loại tín dụng lại khởi sắc phát triển mạnh mẽ và được cộng đồng thế giới chú ý. Ngày nay, với tiến trình toàn cầu hóa thị trường chứng khoán, nền kinh tế thế giới ngày một mạnh hơn, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm của Mỹ hoạt động ở các thị trường tài chính lớn trên khắp thế giới cũng như ở rất nhiều thị trường chứng khoán mới nổi. Và các tổ chức định mức tín nhiệm này đã được thừa nhận rộng rãi hơn ở thị trường vốn quốc tế. Đặc biệt, các nhà đầu tư ở các thị trường phát triển thường đòi hỏi phải có việc xếp hạng tín nhiệm để họ có thể mua các trái phiếu quốc tế. Điều này đã phản ánh rõ trong việc gia tăng con số của các tổ chức định mức tín nhiệm hoạt động tại New York, Tokyo, London và gần đây nhất là Hongkong. Các tổ chức định mức tín nhiệm tầm cỡ quốc tế đã thiết lập chi nhánh của mình ở các thị trường mới nổi là nơi đang rất cần đến việc xếp hạng tín nhiệm đối với các công ty đóng trên địa bàn ở các quốc gia đó. Trong những năm gần đây, các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia công nghiệp hóa mới NICs (Newly Industrialized Countries) và các nước đang phát triển ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của các cơ quan định mức tín nhiệm đối với sự phát triển của thị trường trái phiếu và tiền tệ. Những nền kinh tế năng động ở Đông Á cho thấy những thị trường trái phiếu mới xuất hiện ở đây tương đối phát triển, phần lớn là do Chính phủ tại các nước này đã có những phản ứng tích cực đối với sự phát triển của cơ cấu thị trường tài chính, bao gồm cả việc thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm. Ở một số nước, xếp hạng tín nhiệm được áp dụng cho đối tượng vay vốn ngân hàng, bằng cách xây dựng hệ thống chấm điểm XHTD khách hàng nội bộ. 1.1.2 Khái niệm về tín dụng Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ latinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong cuộc sống thì thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. 5 Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng của ngân hàng thì tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, DN và các chủ thể khác). Trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 1.1.3 Khái niệm về XHTD Xếp hạng tín nhiệm (credit ratings) là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Anh (credit: sự tín nhiệm; ratings: sự xếp hạng) do John Moody đưa ra vào năm 1909 trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán đường sắt” khi tiến hành nghiên cứu, phân tích và công bố bảng xếp hạng tín nhiệm lần đầu tiên cho 1500 loại trái phiếu của 250 công ty theo một hệ thống ký hiệu gồm ba chữ cái ABC được xếp lần lượt từ “Aaa” đến “C” (hiện nay những ký hiệu này đã trở thành chuẩn mực quốc tế), (tham khảo phụ lục số 01). Chúng ta có thể điểm qua một số định nghĩa về xếp hạng tín nhiệm như sau: Theo Bohn, John A viết trong cuốn “Phân tích rủi ro trên các thị trường đang chuyển đổi” thì “xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá về khả năng một nhà phát hành có thể thanh toán đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán trong suốt thời gian tồn tại của nó”. Theo định nghĩa của công ty chứng khoán Merrill Lynch thì “xếp hạng tín nhiệm là đánh giá hiện thời của công ty xếp hạng tín nhiệm về chất lượng tín dụng của một nhà phát hành chứng khoán nợ, về một khoản nợ nhất định. Nói khác đi, đó là cách đánh giá hiện thời về chất lượng tín dụng đang được xem xét trong hoàn cảnh hướng về tương lai, phản ánh sự sẵn sàng và khả năng nhà phát hành có thể thanh toán gốc và lãi đúng hạn. Trong kết quả xếp hạng tín nhiệm chứa đựng cả ý kiến chủ quan của chuyên gia xếp hạng tín nhiệm”. Theo tự điển thị trường chứng khoán thì “xếp hạng tín nhiệm là cách ước tính chính thức tín nhiệm từ trước đến nay của cá nhân hay công ty về khả năng chi 6 trả, bao gồm tất cả các số liệu kiểm tra, phân tích, hồ sơ lưu trữ về khả năng trách nhiệm tín dụng của cá nhân và công ty kinh doanh”. Theo công ty Moody’s thì “xếp hạng tín nhiệm là ý kiến về khả năng và sự sẵn sàng của một nhà phát hành trong việc thanh toán đúng hạn cho một khoản nợ nhất định trong suốt thời hạn tồn tại của khoản nợ”. Theo định nghĩa của Viện nghiên cứu Nomura (Nomura Research Institute): “xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá hiện thời về mức độ sẵn sàng và khả năng trả nợ (gốc, lãi) đối với chứng khoán nợ của một nhà phát hành trong suốt thời gian tồn tại của chứng khoán đó.” Như vậy “xếp hạng tín nhiệm” là sự đánh giá hiện thời về năng lực tài chính, tình hình hoạt động hiện tại và triển vọng phát triển trong tương lai của DN được xếp hạng, từ đó xác định được mức độ rủi ro không trả được nợ trong hiện tại và khả năng trả nợ trong tương lai. Hầu hết các công ty lớn và các tổ chức cho vay tại nhiều nước trên thế giới đều thiết lập bảng xếp hạng tín nhiệm đối với các khách hàng hiện tại cũng như tương lai của họ, theo phương pháp chấm điểm tín dụng hay còn gọi là XHTD. Với phương pháp XHTD thì đối tượng sử dụng thông tin thường là ngân hàng, các định chế tài chính, (bảng thông tin xếp hạng về người vay không được sử dụng rộng rãi), việc XHTD được sử dụng để bảo vệ lợi ích cho các tổ chức cho vay. Khái quát thì XHTD là thuật ngữ sử dụng chung cho các nhà đầu tư, các ngân hàng, các Công ty tài chính và được hiểu như sau: XHTD là việc đưa ra nhận định về mức độ tín nhiệm đối với trách nhiệm tài chính; hoặc đánh giá mức độ RRTD bao gồm năng lực đáp ứng các cam kết tài chính, khả năng dễ bị vỡ nợ khi các điều kiện kinh doanh thay đổi, ý thức và thiện chí trả nợ của người đi vay. 7 1.1.4 Rủi ro tín dụng 1.1.4.1 Khái niệm rủi ro tín dụng: Thực tế, bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng gặp phải rủi ro mà trong đó kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh thường hay xảy ra rủi ro nhất. Rủi ro liên quan đến việc cung cấp các sản phẩm, các dịch vụ tài chính đặc trưng, nên đôi khi một sai sót nhỏ cũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự sống còn của một ngân hàng. Rủi ro hiện hữu khách quan trong các mặt nghiệp vụ của ngân hàng: thanh toán, tín dụng, tiền gửi... RRTD trong hoạt động ngân hàng: là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. 1.1.4.2 Các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng  Nguyên nhân khách quan Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công… những ngành này vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, do đó nó dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì chịu ảnh hưởng bởi “chế độ bảo hộ mậu dịch của các nước” làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các DN. Ngành thủy sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá cá da trơn của các DN Việt Nam khi vào thị trường Mỹ thời gian vừa qua đã thế các mặt hàng xuất khẩu của nước ta ra các nước khác gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt bởi các mặt hàng có xuất xứ từ Trung Quốc. Không chỉ xuất khẩu mà cả các mặt hàng nhập khẩu cũng bị tổn thương không kém, điển hình như các mặt hàng nhựa, phân bón, các chế phẩm từ dầu mỏ, 8 nguyên liệu chủ yếu nhâp khẩu, cũng chịu ảnh hưởng rất lớn khi giá dầu mỏ trên thị trường thế giới biến động. Trong thời gian qua, nước ta đã diễn ra sự phát triển một cách tự phát giữa các ngành, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý về phân công lao động, chuyên môn hoá lao động, về vốn, vai trò của các hiệp hội ngành nghề và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước chưa được phát huy. Điều này dẫn đến sự gia tăng vốn đầu tư vào một số ngành, gây nên khủng hoảng thừa, lãng phí nguồn tài nguyên quốc gia. Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế: Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các DN là khách hàng của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và phá sản, điều này khiến DN gặp nhiều trở ngại trong kinh doanh và có thể tăng tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng. Bên cạnh đó, môi trường hội nhập kinh tế, sự cạnh tranh giữa các NHTM trong nước và nước ngoài cũng gặp nhiều trở ngại, khi một bên là các ngân hàng phát triển bền vững với độ dày kinh nghiệm hằng trăm năm với sản phẩm đa dạng, hiện đại. Còn một bên là non yếu, hệ thống quản lý đơn giản, sản phẩm đơn điệu nghèo nàn lạc hậu, thiếu kinh nghiệm dễ đi đến nguy cơ thua thiệt do cách quản lý của ngân hàng đối với khách hàng, cách thẩm định cho vay, cách XHTD nội bộ chưa theo chuẩn Basel II. Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật, nhằm hướng dẫn các NHTM thi hành thực hiện chủ trương liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Mặc dù luật và các văn bản dưới luật đã có, song việc triển khai đi vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp gặp nhiều vướng mắc bất cập như văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: Trong những hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý TSĐB nợ 9 vay. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao TSĐB cho ngân hàng để xử lý hoặc chuyển TSĐB nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng. Cuối cùng đưa đến hệ quả là việc thanh lý tài sản mất rất nhiều thời gian, chi phí, công sức. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát của NHNN chưa đạt hiệu quả, chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng yêu cầu đối với một cán bộ kiểm tra, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp cơ bản, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý những vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro vi phạm. Do vậy có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, cũng như chưa có biện pháp ngăn chặn kịp thời, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống, mà lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu, nếu bộ máy thanh tra kiểm tra phát hiện và xử lý sớm hơn. Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN hoạt động đã quá một thập niên, bước đầu đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng của các DN, nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm DN một cách độc lập và hiệu quả. Thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin. Đây cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng, thông tin còn bất cập. Nếu các ngân hàng vẫn quyết tâm chạy theo doanh số đạt chỉ tiêu cho vay đế lập thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không đầy đủ 10 thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các DN gian lận lừa đảo.  Nguyên nhân chủ quan Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay Đa số các DN khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể khả thi. Số lượng các DN sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các DN khác. Khả năng quản lý kinh doanh kém: các DN vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất, chứ ít DN nào mạnh dạn đổi mới phương thức quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng các chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá lớn, so với khả năng quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế. Tình hình tài chính DN yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các DN Việt Nam. Bên cạnh đó việc tuân thủ các chuẩn mực kế toán chưa được các DN thực sự chú trọng; phần lớn còn sơ sài mang tính hình thức, đối phó với các cơ quan chức năng, chưa phản ánh được thực tế hoạt động. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của DN dựa trên số liệu do các DN cung cấp, thường thiếu tính xác thực. Đây chính là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống RRTD. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng, kiểm tra nội bộ có ưu điểm hơn so với thanh tra NHNN vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của cán bộ giám sát tuân thủ, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Tuy nhiên hoạt động kiểm tra 11 giám sát ở một số ngân hàng chỉ có tính hình thức, chưa đi sâu vào nội dung công việc và năng lực kiểm tra viên chưa cao. Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay; Bản thân CBTD chưa thật sự sâu sát tình hình hoạt động tại DN; chỉ chú trọng nhiều vào TSĐB, nên đã chủ quan trong công tác giám sát, quản lý, theo dõi và thu hồi nợ. Việc giám sát hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng thường thực hiện 3 đến 6 tháng một lần. Tuy nhiên trong thời gian qua việc kiểm tra sử dụng vốn chỉ thực hiện theo cách đối phó, nặng về hình thức. Điều này xáy ra một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các DN quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà ngân hàng yêu cầu. Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian qua đều có liên quan đến cán bộ NHTM đó là sự tiếp tay của cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Chúng ta đành chấp nhận một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng nếu tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN chưa thực sự phát huy hiệu quả, thông tin của khách hàng quá sơ sài, trong khi đó kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt, huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay. Do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không loại trừ một ngân hàng nào. 12 1.1.4.3 Ảnh hưởng của RRTD đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nền kinh tế xã hội:  Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng Khi RRTD xảy ra, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, vòng quay vốn tín dụng bị thu hẹp làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Kết quả là thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh không những giảm trong thị trường nội địa mà còn lan rộng ra các nước, kết quả kinh doanh của ngân hàng ngày càng xấu dẫn ngân hàng đến thua lỗ hoặc đến bờ vực phá sản nếu không có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.  Ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức, DN và cá nhân có nhu cầu vay lại. Thực chất quyền sở hữu những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi RRTD xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của DN, các DN không có vốn để trang trải các chi phí sản xuất kinh doanh, hoạt động bị ngưng trệ. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động toàn bộ nền kinh tế, làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, RRTD cũng ảnh hưởng đến hoạt động nền kinh tế trong nước nói riêng và thế giới nói chung. Kinh nghiệm cho thấy thời gian qua với cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997) và gần đây là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008). Do mối liên hệ về tiền tệ, tài chính đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh, nên RRTD tại một nước lớn sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế các nước liên quan. 13 Tóm lại, RRTD của các DN xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau: nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, DN sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống DN nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị DN phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay. 1.1.5 Sự cần thiết của XHTD. 1.1.5.1 XHTD là cơ sở để quản trị rủi ro tín dụng Việc quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo điều 6 của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN chủ yếu dựa vào thời gian quá hạn, qua phân loại năm nhóm nợ, thiếu hẳn sự đánh giá kết hợp các yếu tố về tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của DN dẫn đến sự đánh giá sai lệch về nợ xấu của ngân hàng khi khách hàng thực hiện đảo nợ, vay tiền ngân hàng này trả nợ ngân hàng khác... Việc phân loại nợ chỉ phụ thuộc vào tình hình trả nợ, mà không dựa vào việc đánh giá uy tín tín dụng và năng lực của người đi vay sẽ dẫn tới tình trạng ngân hàng và người vay thông đồng với nhau để che đậy tổn thất bằng nhiều phương pháp khác nhau như cơ cấu lại khoản vay, dàn xếp việc đáo hạn ngân hàng. Bên cạnh đó các khoản nợ xấu không được đánh giá đúng mức, dự phòng tổn thất khoản vay sẽ không đủ, thu nhập ròng và vốn của ngân hàng không phản ánh đúng thực tế tình hình tài chính của ngân hàng . Theo Hiệp ước Basel II để đo lường và tính toán hệ số rủi ro đối với các mục tài sản có RRTD thì các ngân hàng cần phải dựa trên XHTD hoặc xếp hạng tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng, chứ không áp dụng chung chung cùng một hệ số rủi ro cho tất cả các khách hàng (tham khảo phụ lục số 02). Xây dựng hệ thống XHTD nội bộ và phân loại nợ theo kết quả XHTD giúp ngân hàng đánh giá đúng tình trạng khoản vay, thể hiện sự tiến bộ trong công tác quản trị rủi ro từng bước đưa quy trình quản lý theo Hiệp ước Basel II vào hoạt động kinh doanh. Xác định tổn thất ước tính, ngân hàng sẽ thực hiện được thêm các mục tiêu: 14 - Xác định xác suất vỡ nợ giúp ngân hàng nâng cao được chất lượng của việc giám sát và tái xếp hạng khách hàng sau khi cho vay - Tăng cường khả năng quản trị nhân sự, cụ thể là đội ngũ CBTD. Để đánh giá khả năng của CBTD, không những chỉ có chỉ tiêu dư nợ, số lượng khách hàng mà phải đặc biệt quan tâm đến chất lượng của các khoản tín dụng được cấp. - Giúp ngân hàng xác định chính xác giá trị khoản vay, phục vụ hiệu quả cho việc chứng khoán hóa các khoản vay sau này. Đây cũng là xu hướng hiện nay của các NHTM, vì đây là công cụ hiệu quả nhất để san sẻ rủi ro và tạo tính linh hoạt trong quản lý danh mục đầu tư các khoản vay. 1.1.5.2 XHTD nhằm phân loại khách hàng cho vay và là cơ sở xây dựng chiến lược marketing hiệu quả. Thực tế đã chứng minh hệ thống XHTD như là một phương pháp lượng hóa mức độ RRTD của khách hàng, thông qua quá trình phân tích các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính tại thời điểm khách hàng đề nghị vay vốn. Một trong những khó khăn của các ngân hàng hiện nay là khả năng tiếp cận và xử lý thông tin đối với khách hàng vay vốn. Trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, việc tiếp cận thông tin chậm hoặc xử lý thông tin không tốt cũng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng mà ngân hàng sẽ gặp phải. Do đó việc tổng hợp và xử lý thông tin tốt không những sẽ giúp ngân hàng đánh giá được khả năng của DN trong hiện tại mà còn giúp ngân hàng có thể dự đoán được những rủi ro phát sinh trong tương lai. Hệ thống XHTD DN dựa trên thông tin thu thập được qua một chuỗi thời gian sẽ đáp ứng được yêu cầu nói trên, cung cấp cho ngân hàng một cái nhìn tổng quan về tình trạng của DN cả trong ngắn hạn và dài hạn, góp phần giảm bớt rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Sau khi phân tích, xếp hạng và kết quả xếp hạng là căn cứ để xác định đối tượng cho vay, lãi suất cho vay, thời hạn cho vay cũng như các điều kiện về đảm bảo khoản vay nhằm ngăn ngừa những rủi ro có thể phát sinh. Bên cạnh đó, kết quả 15 XHTD khách hàng cũng giúp cho ngân hàng đưa ra những chính sách cho vay phù hợp với các đối tượng khách hàng tương ứng với các loại hình vay khác nhau. 1.1.5.3 Cơ sở phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro. Ngày 25/4/2007, NHNN đã ban hành Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, quyết định này định hướng các tổ chức tín dụng về việc xây dựng một hệ thống XHTD nội bộ, để hỗ trợ công tác phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro. Điều này giúp CBTD thực hiện phân loại khách hàng và phân loại nợ một cách trung thực hơn, phản ánh đúng năng lực tín dụng thực tế của khách hàng, tạo cơ sở cho ngân hàng xây dựng Quỹ dự phòng RRTD chính xác và hiệu quả. Với Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của NHNN, các khoản tín dụng của NHTM có thể được phân loại theo hai phương pháp định tính và định lượng. Về cơ bản, việc phân loại nợ theo điều 6 chỉ dựa trên đánh giá khả năng trả nợ của từng khoản vay riêng lẻ, còn việc phân loại nợ theo điều 7 là đánh giá toàn diện năng lực tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng. Bảng 1.1: Sự khác biệt giữa phương pháp phân loại nợ theo điều 6 và điều 7 của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN Phân loại nợ theo điều 6 Phương pháp phân loại nợ chung cho mọi khách hàng Phân loại nợ theo tình trạng khoản nợ (chủ yếu) Phân loại nợ theo thông tin định tính (hỗ trợ) Có thời gian thử thách đối với các khoản nợ trước đó bị quá hạn, bị cơ cấu Phân loại nợ theo điều 7 Phương pháp phân loại nợ riêng biệt cho từng nhóm khách hàng Phân loại nợ theo kết quả XHTD nội bộ (chủ yếu) Phân loại nợ theo tình trạng khoản nợ (hỗ trợ) Không có thời gian thử thách đối với các khoản nợ trước đó bị quá hạn, bị cơ cấu Khách hàng bị giải thể, phá sản, cá Khách hàng bị giải thể, phá sản, cá nhân chết, mất tích: không quy định cụ nhân chết, mất tích: Nhóm 5 thể vào nhóm nào Số ngày quá hạn để phân nhóm nợ Số ngày quá hạn để phân nhóm nợ chung cho mọi khách hàng riêng biệt cho từng nhóm khách hàng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng