Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Tổng hợp hoàn cảnh sáng tác và chủ đề của các tác phẩm ngữ văn trong chương trìn...

Tài liệu Tổng hợp hoàn cảnh sáng tác và chủ đề của các tác phẩm ngữ văn trong chương trình thi đh

.DOCX
22
159
138

Mô tả:

Tổng hợp hoàn cảnh sáng tác và chủ đề của các tác phẩm ngữ văn trong chương trình  thi ĐH Một vấn đề khá đơn giản nhưng lại rất cần thiết đề ghi  điểm trong các kì thi các bạn nhé! CHƯƠNG TRÌNH 12 CƠ BẢN Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tác, mục đích sáng tác  của tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” •Hoàn cảnh sáng tác:  ­ 19/08/1945 Chính quyền về tay nhân dân ở Hà Nội, ngày 26/08/1945 Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về đến Hà Nội, tại  căn nhà số 48 phố Hàng Ngang Hà Nội, Người soạn thảo  " Tuyên Ngôn Độc lập"­ ngày 02/09/1945 Người thay mặt  Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đọc bản  "Tuyên Ngôn Độc lập" tại Quảng trường Ba Đình. ­ Hồ Chí Minh viết và đọc tuyên ngôn khi đế quốc thực  dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta. Dưới danh nghĩa  quân đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, quân đội  Quốc dân đảng Trung Quốc tiến vào từ phía bắc; quân đội Anh tiến vào từ phía nam; thực dân Pháp theo chân đồng  minh, tuyên bố Đông Dương là đất “ bảo hộ” của Pháp bị  Nhật chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, Đông Dương phải  thuộc quyền của người Pháp. Tuyên Ngôn độc lập còn  đập tan những luận điệu xảo trá của bọn đế quốc Mỹ,  Anh, Pháp nhất là Pháp nhằm tái chiếm Đông Dương. ­ Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là lời tuyên bố với nhân  dân Việt Nam, mà còn tuyên bố với nhân dân thế giới, phe đồng minh và cả kẻ thù của dân tộc về quyền độc lập tự  do của dân tộc Việt Nam •Mục đích sáng tác: TNĐL tuyên bố trước quốc dân và thế giới về sự ra đời của nước VN DC CH đồng thờ đập tan  luận điệu xảo trá của bọn đế quốc Mĩ, Anh, Pháp. Câu 2: Hoàn cảnh ra đời, mục đích và chủ đề tác phẩm  “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của  dân tộc” •Hoàn cảnh sáng tác: Bài viết đăng trên tạp chí Văn học  số 7 ­ 1963 nhân kỉ niệm ngày mẩt của Nguyễn Đình  Chiểu (3/7/1888). •Mục đích sáng tác: ­ Kỉ niệm ngày mất của nhà văn tiêu biểu, người chiển sĩ  yêu nước trên mặt trận văn hoá và tư tưởng. ­ Tác giả bài viết này có ý nghĩa định hướng và điều chỉnh cách nhìn và chiểm lĩnh tác gia Nguyễn Đình Chiểu. ­ Thể hiện mối quan hệ giữa văn học và đời sống giữa  người nghệ sĩ chân chính và hiện thực cuộc đời ­ Đặc biệt nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước thương nòi  của dân tộc. •Chủ đề: Qua bài viết, tác giả khẳng định, cuộc đời của  NĐC Là cuộc đời của người chiến sỹ đã phấn đấu hết  mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phòng dân tộc. Sự  nghiệp thơ ca của ông là minh chứng hùng hồn cho vị trí  và tác dụng to lớn của văn học nghệ thuật cũng như trách  nhiệm của người cầm bút trước cuộc đời. Cuộc đời và sự  nghiệp của NĐC không chỉ là bài học cho hôm nay mà  cho cả mai sau. Câu 3: Hoàn cảnh sáng tác, mục đích, nội dung của văn  bản “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS,  1/12/2003” •Hoàn cảnh sáng tác: Cô­phi An­nan viết văn bản này gửi  nhân dân toàn thể giới nhân ngày thế giới phòng chống  AIDS 1/12/2003. •Mục đích sáng tác: ­ Trong khi dịch HIV/AIDS hoàn hành, có ít dấu hiệu suy  giảm. Nhất là các nước Đông Âu, toàn bộ châu Á, từ dãy  núi U­Ran đến Thái Bình Dương. ­ Mục đích kêu gọi các cá nhân và mọi người chung tay  góp sức ngăn chặn hiểm hoạ, nhận thấy sự nguy hiểm  của đại dịch này. ­ Triển khai chương trình chăm sóc toàn diện ở mọi nơi. ­ Các quốc gia phải đặt vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu  trong chương trình nghị sự về chính trị. •Nội dung ­ HIV/ AIDS là nạn đại dịch gây tỉ lệ tử vong cao, tốc độ  lây lan nhanh và chưa tìm ra thuốc đặc hiệu điều trị, trở  thành hiểm hoạ cho đời sống nhân loại. ­ Là người đứng đầu tổ chức quốc tế lớn nhất, Cô­ phi An­ nan kêu gọi các quốc gia và toàn thể nhân dân thế giới  nhận thấy sự nguy hiểm của đại dịch này và tích cực  chung tay góp sức ngăn chặn, đẩy lùi hiểm hoạ. Câu 4: Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến •Hoàn cảnh sáng tác: Quang Dũng là nhà thơ tài hoa tinh thông nhiếu lĩnh vực  nghệ thuật nhưng nổi bật hơn cả là thơ ca. Thơ ông thể  hiện cái tôi hào hoa thanh lịch, giàu chất lãng mạn. Nhắc  đến Quang Dũng ta không thể quên "Tây Tiến" một thi  phẩm đặc sắc trong đời thơ của ông. Bài thơ có hoàn  cảnh ra đời dưới đây: 1. Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, Quang Dũng  gia nhập bộ đội. Năm 1947, ông tham gia đoàn quân Tây  Tiến với chức vụ đại đội trưởng. 2. Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm  vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu  Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Ngày  ấy nơi đây còn rất hoang vu, hiểm trở, núi cao sông sâu. 3. Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến năm ấy  chủ yếu là học sinh, trí thức ra đi từ những mái trường, từ  phố phường Hà Nội chiến đấu trong những hoàn cảnh rất  gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, chết vì sốt rét  nhiều hơn là vì súng đạn. Tuy vậy, các anh vẫn phơi phới  tinh thần lạc quan anh hùng. 4. Người lính mang trong mình sự trẻ trung khoẻ khoắn,  hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa cháy bỏng lí tưởng “quyết  tử cho tổ quốc quyết sinh” vừa mang trong mình nét lãng  mạn mộng mơ. Nét độc đáo này của người lính "Tây Tiến" đã thực sự làm hồn thơ Quang Dũng rung động. 5. Cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác,  khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả bồi  hồi nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở  đơn vị cũ trong những tháng năm ở miền biên cương Tây  Bắc. Những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ấy đã rung lên những dây tơ xúc cảm trong tâm hồn nhà thơ viết nên  bài thơ "Tây Tiến". Bài thơ ban đầu có tựa đề “Nhớ Tây  Tiến" in trong tập thơ “Mây Đầu Ô” •Chủ đề: Qua bài thơ, tác giả Quang Dũng ca ngợi vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, cũng là vẻ đẹp của những người  lính trong kháng chiến chống Pháp. Qua đó còn thể hiện  tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với  cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gắn bó. Câu 5: Nêu hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài Việt Bắc * Hoàn cảnh sáng tác: ­ Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững  chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở đùm bọc cho  Đảng, Chính Phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng  chiến chống Pháp gian khổ. Sau chiến thắng Điện Biên  Phủ,Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của  Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà  Nội. Nhân sự kiện trọng đại này, Tố Hữu viết bài thơ Việt  Bắc. ­ Bài thơ viết tháng 10 /1954, được in trong tập Việt Bắc  (1947 ­ 1954) * Chủ đề: VB là khúc tình ca về cách mạng, về kháng  chiến mà cội nguồn sâu xa là tình yêu đất nước, niềm tự  hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa,  đạo lý thuỷ chung của dân tộc. Câu 6: Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề đoạn trích “Đất  nước” • Hoàn cảnh sáng tác: ­ Trường ca “Mặt đường khát vọng” Hoàn thành ở chiến  khu Trị ­Thiên năm 1971 và in lần đầu năm 1974..  ­ Thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền Nam,  giúp thanh niên vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm  lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân đất nước, ý  thức được sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu  tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. ­ Đoạn trích nằm ở phần đầu chương V của trường ca • Chủ đề: Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ  trữ tình – Chính trị, đoạn trích đã quy tụ mọi cảm nhận,  mọi cái nhìn, quy tụ vốn liếng sách vở cũng như trải  nghiệm cá nhân của người nghệ sỹ để làm nên một tuyên  ngôn về tư tưởng, đó là tư tưởng “Đất nước là của Nhân  Dân” Câu 7: Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài “Sóng” • Hoàn cảnh sáng tác: ­ Sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển  Diêm Điền (Thái Bình). In trong tập Hoa dọc chiến hào  (1968). ­ Là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho  phong cách thơ Xuân Quỳnh. • Chủ đề: Qua hình tượng “sóng”, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hoà hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả  tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung  thuỷ, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu  hạn của đời người. Từ đó thấy được tình yêu là một tình  cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người Câu 8: Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài “Đàn ghi ta của  Lor ­ ca” • Hoàn cảnh sáng tác ­ Rút trong tập “Khối vuông Ru – bích”. ­ Thể hiện tư duy thơ Thanh Thảo: giàu suy tư, nhuốm  màu sắc tượng trưng, siêu thực. • Chủ đề: Qua hình tượng Lor – ca và tiếng đàn ghi ta, tác giả diễn tả cái chết bi tráng đột ngột của người nghệ sỹ  đấu tranh cho tự do và cách tân nghệ thuật. Đồng thời,  bày tỏ nỗi đau xót sâu sắc và niềm tin mãnh liệt vào sự  bất tử của tên tuổi và sự nghiệp Lor – ca. Câu 9: Xuất xứ và chủ đề “Người lái đò sông đà” • Hoàn cảnh sáng tác: Xét về hoàn cảnh sáng tác có thể xem "Người lái đò sông  Đà" nói riêng và tập “tuỳ bút sông Đà” nói chung khẳng  định một bứơc chuyển hoá mới của văn chương Nguyễn  Tuân trước thực tế mới của đất nước. Có người đã khẳng định tập sách này là dấu son mới mẻ trong văn nghiệp  của nhà văn họ Nguyễn. (Thời kì này văn học đòi hỏi phản ánh chân thực hùng hồn cuộc sống mới, con người mới).  Đến với cuộc sống, ông khám phá theo cách của mình.  "Người lái đò sông Đà" là một tuỳ bút đặc sắc trong 15  thiên tuỳ bút của tập sách và một bài ở dạng phác thảo. Tác phẩm in trong tập “Sông Đà” (1960) gồm 15 bài tuỳ  bút, một bài ở dạng phác thảo. Đây là kết quả của chuyến nhà văn “xê dịch” lên Tây Bắc  trong những năm kháng chiến chống Pháp nhất là chuyến đi lên miền Tây 1958. Vẻ đẹp uy nghi kì vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc  với dòng sông Đà và những con ngừơi Tây Bắc, những  con ngừơi tài hoa trí dũng đã khơi nguồn cảm hứng mãnh  liệt để Nguyễn Tuân viết tuỳ bút sông Đà. Đó cũng chính  là “chất vàng mười trong tâm hồn vùng Tây Bắc" mà nhà  văn kiếm tìm được khi phỉ chí hải hồ của một người nghệ  sĩ săn tìm cái đẹp và đi trong tâm trạng có quê hương. Xét về hoàn cảnh chủ quan: tác phẩm vốn là cách khám  phá cái đẹp của Nguyễn Tuân vẫn là cách thay đổi thực  đơn cảm giác của ông, song cái đẹp đó không còn chỉ  dừng lại ở sự thưởng thức của cái tôi cá nhân phục vụ  cho cá nhân mà mở rộng biên độ đến với cuộc đời, đến  với người lao động bình thường. Trước đây văn chương  ông thu vào độ hẹp, giờ toả ra độ rộng. "Người lái đò sông Đà" là một bài tuỳ bút đầy chất thơ, là  một công trình khảo cứu công phu và điều tra xác thực về  Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã vận dụng những tri thức sâu  rộng của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau để  cung cấp cho người đọc những hiểu biết bổ ích lí thú vè  ngọn nguồn lai lịch, địa thế hiểm trở của con sông Đà  cũng như phương thức vượt thác leo ghềnh, công cuộc  chinh phục thiên nhiên của người lao động Tây Bắc. • Chủ đề: Ngợi ca vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ  tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là vẻ đẹp của con  người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Qua đây ta cảm  nhận được tình yêu đất nước say đắm, thiết tha, một sự  lao động nghệ thuật nghiêm túc, cần cù, công phu và tài  hoa, uyên bác trong việc dùng chữ nghĩa của nhà văn. Câu 10: Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bút ký  “AĐĐTCDS” • Hoàn cảnh sáng tác. ­ Bút ký được viết năm 1981 in trong tập sách cùng tên. ­ Tác phẩm có 3 phần, đoạn trích nằm phần thứ nhất. • Chủ đề: Từ những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp  bằng vốn kiến thức phong phú về địa lý, lịch sử, văn  hóa…., tác giả đã khám phá và ca ngợi vẻ đẹp của sông  Hương, kinh thành Huế, cũng là vẻ đẹp của quê hương,  đất nước. Câu 11: Nêu hoàn cảnh sáng tác và chủ đề “Vợ chồng A  phủ” • Hoàn cảnh sáng tác: "Vợ chồng A Phủ" là truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài  viết về đề tài miền núi Tây Bắc được in trong tập “Truyện  Tây Bắc”(1953) “Truyện Tây Bắc” gồm 3 truyện “Cứu đất cứu mường”,  “Mường giơn”, "Vợ chồng A Phủ". Tác phẩm là kết quả của những đợt nhà văn thâm nhập  thực tế cuộc sống của đồng bào dân tộc ít người vùng  Tây Bắc, đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng, tình cảm  của nhà văn. Sau chuyến đi dài 8 tháng cùng bộ đội vào  giải phóng Tây Bắc (1952). , ông đã sống gắn bó và nghĩa tình với đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Hmông…, có  những hiểu biết sâu sắc về mảnh đất miền Tây”. “Kết quả  lớn nhất và trước nhất của chuyến đi 8 tháng ấy là đất  nước và người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi  nhiều quá”. “Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm  lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi. Đó là một ám ảnh mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác” Tác phẩm đã thể hiện một cách xúc động cuộc sống tủi  nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân. Họ ­ mà tiêu biểu là bà lão Ảng (Cứu đất cứu mường), gia đình ông Mờng và dân làng Mường Giơn  (Mường Giơn ), Mị và A Phủ ("Vợ chồng A Phủ") bị tước  đoạt tài sản, bóc lột sức lao động và xúc phạm nhân  phẩm. Trong cảnh đau thương tột cùng đó, cách mạng đã  đến với họ và họ đã thức tỉnh. “Truyện Tây Bắc” là một thành công của Tô Hoài trong  việc nhận thức, khám phá hiện thực kháng chiến ở một  địa bàn đặc biệt vùng cao phía Tây Bắc tổ quốc đặc biệt là những khám phá mới mẻ sâu sắc về số phận và tâm hồn  người lao động nghèo miền núi Tây Bắc trên hành trình  đến với cách mạng. Tác phẩm in rõ dấu ấn phong cách  nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài: màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ, chất trữ tình thấm đựơm, ngôn ngữ và lời văn  giàu tính tạo hình. Tác phẩm được giải nhất về truyện, kí (đồng hạng với Đất  Nước đứng lên của Nguyên Ngọc) giải thưởng của hội  Văn Nghệ Việt Nam 1954­1955. Truyện kể về quá trình tự vươn lên đổi đời và sự thức tỉnh cách mạng của hai thanh niên người Mèo: Mị và A Phủ,  thoát khỏi kiếp đời nô lệ trong tay cha con thống lí Pá Tra  ở Hồng Ngài để tìm đến khu du kích mới ở Phiềng Xa trở  thành những du kích dũng cảm chiến đấu giữ bản làng. • Chủ đề: Thông qua số phận của Mị và A Phủ, tác giả thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông số phận người dân  miền núi, trân trọng vẻ đẹp tiềm tàng của họ, ngợi ca ý  nghĩa nhân đạo của sự nghiệp giải phóng con người thoát khỏi tối tăm và áp bức. Câu 12: Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề “Vợ nhặt” • Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm đề cập đến nạn đói năm 1945. Năm 1940 Nhật  xâm chiếm Đông Dương bắt nhân dân ta nhổ lúa trông  đay. Bọn thực dân sau khi thua ở Đông Dương thì ra sức  bóc lột nhân dân để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mới  bọn địa chủ cường hào ở nông thôn ngày càng ức hiếp  dân lành. Mất mùa vì hạn hán, lũ lụt xảy ra thường. Bởi  thế đến xuân Ất Dâu năm 1945 nạn đói chưa từng có  trong lịch sử đã cướp đi hơn hai triệu đồng bào ta. Những  cảnh chết đường chết chợ, tha phương cầu thực diễn ra  hết sức thê lương. Trong hoàn cảnh đó con người biết  chia sẻ cho nhau miếng ăn là cả một nghĩa cử đầy hào  hiệp. Mặt trận Việt Minh đã vùng dậy tổ chức nhân dân phá kho thóc Nhật cứu giúp người nghèo và tiến hành cuộc tổng  khởi nghĩa tháng 8. Truyện ngắn "Vợ nhặt" có tiền thân là một truyện dài nằm  trong dự định của Kim Lân ­ tiểu thuyết Xóm ngụ cư.  Nhưng sau đó mất bản thảo, thất lạc và Kim Lân muốn  dồn đọng lại nội dung ý tưởng trong một tập truyện ngắn – đó là lí do "Vợ nhặt" truyện ngắn độc đáo ra đời. Sau khi  hoà bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào một phần cốt  truỵên cũ và viết truyện ngắn này. Truyện chứa đựng  dung lượng hiện thực lớn mà nhà văn lấu bối cảnh hiện  thực năm đói 1945. Nhưng điều mà nhà văn muốn gửi  gắm không chỉ là hiện thực thê thảm của năm đói mà ông  muốn thắp sáng vẻ đẹp tình người trong những năm  tháng tối tăm, thê thảm ấy. Tác phẩm được hoàn thành  ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). • Chủ đề: Thông qua tác phẩm, nhà văn đã phản ánh và  trân trọng những con người bần cùng, lương thiện. Trong  hoàn cảnh đói kém khủng khiếp do bọn thực dân phong  kiến gây ra, họ đã cưu mang đùm bọc lấy nhau, dành cho  nhau hạnh phúc và hi vọng vào một cuộc sống tốt đẹp  hơn mà cách mạng đem đến. Câu 13: Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề “Rừng xà nu” • Hoàn cảnh sáng tác: ­ Được viết năm 1965, in trong tập “Trên quê hương  những anh hùng Điện Ngọc”. ­ Tác phẩm ra đời trong bối cảnh đế quốc Mĩ bắt đầu ồ ạt  đổ quân vào miền nam với các chiến dịch càn quét, giết  hại, phá hủy quy mô lớn. • Chủ đề: Rừng xà nu là câu chuyện về quá trình trưởng  thành Trong nhận thức cách mạng của một con người,  cũng như của đồng bào Tây Nguyên. Chân lý tất yếu mà  họ nhận ra là, chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới có thể  đè bẹp bạo lực phản cách mạng. Câu 14: hoàn cảnh sáng tác và chủ đề “Những đứa con  trong gia đình” • Hoàn cảnh sáng tác:  Nguyễn Thi gắn bó với nhân dân miền Nam và thực sự  xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam  Bộ. Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất  cả đều có những đặc điểm chung "rất Nguyễn Thi". Đó  là:Yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc,  căm thù ngùn ngụt bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô cùng gan góc và tinh thần chiến đấu rất cao­ những con  người dường như sinh ra để đánh giặc ;Tính chất Nam  bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu đời, giàu tình  nghĩa. Tác phẩm tiêu biểu của ông là : Người mẹ cầm  súng , Những đứa con trong gia đình , … Tác phẩm được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác  liệt khi ông công tác với tư cách là một nhà văn­ chiến sĩ ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng năm 1966. Sau được  in trong Truyện và kí NXB Văn học Giải phóng, 1978. • Chủ đề: Qua hồi ức của Việt khi bị thương về những  thành  viên trong gia đình, tác giả ca ngợi tinh thần yêu nước,  truyền thống cách mạng của một gia đình, cũng là của  nhân dân miền nam trong kháng chiến chống Mĩ. Câu 15: Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề “Chiếc thuyền  ngoài xa” • Hoàn cảnh sáng tác:  Chiếc thuyền ngoài xa viết năm 1983 là truyện ngắn in  đậm phong cách tự sự ­ triết lí của Nguyễn Minh Châu.  Với ngôn từ dung dị đời thường , truyện kể lại chuyến đi  thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm  nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. Nhan đề: Nghệ thuật nhìn xa, nhìn gần thì cái trần trụi,  hiện thực cuộc sống bị phơi bày. Khoảng cách giữa nghệ  thuật và cuộc sống thì nghệ thuật mới thiết thực. • Chủ đề: Bằng tài năng và tấm lòng của một nhà văn,  Nguyễn Minh Châu đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với  những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người và gửi  gắm chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời và vì  cuộc đời; Người nghệ sỹ không thể nhìn đời một cách  giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện và nhiều chiều. Câu 16: hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt và chủ đề “ Hồn  Trương Ba, da hàng thịt” • Hoàn cảnh sáng tác ­ Hồn Trương Ba ,da hàng thịt được Lưu Quang Vũ viết  năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới công diễn  ­ Từ một cốt truyện dân gian ,Lưu Quang Vũ đã xây dựng  thành một vở kịch nói hiện đại ,đặt ra nhiều vấn đề mới  mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc. • Tóm tắt: Trương Ba, một người làm vườn tốt bụng,  khoẻ  mạnh, giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn  sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba  sống lại ,nhập vào thể xác hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ thể xác hàng thịt, hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền  toái : lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia  đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ…mà bản thân  Trương Ba cũng đau khổ vì phải sống xa lạ, giả tạo.Đặc  biệt ,thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói  xấu và những nhu cầu vốn không phải là của bản thân  ông.Trước nguy cơ tha hoá về nhân cách và sự phiền  phức phải mượn thân xác của kẻ khác,Trương Ba quyết  định trả lại thân xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết. • Ý nghĩa tư tưởng: Qua đoạn trích, Lưu Quang Vũ đã  truyền đi bức thông điệp: Được sống làm người quí giá  thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với  những giá trị mà mình vốn có càng quí giá hơn.Sự sống  chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống theo lẽ tự  nhiên ,hài hoà thể xác và tinh thần . Con người phải biết  luôn đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân ,chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới  những giá trị tinh thần cao quí. Câu 17: Vi hành ( Nguyễn Ái Quốc) • Hoàn cảnh ra đời Tháng 6/1922 thực dân Pháp mở hội đấu xảo thuộc địa tại Mác xây. Chính phủ Pháp đưa vua Khải Định sang dự  nhằm lừa gạt nhân dân Pháp: Vua An Nam hoàn toàn quy phục mẫu quốc sang đây tạ ơn, tình hình Đông Dương ổn  định nên họ ủng hộ cuộc đầu tư lớn vào Đông dương.  Trước sự kiện ấy, những người Việt Nam yêu nước tại  Pháp đã lên tiếng phản đối. Nguyễn Ái Quốc là một trong  những người yêu nước Việt Nam có nhiều bài báo, truyện  ngắn đăng trên các báo như " Lời than vãn của Bà Trưng  Trắc" "Những trò lố hay là Va ren và Phan Bội Châu", "Vi  hành". Tác phẩm "Vi hành"được viết bằng tiếng Pháp  đăng trên báo nhân đạo cơ quan ngôn luận của Đảng  cộng sản Pháp số ra ngày 19/2/1923. Tác phẩm viết nhằm vạch mặt Khải Định, một kẻ ngu dốt,  lố lăng, một tên bù nhìn vô dụng,đồng thời Nguyễn Ái  Quốc cho nhân dân Pháp thấy rõ những thủ đoạn xảo trá  của thực dân Pháp. CHƯƠNG TRÌNH 12 NÂNG CAO Câu 18. Hoàn cảnh ra đời "Đất Nước" ( Nguyễn Đình Thi): Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài. Ông viết sách thảo  luận triết học, viết văn làm thơ, soạn nhạc ở lĩnh vực nào  cũng lưu được dấu ấn trong nền nghệ thuật đương đại  của Việt Nam. Bạn đọc đặc biệt nhớ đến Nguyễn Đình Thi với những sáng tác thơ ca về đất nước vất vả đau thương nhưng tươi thắm vô ngần, trong đó có thi phẩm "Đất  nước". Bài thơ có hoàn cảnh ra đời dưới đây: Bài thơ được sáng tác trong một khoảng thời gian khá dài  từ 1948 đến 1955 gần súôt cuộc kháng chiến chống Pháp. Hai tác phẩm tiền thân là “sáng mát trong như sáng năm  xưa” (1948) và “Đêm mittinh” (1949). Đến năm 1955,  Nguyễn Đình Thi đã chọn lọc những ý tứ đặc sắc của 2  bài thơ trên, bằng ngòi bút tài hoa và xúc cảm mãnh liệt về quê hương đất nước,ông đã cho ra đời bài thơ "Đất  nước", bài thơ được in trong tập “Người chiến sĩ” (1958).  Thi phẩm được viết từ sự tổng hợp nâng cao các mảng  sáng tác trong những thời điểm khác nhau nhưng người  đọc không hề nhận thấy dấu vết của sự chắp vá, lắp ghép mà cảm nhận được mạch thống nhất bởi tác giả viết bằng  cảm xúc nhất quán về đất nước, con người Việt Nam.  "Đất nước" là một chỉnh thể nghệ thuật, một bài thơ liền  mạch ghi lại cả một quá trình cảm xúc, suy nghĩ của người chiến sĩ – nhà thơ Nguyễn Đình Thi về tổ quốc, nhân dân  anh hùng bất khuất trong những năm kháng chiến chống  Pháp. Đây là một áng thơ hay vào bậc nhất của thơ ca  kháng chiến tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Đình  Thi khi viết về đất nước. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt  bài thơ là niếm tự hào, ngợi ca dân tộc, con người Việt  Nam từ trong “bùn lầy” và “máu lửa” đã vùng lên chiến  đấu quật cường bất khuất, hào hùng “rũ bùn đứng dậy  sáng loà” trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp. Câu 19. Hoàn cảnh ra đời "Tiếng hát con tàu" ( Chế Lan  Viên) Bài thơ được Chế Lan Viên viết vào năm 1960 in trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa”. Đó là thời điểm miền Bắc sau  năm kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hối hả bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với kế hoạch 5 năm  lần thứ nhất. Cuộc vận động người miền xuôi lên xây  dựng cuộc sống mới ở miền núi những năm 58­60 của  Đảng đã cổ vũ khích lệ rất lớn cho bao văn nghệ sĩ, giúp  họ nhận thức được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc  sống, ý thức được trách nhiệm lớn lao của người cầm bút  với nhân dân đất nước. Bao bạn bè đã lên đường nhưng  Chế Lan Viên vì ốm nặng mà không thể ra đi. Lòng ông  cháy bỏng khát khao được đến với cuộc đời rộng lớn, hoà nhập vào tổ quốc bao la. Sự kiện kinh tế chính trị của Đảng khi ấy chỉ là cái cớ khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhà thơ. Chế Lan Viên  không minh hoạ thuần tuý, không hô hào suông cho chủ  trương chính sách của Đảng mà diễn tả những tình cảm  sâu nặng của một người nghệ sĩ. Bài thơ là lời mời gọi là  khát vọng lên đường đến những miền đất xa, đến với đất  nước bao la nhân dân vĩ đại; đồng thời là khúc hát về lòng biết ơn, tình yêu và sự gắn bó với nhân dân, đất nước của một hồn thơ khi được trở về với ngọn nguồn của sáng tạo  nghệ thuật. CHƯƠNG TRÌNH LỚP 11 Câu 20: VỘI VÀNG "Vội vàng" là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách  mạng rút trong tập “Thơ Thơ” (1938). Đây là tiếng nói của  một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, khi vui  cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết. Nhưng  đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. Câu 21: TRÀNG GIANG (HUY CẬN) Năm 1939 vào một chiều thu, Huy Cận đứng ở bờ năm  bến Chèm (Hà Nội), lặng ngắm toàn cảnh sông Hồng  mênh mông tĩnh vắng, chạnh nhớ tới kiếp người nhỏ bé  nổi trôi giữa dòng đời vô tận. Một nỗi buồn ngờm ngợp  dấy lên từ đáy hồn thi sĩ, bủa trùm trời đất và lòng người.  Nỗi buồn vừa gợi hứng sáng tác, vừa là cốt lõi của cảm  xúc thơ. Huy Cận đã từng tâm sự: "Tôi có thú vui thường  vào chiều Chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, Vẽ để  ngoạn cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh sông 
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan