Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thự...

Tài liệu Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh bình định

.PDF
90
168
115

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG CÔNG THẮNG TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG CÔNG THẮNG TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN VĂN HUYÊN HÀ NỘI – năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tác giả luận văn Đặng Công Thắng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ....................................................................... 8 1.1. Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành.............................................................................................. 8 1.2. Cơ sở của định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ....................................................................................... 11 1.3. Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ............................................................................................................ 17 1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .................................... 21 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH .............................................................................................. 30 2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội và tình hình tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định ............................................ 30 2.2. Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định ................................................................................................ 33 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.................................................................................... 39 2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định .............................................................................................................. 44 CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH ......................................................................................................... 51 3.1. Một số yêu cầu về hoàn thiện và áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định ......... 51 3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định .............................. 60 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CĐTS: Chiếm đoạt tài sản CQĐT: Cơ quan điều tra ĐTV: Điều tra viên HĐXX: Hội đồng xét xử KSV: Kiểm sát viên PCTP: Phòng, chống tội phạm PLHS: Pháp luật hình sự TAND: Tòa án nhân dân THTT: Tiến hành tố tụng TTHS: Tố tụng hình sự VAHS: Vụ án hình sự VPPL: Vi phạm pháp luật VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay quá trình nâng cao và cải cách tư pháp, nhất là hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, trong đó có TAND các cấp là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ: "TAND tập trung thực hiện tốt chức năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp." [10, tr.24], Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ ra: "Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp" [7, tr.2]. Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Luật Tổ chức TAND năm 2014: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [32, tr.2]. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng. Nhà nước đang thực hiện cải cách tư pháp…thì công tác xét xử tội phạm của Tòa án là một trong những vấn đề cấp thiết đặt ra trong tình hình hiện nay để góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS, ngoài những yếu tố tác động chung do đặc điểm phức tạp và đa dạng của loại tội phạm này đã đặt ra những khó khăn vướng mắc trong quá trình phòng ngừa, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Bình Định là một tỉnh ven biển, có diện tích trải dài 110 km thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam. Phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Quảng Ngãi, phía Nam tiếp giáp với tỉnh Phú Yên, phía Tây tiếp giáp tỉnh Gia Lai và phía Đông tiếp giáp Biển Đông. Tỉnh Bình Định hiện tại gồm có 11 đơn vị hành chính cấp 1 huyện bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện, được phân chia thành 159 đơn vị hành chính cấp xã gồm 32 phường, 10 thị trấn và 117 xã. Bình Định là tỉnh có vị trí kinh tế đặc biệt quan trọng, là cầu nối cảng biển quốc tế tạo điều kiện giao lưu với các quốc gia trong khu vực và còn là trung điểm của trục giao thông đường sắt và đường bộ Bắc - Nam. Thống kê năm 2019, Bình Định có diện tích tự nhiên 6022,6 km², dân số 1.486.465 người, mật độ dân số 389 người/km². Trong những năm gần đây, hoạt động của các loại tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Định diễn biến phức tạp, gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của Nhà nước và Nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong đó, tội phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS đã và đang gây lo lắng trong Nhân dân. Vì vậy, việc nghiên cứu về hoạt động xét xử tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS là yêu cầu cấp thiết của ngành Tòa án nói chung, TAND tỉnh Bình Định nói riêng. Trong những năm qua, TAND tỉnh Bình Định đã có nhiều cố gắng trong công tác xét xử tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS, góp phần quan trọng để hoạt động TTHS xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, công tác xét xử những vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, hiệu quả xử lý chưa cao, dẫn đến tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp. Những khó khăn, tồn tại trong hoạt động xét xử tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy cần phải hoàn thiện công tác xét xử các vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nhằm giúp cho hoạt động TTHS của địa phương đạt hiệu quả cao. Đây là vấn đề thực tiễn rất cần được sự quan tâm nghiên cứu, tổng kết để xây dựng thành lý luận, nhưng cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp nội dung này. Từ những luận giải trên, tác giả chọn đề tài: “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học Luật. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian qua ở nước ta đã có rất nhiều các công trình khoa học, nghiên cứu khoa học, bài báo khoa học nghiên cứu, đề cập đến tội phạm lạm dụng 2 tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam được chia thành: - Nhóm các công trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam [51-61] Gồm các giáo trình, sách chuyên khảo; ngoài ra còn có những bài viết về vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt, về tội phạm và hình phạt, về cấu thành tội phạm các tội về xâm phạm sở hữu nói chung, tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng... đăng trên các trang Tạp chí khoa học lớn của Nhà nước, Pháp Luật, Tòa án nhân dân, Kiểm sát nhân dân, Công an nhân dân. Các công trình nghiên cứu trước đây là nền tảng quan trọng trong việc thực hiện luận văn, đó là những hướng dẫn lý luận về các vấn đề cơ bản mà luận văn cần làm sáng tỏ. - Nhóm các công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài [62-67] Ngoài các công trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nêu trên, có một số công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu của đề tài như các Luận văn Thạc sĩ, Luận án Tiến sĩ. Những công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam. Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu sáng tỏ cơ sở lý luận về tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Tuy nhiên, nhìn chung tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS được các nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đề cập ở trên với các mức độ, khía cạnh khác nhau và gắn với các địa bàn khác nhau. Theo khảo sát của tác giả trong những năm gần đây chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài: “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm đề tài luận văn thạc sĩ không bị trùng lắp với các công trình khoa học đã nghiên cứu từ trước, đồng thời đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu 3 - Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và các quy định của PLHS về tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS. - Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng PLHS liên quan đến tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế, những vi phạm của việc áp dụng PLHS liên quan đến tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định. - Đề xuất những giải pháp cơ bản, thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS, đấu tranh phòng, chống, xử lý các tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về định tội danh và đánh giá hoạt động định tội danh đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019. - Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển quy định về các tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS trong PLHS Việt Nam. Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS. - Làm rõ những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt và đánh giá hoạt động quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS từ thực tiễn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019. - Làm sáng tỏ những yêu cầu và các giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, xử lý tội phạm đối với tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS từ thực tiễn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Các quy định về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam quy định tại BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Các quy định về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam quy định tại BLHS năm 2015 (sửa đổi, 4 bổ sung năm 2017). Thực tiễn xét xử, đấu tranh với tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn tại tỉnh Bình Định. Các số liệu thống kê xét xử hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Bình Định giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019. 30 bản án xét xử sơ thẩm của TAND tỉnh Bình Định giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 được thu thập một cách ngẫu nhiên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu + Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định dưới góc độ luật hình sự và TTHS. + Phạm vi về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019. 5 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật với tư tưởng Nhân dân là chủ thể của quyền lực xã hội, mọi hoạt động của nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân và việc hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác đấu tranh PCTP, cải cách tư pháp, nhà nước pháp quyền và vấn đề quyền con người. Bên cạnh đó, luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở tham khảo các bài viết, các chuyên đề về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được đăng tải trên các tạp chí, phương tiện thông tin uy tín, chính thống. 5.1. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận văn, tác giả tiến hành vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận văn, các văn bản pháp lý quy định về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS, các báo cáo sơ kết, tổng kết của các cơ quan tư pháp trung ương, địa phương và đặc biệt là của cơ quan tư pháp tỉnh Bình Định trong giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sử dụng để nghiên cứu tổng kết đánh giá những kết quả, tài liệu thu thập được từ thực tiễn hoạt động đấu tranh, xử lý tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định trong giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019. - Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu: Sử dụng để điều tra, khảo sát thực tế và thống kê, đánh giá thực trạng, diễn biến, cơ cấu của các tội xâm phạm sở hữu nói chung, các tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019. Sử dụng để nghiên cứu thực trạng công tác định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn 6 tỉnh Bình Định. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về đấu tranh PCTP về sở hữu nói chung, tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật, các dấu hiệu của tội phạm, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật. Đây là tài liệu có thể dùng trong công tác nghiên cứu, học tập, tham khảo dành cho các học viên ngành Luật nói chung, Luật hình sự và TTHS nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Thông qua quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu lý luận và thực tiễn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bình Định tham khảo, rút kinh nghiệm khi thực hiện các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa hiệu quả tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS xảy ra trong thời gian tới. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các giảng viên, học viên, các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan đến Luật hình sự nói chung, các tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục thì luận văn được xây dựng có cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định Chương 3: Một số yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định 7 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã có những tác động tích cực đối với công tác PCTP, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân.Với việc ban hành BLHS mới sẽ góp phần khắc phục những thiếu sót, hạn chế của BLHS năm 1999, đồng thời tiếp tực tăng cường pháp chế XHCN, góp phần nâng cao hiệu quả trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp và cá nhân. BLHS mới cũng đã cụ thể hóa nhiều quan điểm lớn của Đảng, quy định của Hiến pháp 2013 về PCTP, về đổi mới và hoàn thiện chính sách hình sự, đáp ứng kịp thời và có hiệu quả của cuộc đấu tranh PCTP trong tình hình mới. BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) gồm có XXVI chương và 426 điều, tăng 82 điều so với BLHS năm 1999, quy định về tội phạm và hình phạt và các biện pháp tư pháp, trong đó nhiều tội phạm mới được bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh PCTP trong tình hình mới, khắc phục được những thiếu sót và bất cập của BLHS năm 1999. Trong đó, tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được quy định tại Điều 175 thuộc Chương XVI các tội xâm phạm sở hữu. Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm 2010: “Lạm dụng là dùng, sử dụng quá mức hoặc quá giới hạn đã được quy định” [39, tr.652]. “Tín nhiệm là tin tưởng mà giao phó, trông cậy vào nhiệm vụ, sự việc cụ thể nào đó” [39, tr.1646]. Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên) của Nhà xuất bản Văn hóa thông tin năm 1998 thì “Chiếm đoạt là hành vi cố ý 8 chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế” [46, tr.151]. Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là một hiện tượng xã hội tiêu cực xuất hiện và tồn tại từ lâu trên thế giới và ở nước ta. Lạm dụng tín nhiệm CĐTS được xác định là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác thông qua hình thức các hợp đồng và sau đó đã dùng các thủ đoạn gian dối; bỏ trốn để CĐTS hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến việc không có khả năng trả lại tài sản. Để nhận diện đúng ranh giới giữa giao dịch dân sự, thương mại với hành vi phạm tội hình sự, tránh được tình trạng “hình sự hoá” ác giao dịch dân sự, kinh tế hay “dân sự hoá” các hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS cần phải tìm hiểu cụ thể về khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS [48, tr.51]. Theo quy định của PLHS Việt Nam có thể hiểu tội phạm là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các khách thể được PLHS Việt Nam bảo vệ. Tội phạm có 4 yếu tố thuộc tính cơ bản sau: Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hành vi này được quy định trong BLHS; do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hay vô ý; người phạm tội phải chịu hình phạt theo quy định pháp luật. Bốn yếu tố cơ bản cấu thành tội phạm gồm: Mặt khách quan; mặt chủ quan; khách thể và chủ thể của tội phạm. Theo đó, hành vi gây nguy hiểm cho xã hội nhưng không thoả mãn 4 yếu tố cấu thành tội phạm thì không bị coi là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, mỗi một tội phạm đều có những dấu hiệu đặc trưng riêng và cũng chính là cơ sở để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác [16, tr.11]. Và khái niệm tội phạm đã được quy định rõ tại Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS quy định lần đầu tiên tại Điều 140 BLHS năm 1999, đây là tội được nhập từ tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS của công dân quy định tại Điều 158, Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS XHCN quy định tại Điều 135 BLHS năm 1985, đến BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS đã được quy định tại Điều 175: 9 “1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây CĐTS của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối CĐTS đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.” [31, tr.134]. Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được quy định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã cụ thể và chi tiết hơn trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), tài sản bị chiếm đoạt được định lượng rõ ràng, phù hợp với điều kiện thực tế. Nhận thức về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được hiểu theo khoa học pháp lý là: “hành vi sau khi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để CĐTS của người khác hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” [33, tr.16]. Như vậy, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh chống tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS và lý luận khoa học hình sự, căn cứ vào quy định của Điều 175 về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS và BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chúng tôi đưa ra khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS như sau: “Lạm dụng tín nhiệm CĐTS là hành vi sau khi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để CĐTS của người khác hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn 10 đến không có khả năng trả lại tài sản, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 4.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của BLHS, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”. 1.2. Cơ sở định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.2.1. Cơ sở của định tội danh Khái niệm định tội danh ngày nay có rất nhiều cách diễn giải, GS. TSKH Lê Cảm nhận định: “Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, cũng như pháp luật TTHS được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của VAHS để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định” [3, tr.21]. Còn theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Định tội danh là một dạng của hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng PLHS nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm PLHS quy định CTTP tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của CTTP với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định” [43, tr.19]. Định tội danh là được xác định là một hoạt động nhận thức và áp dụng PLHS trên cơ sở xác định một cách khách quan, đầy đủ và chính xác các tình tiết, diễn biến cụ thể của hành vi phạm tội theo đúng quy định của quy phạm PLHS cấu thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhất định với các tình tiết của hành vi phạm tội thông qua các giai đoạn nhất định. Giai đoạn cơ bản của việc áp dụng PLHS là định tội danh và có ý nghĩa 11 chính trị, xã hội, đạo đức và pháp lý hết sức quan trọng. Thông qua quá trình thực hiện hoạt động định tội danh đã thể hiện việc đánh giá các yếu tố chính trị, xã hội và pháp lý đối với những hành vi nhất định; tránh việc truy cứu TNHS oan sai; là cơ sở quan trọng cho việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội; bên cạnh đó còn là căn cứ để xác định các thủ tục tố tụng và đảm bảo cho việc đánh giá chính xác tình hình tội phạm nhằm đưa ra các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả. Trong quá trình áp dụng quy phạm PLHS có tất cả 03 giai đoạn, gồm: Định tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Và việc định tội danh được xác định là giai đoạn có vai trò quan trọng nhất, bởi lẽ từ giai đoạn khởi tố, điều tra đến khi thi hành án thì việc định tội danh luôn được tiến hành và áp dụng ở tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Định tội danh có thể được hiểu là "việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm PLHS” [43, tr.9-10]. Định tội danh bao gồm những đặc điểm sau: Định tội danh được thể hiện là quá trình nhận thức giữa lý luận và thực tiễn một cách logic: Do đó, trước hết cần phải xác định hành vi đã được thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội có thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS hay không, từ đó mới làm căn cứ đánh giá hành vi đã thực hiện về mặt PLHS trên thực tế. Đối với nội dung và hình thức của quá trình định tội danh thì phải được thực hiện theo đúng các quy định trong BLHS, BLTTHS. Theo đó, các cơ quan THTT như CQĐT, VKS và Tòa án cần xác định định tội danh là hoạt động nhằm áp dụng và cụ thể hóa các quy định của PLHS trên cơ sở đánh giá một cách khách quan và đầy đủ hành vi phạm tội đã diễn ra trên thực tế. Hoạt động định tội danh đóng vai trò vô cùng quan trọng vì nó chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các cơ quan THTT, định tội danh là căn cứ để quyết định hình phạt. Cụ thể: - Định tội danh đúng chính là cơ sở đầu tiên cho việc phân hóa TNHS và cá thể hóa trách nhiệm hình phạt theo quy định pháp luật. Do đó, nếu việc định tội 12 danh đúng sẽ là căn cứ để thừa nhận các nguyên tắc tiến bộ trong nhà nước pháp quyền như nguyên tắc công minh, nhân đạo, nguyên tắc pháp chế... - Định tội danh đúng là điều kiện tiên quyết, là cơ sở nhằm bảo đảm các quy phạm pháp luật trong TTHS được áp dụng một cách khách quan, chính xác, tránh việc kết án, gây oan sai cho người có hành vi không gây nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, trường hợp định tội danh sai, không chính xác sẽ mang lại nhiều hệ quả tiêu cực, làm giảm suy giảm uy tín nghiêm trọng của các cơ quan THTT, hiệu quả của việc đấu tranh PCTP giảm sút; bỏ lọt người phạm tội hoặc làm oan người vô tội, xâm phạm đến các quyền tự do dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 1.2.2. Cơ sở pháp luật của quyết định hình phạt Tại Điều 30 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có quy định về khái niệm hình phạt, theo đó: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [31, tr.26]. Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn hướng đến mục đích giáo dục ý thức họ về tuân thủ và chấp hành pháp luật cũng như các quy tắc xử sự của cuộc sống, giúp ngăn ngừa họ phạm tội mới cũng như thông qua đó tuyên truyền, giáo dục đến những người, pháp nhân thương mại khác thượng tôn pháp luật nhằm hướng đến mục đích quan trọng nhất là phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Thẩm quyền áp dụng hình phạt thuộc về Tòa án, do đó quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) để áp dụng đối với người phạm tội. Có thể thấy, quyết định hình phạt mang nhưng đặc điểm cơ bản sau: Đây là hoạt động được thực hiện sau khi Tòa án xác định xong tội danh; thực hiện trên cơ sở các quy định PLHS, là hoạt động chỉ được áp dụng đối với người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt hoặc miễn TNHS với khung và hình phạt cụ thể. 13 Nếu việc quyết định hình phạt được thực hiện đúng sẽ mang lại ý nghĩa vô cùng quan trọng vì đây chính là cơ sở pháp lý để đạt được kết quả mà Nhà nước đặt ra và mong muốn là áp dụng đối với người phạm tội và vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của HĐXX; ngoài ra còn đảm bảo được sự khách quan, công bằng khi xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội cùng với nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Đồng thời, có tác dụng giáo dục, răn đe phòng ngừa chung đối với toàn xã hội; là căn cứ để đảm bảo các nguyên tắc trong nhà nước pháp quyền được phát huy. Các căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): “1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS. 2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội” [31, tr.36]. Cụ thể, phân tích các căn cứ trên gồm: Thứ nhất, căn cứ vào quy định của BLHS: Căn cứ theo quy định của BLHS gồm có 2 phần: Các căn cứ trong phần chung của BLHS gồm có: các nguyên tắc xử lý; các quy định liên quan đến hình phạt; các quy định về các biện pháp tư pháp; các quy định về căn cứ quyết định hình phạt; các tình tiết giảm nhẹ TNHS; các tình tiết tăng nặng TNHS; về tái phạm, tái phạm nguy hiểm; các quy định về án treo. Căn cứ quy định về khung hình phạt chính và về hình phạt bổ sung cho từng loại tội được quy định trong phần các tội phạm của BLHS. Khi xem xét quyết định hình phạt tòa án dựa vào các quy định về khung chế tài (gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung) cho từng loại tội phạm, cho phép tòa xác định khung hình phạt cho từng tội. Trên cơ sở đó, dựa vào các quy định của phần chung đã nêu, cho phép Tòa án có thẩm quyền quyết định loại và mức hình phạt cụ thể trong khung quy 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất