Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Triển vọng hình thành cộng đồng kinh tế đông á và tác động của nó tới sự phát tr...

Tài liệu Triển vọng hình thành cộng đồng kinh tế đông á và tác động của nó tới sự phát triển của việt nam

.PDF
233
43
141

Mô tả:

Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới Đề tài khoa học cấp nhà nước KX.01.06/06-10 TRIỂN VỌNG HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM (Báo cáo tổng hợp) Chủ nhiệm: PGS. TS. Lưu Ngọc Trịnh Hà Nội, tháng 3 năm 2010 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ABFI ABMI ACFTA ACMECS : Sáng kiến Quỹ Trái phiếu châu Á : Sáng kiến Thị trường Trái phiếu châu Á : Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Trung Quốc : Chiến lược Hợp tác Kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya Mekong ACU : Đơn vị Tiền tệ châu Á ADB : Ngân hàng Phát triển châu Á AEC : Cộng đồng Kinh tế ASEAN AFTA : Khu vực Thương mại Tự do ASEAN AIA : Khu vực Đầu tư ASEAN AMBDC : Hợp tác Phát triển Lưu vực Sông Mekong AMF : Quỹ Tiền tệ châu Á APEC : Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương ASEAN : Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á ASEAN+1 : ASEAN và một nước đối tác ASEAN+3 : ASEAN và Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc ASEAN+6 : ASEAN và Australisa, Ấn Độ, Hàn Quốc, New Zealand, Nhật Bản, Trung Quốc ASEM : Diễn đàn Hợp tác Á-Âu BIMP-EAGA : Khu vực phát triển Đông ASEAN Brunei - Indonesia Malaysia - Philippines BIMSTEC : Sáng kiến hợp tác kinh tế và kỹ thuật đa ngành Vịnh Bengal BFTA : FTA song phương CEP : Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện CEPEA : Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Đông Á CJKFTA : Hiệp định Thương mại Tự do Trung Quốc-Nhật Bản-Hàn Quốc CGE : Mô hình cân bằng tổng thể có thể tính toán được CLMV : Campuchia, Lào, Myanma, Việt Nam CMI : Sáng kiến Chiang Mai EAEC : Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử châu Âu EAFTA : Khu vực Thương mại Tự do Đông Á EAS EAVG EC ECSC EEC EHP EL EMEAP EMU EPA EPG EPU ERIA EU EVSL EWEC FEALAC G7 G20 GATT GDP GMS GNP FDI FTA IAI IMF IMT-GT JSG MECOSUR NAFTA NEAT NIE : Hội nghị Cấp cao Đông Á : Nhóm Tầm nhìn Đông Á : Cộng đồng châu Âu : Cộng đồng Than Thép Châu Âu : Cộng đồng Kinh tế châu Âu : Chương trình thu hoạch sớm : Danh mục loại trừ : Hội nghị các cán bộ điều hành của Ngân hàng trung ương khu vực Châu Á - Thái Bình Dương : Liên minh Tiền tệ châu Âu : Hiệp định đối tác kinh tế : Nhóm Nhân vật Nổi tiếng : Liên minh Nghị viện châu Âu : Viện nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á : Liên minh châu Âu : Tự nguyện tự do hóa sớm theo lĩnh vực : Hành lang Kinh tế Đông-Tây : Diễn đàn Hợp tác Đông Á - Mỹ Latinh : Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển : Nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới : Hiệp định Chung về Thuế quan và Mậu dịch : Tổng sản phẩm nội địa, tổng sản phầm quốc nội : Tiểu vùng Sông Mê Kông Mở rộng : Tổng sản phẩm quốc dân : Đầu tư trực tiếp nước ngoài : Hiệp định/khu vực thương mại tự do : Sáng kiến Hội nhập ASEAN : Quỹ Tiền tệ Quốc tế : Tam giác tăng trưởng Indonesia - Malaysia - Thailand : Nhóm Nghiên cứu Chuyên sâu : Thị trường Chung Nam Mỹ : Khu vực/Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ : Mạng lưới các cơ quan nghiên cứu Đông Á : Các nền kinh tế công nghiệp mới NK ODA OECD RIA SDR SL TAC TPP UNCTAD UNDP USD XK VAP WB WTO : Nhập khẩu : Hỗ trợ Phát triển Chính thức : Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế : Lộ trình Hội nhập ASEAN : Quyền Rút vốn Đặc biệt : Danh mục nhạy cảm : Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (của ASEAN) : Đối tác Xuyên Thái Bình Dương : Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển : Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc : Dollar Mỹ : Xuất khẩu : Chương trình Hành động Vientiane : Ngân hàng Thế giới : Tổ chức Thương mại Thế giới DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH Trang BẢNG Bảng 2-1: Tỷ trọng thương mại nội vùng trong tổng giá trị thương 20 mại của khu vực thời kỳ 1986-2006 Bảng 2-2: Quan hệ thương mại của các nước ASEAN và các nước 21 Đông Bắc Á Bảng 7.1: Các lựa chọn hội nhập khu vực (I) 158 Bảng 7.2: Các lựa chọn hội nhập khu vực (II) 159 Bảng 7.3: Xếp hạng mức độ phát triển cơ sở hạ tầng “cứng” của các 171 nước Đông Á trên toàn thế giới Bảng 7.4: So sánh các đặc trưng hậu cần của các nước/lãnh thổ ở 171 GMS HÌNH Hình 6.1: So sánh quy mô của ba khối kinh tế khu vực theo GDP 134 Hình 6.2: Tác động của EAEC tới các nước trong khu vực theo hai 145 kịch bản: hiệp định thương mại tự do Đông Á (EAFTA) và hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA) Hình 6.3: So sánh thời gian giao hàng quốc tế (ngày) 147 Hình 6.4: So sánh chỉ số hạn chế logistics 148 Hình 6.5: Chênh lệch về GDP vào năm 2025 giữa trường hợp có tác 151 động của phát triển cơ sở hạ tầng và không có PHẦN 1 GIỚI THIỆU I.1. Tính cần thiết của đề tài Hiện nay, quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa kinh tế đang tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Điều này không những được thể hiện ở xu hướng thị trường hóa đang trở thành xu hướng chủ đạo trên thế giới, mà còn thể hiện ở chỗ các quan hệ giao lưu buôn bán, đầu tư, viện trợ, chuyển giao công nghệ và sự dịch chuyển đan xen lẫn nhau của các dòng vốn và nhân lực. Cùng với việc các nền kinh tế quốc gia có quan hệ đan xen và ràng buộc chặt chẽ lẫn nhau và nền kinh tế thế giới ngày càng trở thành một thực thể thống nhất, thì các khối kinh tế khu vực cũng hình thành và cạnh tranh lẫn nhau, khiến cho các nền kinh tế ngoài khối bị tác động không nhỏ và không thể thờ ơ. Sau nhiều năm chậm chân so với các khu vực châu Âu và Bắc Mỹ trong việc hình thành các khối kinh tế được kết cấu chặt chẽ về mặt thể chế, gần đây, ở Đông Á (gồm cả Đông Bắc và Đông Nam Á) đang có những chuyển động hết sức mạnh mẽ và nhanh chóng để tiến đến các việc hình thành các khối kinh tế dưới các dạng khác nhau và ở các cấp độ và phạm vi liên kết chăt chẽ khác nhau (từ song phương đến nhóm nước và toàn khu vực, từ thương mại thuần tuý đến chỗ hợp tác kinh tế toàn diện, từ lỏng lẻo đến chỗ dần dần hình thành các khối kinh tế được gắn kết chặt chẽ lẫn nhau về mặt thể chế và hoạt động như một thực thể độc lập. Tiêu biểu trong số đó có xu hướng tiến đến 1 hình thành một khối kinh tế toàn khu vực gọi là Cộng đồng Kinh tế Đông Á. Nhiều năm qua, Việt Nam đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế quốc tế và khu vực và nhờ đó đã thúc đẩy được sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Đứng trước trào lưu hợp tác kinh tế mới trong khu vực, Việt Nam cần có sự nghiên cứu khẩn trương và cẩn thận, hiểu rõ được thực tế, biết được những thuận lợi và khó khăn mà thực thể đó gây ra, để có thể không những thích ứng (tận dụng được những lợi thế mà Khối đó mang lại và hạn chế được những khó khăn mà khối đó tạo ra để có thể tiếp tục phát triển bền vững), mà còn chủ động tham gia tích cực vào quá trình hình thành và phát triển của khối này trong tương lai. Ý tưởng nghiên cứu đề tài "Triển vọng hình thành Cộng đồng Kinh tế Đông Á và tác động của nó đến sự phát triển của Việt Nam" được hình thành trong bối cảnh như thế. I.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài này là dự báo về triển vọng hình thành Cộng đồng Kinh tế Đông Á (East Asia Economic Community - EAEC) và một số tác động chủ yếu của nó đối với kinh tế thế giới, khu vực và đặc biệt là đối với sự phát triển của Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ kiến nghị một số điều chỉnh chính sách và giải pháp thích ứng của Việt Nam. Để thực hiện được mục đích đó, đề tài sẽ: i) Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến hội nhập/liên kết kinh tế, và xu hướng hình thành các khối kinh tế khu vực và các hiệp định hợp tác kinh tế và mậu dịch song 2 phương hiện nay trên thế giới; ii) Làm rõ nhu cầu, điều kiện và khả năng, những thuận lợi và khó khăn của việc hình thành Cộng đồng kinh tế Đông Á; iii) Làm rõ vai trò và những ý đồ của một số nước lớn và nhóm nước đối với hợp tác kinh tế Đông Á nói chung và Cộng đồng kinh tế Đông Á nói riêng và các điều chỉnh chính sách chủ yếu của họ; iv) Trên cơ sở những phân tích trên, phác thảo một số nét cơ bản về lộ trình hình thành Cộng đồng Kinh tế Đông Á; v) Dự báo về triển vọng hình thành Cộng đồng kinh tế Đông Á, mô hình và thể chế vận hành của nó; những cơ hội và thách thức mà nó mang lại đối với nền kinh tế thế giới và khu vực; và vi) Dự báo một số tác động chủ yếu (cả tiêu cực lẫn tích cực) của việc hình thành Cộng đồng kinh tế Đông Á đến sự phát triển của Việt Nam. I.3. Phạm vi nghiên cứu I.3.1. Đông Á Trong kinh tế và kinh doanh, Đông Á, như được sử dụng khi nói tới sự Thần kỳ Đông Á, bao gồm Nhật Bản, các nước/lãnh thổ mới công nghiệp hóa (Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore), Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.1 Báo cáo này, khi bàn đến hội nhập kinh tế ở Đông Á nói chung, sẽ sử dụng cách hiểu Đông Á giống như trong kinh tế và kinh doanh. 1 Song, cần lưu ý rằng, nếu theo các cách tiếp cận khác (địa lý, văn hóa, nhân chủng học, địa chính trị, …), có thể có những cách xác định khác về phạm vi của Đông Á. Thậm chí cùng theo một cách xác định thì ở mỗi tổ chức hoặc ở mỗi nước, Đông Á lại cũng có thể được hiểu khác nhau. 3 Tuy nhiên, cần lưu ý là Hội nghị Cấp cao Đông Á - là cơ chế mà từ đó Cộng đồng Kinh tế Đông Á tương lai được xây dựng nên - lại có những thành viên nằm ngoài khu vực Đông Á theo cách hiểu trên như Ấn Độ, Australia, New Zealand (thành viên chính thức) và Nga (quan sát viên). I.3.2. Cộng đồng kinh tế Cộng đồng thường được hiểu là một tập thể cá nhân tồn tại trong cùng một môi trường; có chung những mối quan tâm, những lợi ích, những quan niệm, những nhận thức, những giá trị quan, những kế hoạch; chịu chung các tác động tới tính thống nhất của tập thể; có ý thức cộng đồng; cùng ra quyết định chung. Cộng đồng kinh tế là cộng đồng của hai hay nhiều nền kinh tế. Trong thế kỷ 20, các khối kinh tế tự nhận là cộng đồng được thành lập đầu tiên có lẽ là Cộng đồng Than Thép châu Âu (European Coal and Steel Community, thành lập vào năm 1952), Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (European Atomic Energy Community, 1957), Cộng đồng Kinh tế châu Âu (European Economic Community, 1957). Những cộng đồng kinh tế này được thành lập trên nguyên tắc của chủ nghĩa siêu quốc gia (supranationalism). Chủ nghĩa siêu quốc gia là phương thức ra quyết định của cộng đồng các quốc gia, trong đó quyền lực được ủy nhiệm cho một thể chế do các chính phủ các nước thành viên cùng thành lập. Từ ba cộng đồng trên, các nước châu Âu đã lập ra Cộng đồng châu Âu vào năm 1992, tiền thân của Liên minh châu Âu. Ngoài ra, hiện trên thế giới đã có các khối kinh tế tự nhận là cộng đồng sau được thành lập: Cộng đồng Caribbe, Cộng đồng Kinh tế Trung Phi, Cộng đồng 4 Kinh tế Tây Phi, Cộng đồng Kinh tế châu Phi, Cộng đồng Đông Phi, Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Tuy nhiên, không cộng đồng kinh tế nào trong số các cộng đồng mới này đang thực thi nguyên tắc chủ nghĩa siêu quốc gia như các cộng đồng kinh tế ở châu Âu. Điểm chung của các cộng đồng kinh tế là đều có liên kết kinh tế, thấp nhất là ở mức độ thương mại tự do. I.4. Khái quát tình hình nghiên cứu có liên quan Có rất ít nghiên cứu của nước ngoài đề cập đến tác động của việc hình thành Cộng đồng Kinh tế Đông Á và việc Việt Nam tham gia Cộng đồng tới sự phát triển của Việt Nam. Do xu hướng nghiên cứu theo chuyên sâu theo các chủ đề hẹp, nên các nghiên cứu có đề cập thì lại thường không đề cập đến toàn bộ các tác động. mà chỉ một tác động cụ thể nào đó. Việt Nam thường được đặt chung trong nhóm các nước ASEAN kém phát triển (nhóm CLMV) hoặc đặt chung trong Đông Á. Không có nghiên cứu nước ngoài nào lấy Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu duy nhất. Các nghiên cứu trong nước về liên kết Đông Á đã được công bố khá nhiều. Đáng chú ý có công trình do Đỗ Hoài Nam và Võ Đại Lược chủ biên công bố năm 2004 “Hướng tới cộng đồng kinh tế Đông Á”. Đây là tập hợp một loạt tham luận đã được trình bày tại một hội thảo quốc tế do Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới tổ chức, công trình chưa đề cập được một cách có hệ thống về nhu cầu, điều kiện, lộ trình thành lập, mô hình của Cộng đồng Kinh 5 tế Đông Á. Phần đánh giá về tác động của Cộng đồng tới kinh tế Việt Nam chủ yếu mới dừng ở tầm vĩ mô. Hội thảo quốc tế "Hướng tới Cộng đồng Đông Á: Cơ hội và thách thức" do Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, tổ chức tại Hà Nội tháng 9 năm 2005. Hội thảo này chủ yếu đề cập đến Cộng đồng Đông Á nói chung, chứ không phải là chuyên về Cộng đồng Kinh tế Đông Á, và trên thực tế đây là diễn đàn để các đại biểu (phần lớn là nước ngoài) nêu ra các quan điểm sơ bộ của mình về hợp tác Đông Á và những cơ hội và thách thức đối với các nước Đông Á, chứ không riêng gì của Việt Nam, nếu một Cộng đồng Đông Á được hình thành trong tương lai. Trừ tham luận của PGS.TS. Nguyễn Xuân Thắng (Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới), còn hầu hết các tham luận còn lại đều bàn chủ yếu đến những khía cạnh văn hóa, lịch sử và giá trị Đông Á mà chưa chú ý đến sự hợp tác kinh tế Đông Á hiện tại và các vấn đề liên quan đến Cộng đồng kinh tế Đông Á trong tương lai. Hội thảo quốc tế "Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc trong bối cảnh hội nhập Đông Á" do Viện nghiên cứu Đông Bắc Á (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức tại Bắc Ninh tháng 12 năm 2003 mới đề cập chủ yếu đến quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc hiện nay và triển vọng. Đề tài khoa học cấp bộ do Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á chủ trì, TS. Trần Quang Minh làm chủ nhiệm về “Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế” công bố năm 2007 chủ yếu đề cập đến quan điểm và hoạt động hội nhập Đông Á của Nhật Bản. Còn về hợp tác 6 kinh tế ở khu vực Đông Bắc Á, thì hội thảo và đề tài trên mới chỉ đề cập đến như là một môi trường tác động đến mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước Việt Nam và Hàn Quốc, còn Cộng đồng kinh tế Đông Á hầu như chưa được đề cập gì. Tiếp cận chủ đề liên kết Đông Á qua hướng nghiên cứu về hợp tác ASEAN+3 có đề tài cấp bộ do Viện nghiên cứu Đông Nam Á (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) chủ trì, do PGS. TS. Nguyễn Thu Mỹ làm chủ nhiệm “Một số vấn đề cơ bản về hợp tác ASEAN+3” công bố năm 2008 và công trình của Nguyễn Khắc Nam (Khoa Quốc tế học, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, ĐHQG Hà Nội) “Hợp tác đa phương ASEAN + 3 - Vấn đề và triển vọng” cũng công bố năm 2008. Đề tài đầu tiên đã đề cập tương đối sâu về hợp tác kinh tế ASEAN+3, song lại không đề cập đến những vấn đề mà chúng tôi quan tâm như nhu cầu và điều kiện của việc hình thành Cộng đồng, lộ trình và mô hình của Cộng đồng, và đặc biệt đề tài còn ít đề cập đến tác động của việc hình thành Cộng đồng kinh tế Đông Á tới kinh tế Việt Nam. Công trình sau của Hoàng Khắc Nam chủ yếu bàn về hợp tác trong các lĩnh vực chính trị, văn hoá và xã hội, và ít đề cập đến lĩnh vực hợp tác kinh tế. Trần Văn Thọ trong công trình “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam” công bố năm 2005 đã đề cập đến một số hiện tượng đáng chú ý của kinh tế khu vực Đông Á như sự trỗi dậy của Trung Quốc, sự liên kết của khối ASEAN, sự nở rộ của các hiệp định thương mại tự do song phương. Từ đó, tác giả đã đánh giá tác động của các hiện tượng này tới kinh tế Việt Nam. 7 Tuy nhiên, công trình này không đề cập đến việc một khối kinh tế toàn Đông Á sẽ được hình thành như thế nào và tác động của nó tới sự phát triển của Việt Nam ra sao. Ngoài những dự án và hội thảo trên, các tổ chức và các nhà nghiên cứu ngoài Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới còn có một số hội thảo, viết một số bài báo và có một số tham luận khác bàn về những vấn đề có liên quan đến hợp tác Đông Á và Cộng đồng Đông Á. Tuy vậy, vấn đề hợp tác kinh tế Đông Á hiện tại và những vấn đề liên quan đến Cộng đồng kinh tế Đông Á trong tương lai, cũng như sự tham gia của Việt Nam vào tiến trình hình thành Cộng đồng này chưa được các tác giả Việt Nam đề cập đến một cách có hệ thống, toàn diện, sâu sắc và cụ thể, mà mới chỉ được đề cập thoáng qua trong các công trình bàn về các vấn đề hợp tác khu vực, ở các khía cạnh cụ thể khác như hợp tác văn hoá, an ninh, hay giá trị Đông Á hoặc quan hệ hợp tác kinh tế song phương giữa hai nước nào đó trong khu vực, chứ Cộng đồng kinh tế Đông Á như là một thực thể độc lập (hình thành, tiến triển và tác động như thế nào trong tương lai) chưa được hầu hết các công trình đề cập. Do đó, có thể nói, trong khoảng 5 năm qua, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) không những là một trong những Viện đi tiên phong mà còn là Viện nghiên cứu một cách khá tập trung, toàn diện và cụ thể quá trình hợp tác kinh tế Đông Á và việc hình thành và mô hình Cộng đồng kinh tế Đông Á trong tương lai và sự tác động của nó. Trên thực tế, Viện đã đạt được những kết quả nghiên cứu bước đầu khá tích cực và cụ thể. 8 I.5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của đề tài Cách tiếp cận của đề tài này là đặt sự phát triển của khu vực Đông Á nói chung, của Cộng đồng Kinh tế Đông Á nói riêng, trong sự phát triển chung của thế giới, trong dòng xoáy của xu thế toàn cầu hoá, của nền kinh tế tri thức đang diễn ra một cách mạnh mẽ, từng ngày, từng giờ tác động (cả tích cực lẫn tiêu cực) đến sự phát triển của các quốc gia, dân tộc. Trước tiên, cần giải quyết được những cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình hợp tác kinh tế Đông Á để thấy được tính tất yếu và hợp lý của quá trình này và hướng tiến triển của một khối kinh tế ở khu vực Đông Á trong tương lai. Đề tài xem xét sự tiến triển của hợp tác kinh tế Đông Á nói chung và Cộng đồng Kinh tế Đông Á nói riêng trong chính sách và chiến lược khu vực và toàn cầu của các nước lớn và nhóm nước, như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU, và ASEAN, để thấy được vai trò của các nước này trong việc hình thành Cộng đồng kinh tế Đông Á, cũng như tính phức tạp của sự tiến triển của sự hợp tác Đông Á cũng như của Cộng đồng này. Chỉ có dựa trên những cơ sở đó, mới có thể vạch ra được lộ trình và hình dung được mô hình tương lai có thể của Cộng đồng kinh tế Đông Á. Khi đánh giá về tác động tới sự phát triển của Việt Nam, đề tài đã xuất phát từ lợi ích quốc gia và dân tộc của Việt Nam cũng như tính cùng có lợi của sự hợp tác quốc tế và khu vực để xem xét quá trình hợp tác kinh tế Đông Á và Cộng đồng kinh tế Đông Á để có thể nghiên cứu được trúng vấn đề, đưa ra được những kiến nghị hợp lý và khả thi, để không những có thể giúp Việt Nam chủ động hội nhập sâu hơn 9 vào nền kinh tế quốc tế và khu vực, tham gia một cách tích cực vào tiến trình hình thành Cộng đồng Kinh tế Đông Á, mà còn có thể tiếp tục giữ vững đươc độc lập dân tộc và duy trì sự tăng trưởng cao và phát triển bền vững. Đề tài đã áp dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành để triển khai đề tài. Đề tài thu thập số liệu một các đầy đủ và có hệ thống từ nhiều nguồn khác nhau (các tổ chức nghiên cứu tư nhân, chính phủ, các tổ chức quốc tế, từ cả các nước trong và ngoài khu vực) để có thể có cái nhìn và đánh giá khách quan, toàn diện, đa chiều và khoa học đối với quá trình hợp tác khu vực và sự hình thành Cộng đồng Kinh tế Đông Á. Các phương pháp lịch sử cụ thể và so sánh sẽ được sử dụng để có thể hiểu rõ được vấn đề một cách cụ thể, có chiều sâu lịch sử, theo một quá trình, không những thấy được tính phổ biến mà còn thấy được những điểm đặc thù của hiện tượng hợp tác kinh tế Đông Á và Cộng đồng kinh tế Đông Á. Các phương pháp biện chứng và duy vật lịch sử sẽ được vận dụng để nghiên cứu vấn đề một cách sâu sắc, để hiểu được bản chất của quá trình liên kết kinh tế Đông Á, ý đồ thực sự của các thực thể tham gia liên kết. Trong khi đó, các phương pháp thống kê và phân tích hệ thống sẽ được sử dụng để có thể vạch ra được lộ trình và sự tiến triển của Cộng đồng kinh tế Đông Á, các kịch bản tương lai của nó và tác động có thể của nó đối với thế giới, khu vực và Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã tiến hành khảo sát thực địa và trao đổi thực tế tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc với một số học giả tại các trung tâm nghiên cứu lớn ở trong nước và quốc tế, tổ chức các hội thảo chung lẫn chuyên sâu về từng vấn đề để có thể tập hợp được các ý kiến rộng rãi 10 của các chuyên gia, hiểu kỹ hơn quan điểm của các nước và làm sâu sắc và hoàn chỉnh hơn quan điểm của Việt Nam về hợp tác kinh tế Đông Á và Cộng đồng Kinh tế Đông Á. Đồng thời, đề tài đã tiến hành khảo sát tại một vài địa phương trong nước (Hải Phòng, Quảng Ninh, Lào Cai, thành phố Hồ Chí Minh) để tìm hiểu nhu cầu và thực tiễn liên kết khu vực của các địa phương và doanh nghiệp, trao đổi ý kiến với các nhà khoa học về đề tài. I.6. Nội dung của báo cáo này Ngoài phần giới thiệu này, Báo cáo tổng hợp của đề tài bao gồm sáu phần. Phần 1 sẽ phân tích những nhu cầu (tức là những nhân tố thôi thúc thành lập Cộng đồng) và những điều kiện (tức là những yếu tố mà thiếu nó thì việc thành lập Cộng đồng sẽ gặp trở ngại). Phần 2 sẽ trình bày những thuận lợi và khó khăn đối với việc hình thành Cộng đồng Kinh tế Đông Á. Phần 3 trình bày vai trò của các nền kinh tế quốc gia đối với sự hình thành Cộng đồng Kinh tế Đông Á, trước hết là vai trò của các khối và nước dự kiến là thành viên của Cộng đồng (ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand), tiếp đó là vai trò của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Quan điểm của mỗi một nước, khối về liên kết kinh tế Đông Á nói chung và Cộng đồng Kinh tế Đông Á nói riêng sẽ được xem xét. Đồng thời, sự đóng góp của mỗi nước, khối vào việc hình thành Cộng đồng sẽ 11 được trình bày. Ngoài ra, quan hệ giữa APEC và Cộng đồng Kinh tế Đông Á cũng sẽ được xem xét và trình bày ở cuối phần này. Phần 4 khái quát về lộ trình và dự báo một số đặc điểm chủ yếu của mô hình của Cộng đồng Kinh tế Đông Á. Phần 5 bàn về những tác động có thể của việc hình thành Cộng đồng Kinh tế Đông Á tới thế giới, khu vực và đặc biệt là tới sự phát triển của Việt Nam. Tại phần 6, đề tài kiến nghị một hệ giải pháp gồm 10 điểm tới Chính phủ để Việt Nam có thể khai thác được những cơ hội mà việc thành lập Cộng đồng Kinh tế Đông Á và việc Việt Nam tham gia Cộng đồng này đem tới, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực. 12 PHẦN 2 NHU CẦU VÀ ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ĐÔNG Á II.1. Nhu cầu thành lập Cộng đồng kinh tế Đông Á II.1.1. Nhu cầu phát triển thể chế để phù hợp với liên kết trên thực tế Trên thực tế, liên kết kinh tế ở khu vực Đông Á đã phát triển mạnh, thể hiện ở thương mại nội bộ và đầu tư nội bộ khu vực. II.1.1.1. Thương mại nội bộ khu vực Thương mại nội bộ khu vực Đông Á đã tăng trưởng mạnh mẽ trong khoảng ba thập kỷ gần đây. Như Bảng 2-1 cho thấy, thương mại nội bộ khu vực (gồm ASEAN+3 và Hong Kong, Đài Loan) trong tổng kim ngạch thương mại toàn Đông Á đã tăng từ 37% năm 1980 lên 55% năm 2006. Tỷ lệ này tuy còn thấp hơn so với thương mại nội bộ của EU-15 trước đây (đạt mức cao nhất 66% năm 1990), song nó vượt chỉ số này của khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (49% năm 2001). Sự nhộn nhịp của thương mại nội bộ khu vực còn thể hiện khá mạnh ở con số thương mại giữa các nước ASEAN và Đông Bắc Á, như Bảng 2-2 cho thấy. Hầu hết các nước ASEAN có tỷ lệ xuất khẩu và nhập khẩu là khá cao đối với các nước Đông Bắc Á, từ 14% đến 31% đối với xuất khẩu và từ 24% đến gần 40% đối với nhập khẩu. Cùng với sự phát triển thương mại nội vùng, trao đổi thương mại của 13 Bảng 2-1: Tỷ trọng thương mại nội vùng trong tổng giá trị thương mại của khu vực thời kỳ 1986-2006. (Đơn vị: %) Khu vưc 1980 1985 1990 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 ASEAN+3 30,2 30,2 29,4 37,6 37,3 37,1 37,9 39,0 39,2 38,9 38,3 ASEAN+3+Hong 36,8 39,0 43,1 51,9 52,1 51,9 53,8 55,4 55,9 55,4 54,5 Kong+Đài Loan ASEAN+6 34,6 34,8 33,7 40,8 40,5 40,6 41,3 423,4 43,0 43,1 42,6 ASEAN+6+Hong 40,5 42,7 46,3 54,5 54,6 54,5 56,3 57,7 58,5 58,4 57,6 Kong+Đài Loan NAFTA 33,8 38,8 37,9 43,1 48,8 49,1 48,4 47,4 46,4 46,1 44,3 Mercosur 11,1 7,2 10,9 19,2 20,3 17,9 13,6 14,7 15,2 15,5 15,7 EU cũ 60,7 59,8 66,2 64,2 62,3 62,2 62,5 63,0 62,2 60,4 59,5 EU mới 61,5 60,0 66,8 66,9 66,3 66,7 67,4 68,1 67,6 66,2 65,8 Nguồn: Kawai, Masahiro & Ganeshan Wignarja (2007), “ASEAN+3 or ASEAN+6: Which Way Forward?” ADBI discussion paper 77. Ghi chú: - NIE-4 là 4 nước công nghiệp mới châu Á (Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore); - ASEAN+3 là toàn bộ khối ASEAN và Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc; - ASEAN+6 là ASEAN+3 và Austrlia, New Zealand, Ấn Độ. 14 Bảng 2-2: Quan hệ thương mại của các nước ASEAN và các nước Đông Bắc Á (Đơn vị: %) Nhật Bản Hàn Quốc Trung Quốc Ba nước Đông Bắc Á NK XK NK XK NK XK NK XK Indonesia 23,20 15,34 6,59 7,14 4,46 5,86 31,25 23,37 Malaysia 13,02 21,09 3,30 4,09 3,08 3,94 19,40 29,12 Singapore 7,34 16,42 3,47 3,42 3,79 5,04 14,60 24,88 Thái Lan 15,68 25,93 1,95 3,69 4,30 3,09 21,93 32,71 Philippine 14,68 19,02 3,07 7,42 1,74 2,42 19,49 28,86 Việt Nam 19,03 14,12 2,33 12,06 6,71 11,00 27,07 37,18 Nguồn: Theo The International Centre for the Study of East Asian Development, 2002. Ghi chú: XK là xuất khẩu; NK là nhập khẩu. Đông Á còn mang sắc thái nội ngành khá rõ rệt. Thương mại nội ngành theo chiều dọc, đặc biệt trong các sản phẩm chế tạo được mở rộng nhanh chóng. Hiện nay, phần lớn trao đổi thương mại các sản phẩm chế biến nội vùng ở Đông Á là theo chiều dọc và theo bản chất nội ngành. Các công ty đa quốc gia đã tạo ra các loại hình thương mại như vậy thông qua các hoạt động đầu tư định vị các quy trình sản xuất khác nhau ở các nước khác nhau theo năng lực công nghệ và lợi thế so sánh về các đầu vào sản xuất. Đó chính là nhân tố thúc đẩy thương mại nội ngành đối với các phụ tùng, phụ kiện, bán thành phẩm và thành phẩm trên khắp các nước trong khu vực. II.1.1.2. Đầu tư nội bộ khu vực Tỷ trọng FDI nội vùng vào Đông Á so với tổng vốn FDI vào Đông Á trong những năm 1999-2001 đã tăng từ 37% lên 40%. Bên cạnh Nhật Bản là 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan