BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
=====o0o=====
ĐỖ THỊ HẰNG
TÍNH CHẤT HẠT TẢI TẠI LỚP CHUYỂN TIẾP
BÁN DẪN DỊ THỂ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Sơn La, năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
=====o0o=====
ĐỖ THỊ HẰNG
TÍNH CHẤT HẠT TẢI TẠI LỚP CHUYỂN TIẾP
BÁN DẪN DỊ THỂ
Chuyên ngành: Lý thuyết chất rắn
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Lê Thu Lam
Sơn La, năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Qua một thời gian cố gắng, nỗ lực phấn đấu, cuối cùng với sự giúp đỡ tận
tình của thầy cô và bạn bè tôi đã hoàn tất khóa luận này. Qua đây tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo ThS. Lê Thu Lam người đã tận tình truyền đạt
những kiến thức trong quá trình học tập và trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo những
kinh nghiệm quý báu để tôi hoàn thành tốt khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo trong tổ Vật lý, ban
chủ nhiệm khoa Toán - Lý - Tin, phòng khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế,
thư viện trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện khóa luận.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè, các
bạn sinh viên lớp K51 ĐHSP Vật Lý, đã động viên, đóng góp ý kiến và tạo mọi
điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm khóa luận và này. Rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn
thiện hơn.
Sơn La, Tháng 04 năm 2014
Sinh viên
Đỗ Thị Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Cơ sở nghiên cứu............................................................................................... 1
2.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................... 1
2.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................... 2
3. Mục đích của đề tài ........................................................................................... 2
4. Nhiệm vụ của đề tài........................................................................................... 2
4.1. Khái quát về bán dẫn và các cấu trúc dị thể. .................................................. 2
4.2. Giới thiệu về các hạt tải trong bán dẫn. ......................................................... 2
4.3. Nghiên cứu các tính chất hạt tải tại lớp chuyển tiếp bán dẫn dị thể. ............. 2
5. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................ 2
6. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 2
7. Cấu trúc của đề tài ............................................................................................. 2
8. Giả thuyết khoa học........................................................................................... 2
9. Kế hoạch thực hiện đề tài .................................................................................. 3
10. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 3
NỘI DUNG........................................................................................................... 4
CHƢƠNG I: BÁN DẪN VÀ CÁC CẤU TRÚC DỊ THỂ ................................ 4
1.1. Cấu trúc tinh thể ............................................................................................. 4
1.1.1. Đối xứng tịnh tiến ....................................................................................... 4
1.1.2. Mạng Bravais .............................................................................................. 5
1.1.3. Ô đơn vị và ô cơ sở ..................................................................................... 6
1.1.4. Các phép đối xứng của mạng tinh thể ......................................................... 7
1.1.5. Phân loại các mạng Bravais ........................................................................ 7
1.1.6. Hệ lập phương ............................................................................................. 7
1.2. Lý thuyết vùng năng lượng ............................................................................ 7
1.2.1. Cấu trúc vùng năng lượng tinh thể .............................................................. 7
1.2.2. Cấu trúc vùng năng lượng bán dẫn ........................................................... 16
1.3. Gần đúng khối lượng hiệu dụng................................................................... 18
1.4. Các cấu trúc dị thể ........................................................................................ 19
CHƢƠNG II: CÁC HẠT TẢI TRONG BÁN DẪN....................................... 21
2.1. Hạt tải: electron, lỗ trống ............................................................................. 21
2.2. Hạt tải: exction ............................................................................................. 22
CHƢƠNG III: TÍNH CHẤT HẠT TẢI TRONG CẤU TRÚC BÁN DẪN DỊ
THỂ..................................................................................................................... 26
3.1. Bài toán hạt tải trong giếng thế sâu vô hạn .................................................. 26
3.2. Bài toán hạt tải trong mặt phẳng tán sắc tại lớp chuyển tiếp bán dẫn dị thể ...... 30
3.3. Bài toán hạt tải tại lớp chuyển tiếp bán dẫn dị thể khi khối lượng hiệu dụng
của hạt không thay đổi ........................................................................................ 32
3.4. Bài toán hạt tải tại lớp chuyển tiếp bán dẫn dị thể khi khối lượng hiệu dụng
của hạt thay đổi ................................................................................................... 38
3.5. Mật độ trạng thái và độ cư trú các vùng con của hạt tải .............................. 41
3.5.1. Mật độ trạng thái ....................................................................................... 41
3.5.2. Độ cư trú các vùng con của hạt tải ............................................................ 45
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc cách mạng khoa học hiện nay, ngành vật lý chất rắn đóng vai
trò đặc biệt quan trọng. Vật lý chất rắn đã tạo ra những vật liệu mới cho các
ngành mũi nhọn như: Vô tuyến điện, du hành vũ trụ...Vật lý còn là một lĩnh vực
khoa học hết sức rộng lớn gồm nhiều bộ môn như: Vật lý bán dẫn, vật lý kim
loại và hợp kim, vật lý các chất sắt điện, sắt từ... Tuy nhiên dù bao gồm nhiều
bộ môn khác nhau song vật lý chất rắn vẫn là một khoa học thống nhất. Đó là
sự thống nhất trên xu thế chung của vật lý học hiện đại (xu thế đi sâu vào các
cấu trúc và cơ chế vi mô trong mạng tinh thể), thống nhất trên những quan điểm
cũng như phương pháp và thực nghiệm chung. Ngày nay, sự phát triển rất
nhanh của công nghệ micro và nano. Các linh kiện vi điện tử, quang điện tử và
quang tử càng ngày càng được giảm thiểu về kích thước và nâng cao hiệu suất.
Với việc chế tạo các lớp chuyển tiếp khác nhau chúng ta có thể tạo ra các loại
linh kiện quang điện tử khác nhau. Ví dụ, các chất bán dẫn hai hay ba thành
phần từ các vật liệu GaP, GaAs, GaInP,…các chuyển tiếp dị thể tạo ra điôt phát
quang (LED), laser bán dẫn,… Đặc biệt hơn, tại các lớp chuyển tiếp dị thể trong
cấu trúc bán dẫn có những tính chất mới, từ các chuyển tiếp này có thể tạo ra
nhiều linh kiện kích thước nhỏ, năng lượng tiêu thụ thấp và hiệu quả cao. Nhất
là trong tình hình năng lượng toàn cầu hiện nay việc nghiên cứu chế tạo ra các
linh kiện tiêu thụ ít năng lượng, hiệu suất cao, thân thiện môi trường và đặc biệt
là tận dụng được nguồn năng lượng dồi dào của mặt trời là hướng đi được ưu
tiên hàng đầu. Bằng việc đưa ra đặc điểm về các bài toán hạt tải dựa vào mối
liên hệ giữa các bài toán với nhau, từ đó tìm ra những nét đặc trưng, cơ bản nhất
để nghiên cứu, tìm kiếm một số tính chất mới của hạt tải trong cấu trúc bán dẫn
dị thể, và có những ứng dụng mới vào trong thực tiễn.
Để giúp các bạn sinh viên tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn tôi chọn đề tài
“Tính chất hạt tải tại lớp chuyển tiếp bán dẫn dị thể”.
2. Cơ sở nghiên cứu
2.1. Cơ sở lí luận
Để hiểu rõ hơn về cấu trúc bán dẫn dị thể, những tính chất mới của hạt tải
trong bán dẫn, thông qua việc nghiên cứu những tính chất hạt tải tại lớp chuyển
tiếp bán dẫn dị thể.
1
2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tế, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ nano, đòi hỏi phải có
nhiều những ứng dụng trong thực tiễn, đặc biệt là ngành vật lý chất rắn nhu cầu
cần tạo ra những vật liệu mới là điều không thể thiếu. Vì vậy, việc nghiên cứu
những tính chất hạt tải tại lớp chuyển tiếp bán dẫn dị thể sẽ giúp chúng ta nâng
cao được kiến thức, vận dụng sáng tạo giải thích được các tính chất cơ bản của
vật rắn.
3. Mục đích của đề tài
Từ việc khái quát những đặc điểm về bán dẫn và các cấu trúc dị thể đi đến
giới thiệu về các hạt tải của bán dẫn, từ đó nghiên cứu các đặc trưng, tính chất
của hạt tải, vận dụng giải thích được bản chất của các vật liệu trong thực tế.
4. Nhiệm vụ của đề tài
4.1. Khái quát về bán dẫn và các cấu trúc dị thể.
4.2. Giới thiệu về các hạt tải trong bán dẫn.
4.3. Nghiên cứu các tính chất hạt tải tại lớp chuyển tiếp bán dẫn dị thể.
5. Đối tƣợng nghiên cứu
Các hạt tải và bán dẫn dị thể.
6. Phạm vi nghiên cứu
Các hạt tải trong lớp chuyển tiếp bán dẫn dị thể.
7. Cấu trúc của đề tài
Mở đầu.
Nội dung.
Chương I: Bán dẫn và các cấu trúc dị thể.
Chương II: Các hạt tải trong bán dẫn.
Chương III: Tính chất hạt tải trong cấu trúc bán dẫn dị thể.
Kết luận.
8. Giả thuyết khoa học
Việc nghiên cứu, trình bày rõ ràng, cụ thể các hạt tải trong cấu trúc bán dẫn
giúp chúng ta hiểu rõ các tính chất của hạt tải tại lớp bán dẫn chuyển tiếp dị thể,
từ đó có những ứng dụng trong ngành khoa học nói chung, cũng như sự phát
triển của các thiết bị quang điện tử nói riêng.
2
9. Kế hoạch thực hiện đề tài
- Từ tháng 09/2013 đến tháng 11/2013: Sưu tầm tài liệu, dịch tài liệu và
hoàn thành đề cương của đề tài.
- Từ tháng 11/2013 đến tháng 01/2014: Chắt lọc và phân tích tài liệu, hoàn
thành đề cương chi tiết của đề tài.
- Từ tháng 01/2014 đến tháng 03/2014: Viết đề tài.
- Từ tháng 03/2014 đến tháng 04/2014: Chỉnh sửa đề tài.
- Tháng 05/2014: Hoàn thành, in và nộp đề tài.
10. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Sưu tầm và dịch tài liệu.
- Tập hợp và xử lí dữ liệu.
- Lấy ý kiến chuyên gia.
3
NỘI DUNG
CHƢƠNG I
BÁN DẪN VÀ CÁC CẤU TRÚC DỊ THỂ
1.1. Cấu trúc tinh thể
Như đã biết, các tinh thể là các hệ nguyên tử hoặc phân tử được sắp xếp
theo một trật tự nhất định nào đó. Khi trật tự này tuân theo một cách tuyệt đối
trong toàn bộ tinh thể thì ta có (đơn) tinh thể hoàn hảo. Tính chất đặc trưng của
tinh thể là trong cấu trúc của tinh thể có sự lặp đi lặp lại theo chu kì trong không
gian, tính chất này thường được gọi là đối xứng tịnh tịnh tiến hoặc tuần hoàn
tịnh tiến. Đối xứng tịnh tiến có ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến mọi
tính chất vật lí khác của tinh thể cũng như các hiện tượng xảy ra trong tinh thể,
nó làm cho trong tinh thể các tính chất và các hiện tượng này trở nên có đặc thù
riêng.
Đa số các chất rắn trong tự nhiên có cấu trúc tinh thể. Một cấu trúc tinh thể
gồm có một ô đơn vị và rất nhiều các nguyên tử sắp xếp theo một cách đặc biệt;
vị trí của chúng được lặp lại một cách tuần hoàn trong không gian ba chiều theo
một mạng Bravais. Kích thước của ô đơn vị theo các chiều khác nhau được gọi
là r các thông số mạng hay hằng số mạng. Tùy thuộc vào tính chất đối xứng của
ô đơn vị mà tinh thể đó thuộc vào một trong các nhóm không gian khác nhau.
Cấu trúc và tính đối xứng của tinh thể có vai trò rất quan trọng với các tính chất
liên kết, tính chất điện, tính chất quang,…của tinh thể.
1.1.1. Đối xứng tịnh tiến
Phép tịnh tiến T( r ) là một phép biến đổi mà sau đó mỗi một điểm có tọa độ
r1 bất kỳ nào đó đều được tịnh tiến đi một vectơ để trở thành có tọa độ là r1 + r ,
tức là:
T( r ): r 1 r 1+ r , đối với mọi r 1
Xét tinh thể lí tưởng, tức là tinh thể hoàn hảo và vô tận. Một tinh thể như
vậy sẽ được gọi là có đối xứng tịnh tiến với một phép tịnh tiến T( r ) nào đó nếu
sau phép tịnh tiến này nó bất biến, hay nói cụ thể hơn: mỗi nguyên tử của tinh
thể dịch chuyển đến vị trí của nguyên tử cùng loại và toàn tinh thể chuyển sang
một vị trí mới trùng khít với chính nó ở vị trí cũ.
4
Đối với một tinh thể thì đối xứng tịnh tiến chỉ có thể có mặt khi phép tịnh
tiến không phải là tịnh tiến đi một vectơ r bất kỳ mà tịnh tiến đi một vectơ r
đáp ứng một số điều kiện nhất định. Vì tinh thể là gián đoạn nên có thể thấy
rằng, nếu xét theo một hướng x nào đó của tinh thể thì trên hướng này nhất định
sẽ phải có một vectơ ngắn nhất a x (gọi là vectơ tịnh tiến cơ sở hoặc vectơ cơ sở
trên hướng x) mà tinh thể sẽ bất biến khi và chỉ khi ta tịnh tiến nó đi một đoạn
bằng số nguyên lần ax, tức là tinh thể sẽ bất biến (đối xứng) khi và chỉ khi ta
thực hiện phép tịnh tiến T(n a x ), với n là các số nguyên. Vì tọa độ của một điểm
bất kỳ trong không gian ba chiều được biểu diễn thông qua ba tọa độ của nó trên
ba trục tọa độ chọn không cùng nằm trên một mặt phẳng, do đó đối với tinh thể
ba chiều có thể nói rằng khi đã chọn được ba hướng x, y, z phù hợp với nhau
làm ba trục tọa độ thì tất cả các vectơ tịnh tiến R được biểu diễn như sau:
R n1 a x n 2 a y n 3 a z (*)
Tuy nhiên, không phải chỉ có duy nhất một cách chọn ba hướng tọa độ x, y,
z thông qua các vectơ cơ sở a x , a y , a z , của chúng biểu diễn được tất cả các
vectơ tịnh tiến theo công thức mà có thể có nhiều cách chọn khác nhau.
1.1.2. Mạng Bravais
Tập hợp tất cả những điểm có bán kính vectơ R được xác định theo công
thức (*) khi a x , a y , a z là các vectơ cơ sở trên ba hướng được chọn thích hợp
tạo thành một mạng trong không gian gọi là mạng Bravais.
Mạng Bravais chỉ mới biểu diễn được tính chất tuần hoàn tịnh tiến của
mạng tinh thể, bằng trực giác vật lý, ta thấy rằng mạng Bravais không phải là
mạng tinh thể thực. Mạng tinh thể thực phải được mô tả bằng cách chỉ ra mạng
Bravais của nó đi kèm với chỉ ra nền tinh thể, trong đó khái niệm nền tinh thể để
chỉ cấu hình nguyên tử tương ứng với mỗi nút mạng Bravais, tức là:
Cấu trúc tinh thể = Mạng Bravais + Nền tinh thể.
Có các nhận xét về mạng Bravais sau đây:
Một là, mạng Bavais phải biểu diễn được tính tuần hoàn tịnh tiến của mạng
tinh thể, do đó các nút mạng Bravais không nhất thiết phải trùng với nút mạng
tinh thể thực (có nguyên tử nằm ở đó).
Hai là, nếu tinh thể được cấu tạo nên từ nhiều loại nguyên tử, hoặc nói cách
khác số nguyên tử của nền tinh thể là hai hoặc lớn hơn, thì có thể coi là mỗi một
5
loại nguyên tử tạo nên mỗi một mạng Bravais của riêng mình (mạng con) và khi
đó mạng tinh thể sẽ gồm nhiều mạng Bravais giống hệt nhau lồng vào nhau. Một
tinh thể chỉ gồm một mạng Bravais có thể gọi là tinh thể đơn giản, trong khi một
tinh thể gồm nhiều mạng Bravais giống nhau lồng vào nhau thường được gọi là
tinh thể phức tạp.
Với cách xét, coi mỗi một loại nguyên tử tạo nên một mạng Bravais để tiện
cho việc xét vấn đề người ta thường coi là các nguyên tử nằm ở ngay chính các
nút của các mạng Bravais.
1.1.3. Ô đơn vị và ô cơ sở
Đối xứng tịnh tiến đã bao hàm ý là lặp đi lặp lại một “thể tích nào đó” thì
sẽ cho ra toàn tinh thể. “Thể tích nào đó” này thường được gọi là ô đơn vị. Ô
đơn vị có thể tích nhỏ nhất được gọi là ô đơn vị cơ sở, nó cũng còn gọi là ô đơn
vị tối giản hoặc sơ đẳng.
Có nhiều cách để kiến tạo ô cơ sở, trong đó cách phổ biến nhất là lấy luôn
hình hộp không gian do 3 vectơ cơ sở a x , a y , a z của ba hướng x, y, z thích hợp
tạo ra làm ô cơ sở. Có hai điểm đáng chú ý ở đây:
Một là, nếu a x , a y , a z là các vectơ cơ sở của ba hướng x, y, z không thích
hợp thì hình hộp không gian do chúng tạo ra sẽ chỉ là một ô đơn vị chứ không
phải là ô cơ sở.
Hai là, trong trường hợp a x , a y , a z là các vectơ cơ sở của ba hướng x, y, z
thích hợp thì vì ở đây không phải chỉ có một cách chọn một bộ hướng x, y, z
thích hợp duy nhất mà có nhiều cách chọn khác nhau, nên nếu dùng hình hộp
không gian do a x , a y , a z tạo ra làm ô cơ sở với các hình dạng khác nhau,
nhưng chúng có một điểm chung là có cùng thể tích như nhau.
Một cách đặc biệt để tạo ra ô cơ sở là cách làm của Wigner-Seitz: Lấy một
nút trên mạng Bravais, vẽ các mặt phẳng vuông góc đi qua điểm giữa các đoạn
thẳng nối nút mạng với tất cả các nút mạng lân cận với nó, khi đó hình không
gian nằm trong tất cả các mặt phẳng này là ô cơ sở. Có thể nói một cách tổng
quát là ô cơ sở Wigner-Seitz là vùng không gian gần điểm đã chọn của mạng
Bravais hơn bất cứ một điểm nào khác của mạng. Và có thể dùng ô WignerSeitz để đại diện cho mạng Bravais.
Như vậy, các loại ô cơ sở khác nhau đều có một tính chất chung là có thể
tích như nhau và cùng chứa số nguyên tử của nền tinh thể.
6
1.1.4. Các phép đối xứng của mạng tinh thể
Tất cả các tinh thể đều có một tính chất chung là tính chất tuần hoàn tịnh
tiến, ngoài ra tùy vào các trường hợp cụ thể, chúng còn có thể có (hoặc không
có) các tính chất đối xứng khác nữa.
Phép đối xứng của tinh thể được định nghĩa chung như sau: Nếu sau một
phép biến đổi không làm thay đổi khoảng cách giữa hai điểm bất kỳ trong tinh
thể nào đó mà mạng tinh thể chuyển sang một vị trí mới hoàn toàn giống như vị
trí cũ (chỉ có sự đổi chỗ của các nguyên tử cùng loại), thì được gọi là phép đối
xứng của tinh thể. Các phép đối xứng chủ yếu của mạng tinh thể là các phép
sau: Tịnh tiến, quay quanh một trục, phản xạ gương (qua một mặt phẳng) và các
tổ hợp khác nhau của chúng.
Tập hợp tất cả các phép đối xứng khác nhau của tinh thể lập thành một
nhóm gọi là nhóm không gian của tinh thể. Có tất cả 230 nhóm không gian, tức
là có 230 loại tinh thể có các tính chất đối xứng không gian khác nhau.
1.1.5. Phân loại các mạng Bravais
Dựa vào các tính chất đối xứng (bất biến) đối với nhóm tịnh tiến, các mạng
Bravais được phân ra làm 14 loại. Ngoài tính đối xứng đối với nhóm tịnh tiến,
mỗi mạng Bravais còn có tính đối xứng đối với một nhóm điểm nào đó. Các
mạng có cùng một nhóm điểm tạo thành một hệ. Căn cứ vào tính đối xứng đối
với các nhóm điểm khác nhau 14 mạng Bravais được chia làm các hệ sau: hệ lập
phương, hệ tứ giác, hệ trực giao, hệ hình thoi, hệ một nghiêng, hệ ba nghiêng, hệ
lục giác. Các hệ tinh thể được phân loại theo ô đơn vị chứ không phải theo ô cơ
sở, vì ô cơ sở chỉ cho thấy đối xứng tịnh tiến, trong khi hệ tinh thể là phân loại
tinh thể theo đối xứng đối với nhóm điểm.
1.1.6. Hệ lập phương
Hệ lập phương bao gồm các mạng Bravais sau đây: Lập phương đơn, lập
phương tâm khối (tâm thể), lập phương tâm mặt (tâm diện). Đây là những hệ hết
sức quan trọng, nhất là mạng lập phương tâm khối và lập phương tâm mặt. Chú
ý rằng, mỗi một nút của một mạng Bravais đều có số nút lân cận gần nhất như
nhau. Số này được gọi là số phối vị.
1.2. Lý thuyết vùng năng lƣợng
1.2.1. Cấu trúc vùng năng lượng tinh thể
7
Năng lượng của điện tử là thông số quan trọng nhất, nó quyết định hầu như
mọi tính chất khác của điện tử vì thế, nên có thể nói rằng phần lý thuyết vùng
năng lượng là một trong những đặc trưng của chất rắn tinh thể.
Đặc tính cơ bản của tinh thể là cấu trúc của nó có tính chất tuần hoàn tịnh
tiến (lặp đi lặp lại theo chu kì trong không gian). Tính chất này có ảnh hưởng
quyết định đến tất cả các tính chất vật lí khác của tinh thể, cụ thể là ta xét ảnh
hưởng của tính chất tuần hoàn tịnh tiến lên các loại chuyển động khác nhau xảy
ra trong tinh thể. Biểu hiện rõ nhất là: Do cấu trúc của tinh thể tuần hoàn tịnh
tiến, các chuyển động xảy ra trong tinh thể cũng trở nên tuần hoàn tịnh tiến,
nhưng trong không gian đảo.
Một là, nguyên lý hình thành các vùng năng lượng. Có hai cách tiếp cận để
xét trạng thái năng lượng của điện tử trong chất rắn, đó là:
Thứ nhất là, coi các điện tử liên kết chặt với các nguyên tử mẹ của chúng
và nghiên cứu sự thay đổi các trạng thái của các điện tử này khi một số lượng
lớn các nguyên tử kết hợp lại với nhau để tạo thành một vật rắn. Cách tiếp cận
này thường được gọi là phép gần đúng điện tử liên kết chặt.
Thứ hai là, xem xét điều gì xảy ra khi điện tử chuyển từ trạng thài hoàn
toàn tự do sang trạng thái nằm trong trường thế tuần hoàn do các ion của mạng
tinh thể sinh ra. Cách tiếp cận này thường được gọi là phép gần đúng điện tử gần
tự do.
Cách tiếp cận thứ nhất đơn giản, dễ hiểu nên rất hay được dùng để minh
họa hình thành các vùng năng lượng. Ngoài ra cách này còn nói lên rằng chỉ cần
sự ảnh hưởng lên nhau giữa các nguyên tử lân cận nhau (trật tự gần) là đã đủ để
làm sinh ra bức tranh vùng năng lượng chứ không phải chỉ có tính tuần hoàn của
trường tinh thể (trật tự xa) mới làm sinh ra được các vùng năng lượng. Từ đây
có thể nói rằng một số chất rắn không có cấu trúc tinh thể vẫn có thể có các
vùng năng lượng. Cách tiếp cận thứ nhất chỉ cho thấy sự phụ thuộc của bức
tranh năng lượng của điện tử vào khoảng cách mà không cho thấy sự phụ thuộc
của năng lượng này vào véctơ sóng k , mà chỉ có cách tiếp cận thứ hai mới cho
ta thấy rõ điều ấy.
Vùng năng lượng - hệ quả của sự phủ hàm sóng. Nguyên nhân tạo ra các
vùng năng lượng là do các điện tử thuộc các nguyên tử khác nhau có các hàm
sóng chồng lấn (phủ) lên nhau. Khi các nguyên tử cách xa nhau đến mức có thể
coi chúng là hoàn toàn độc lập đối với nhau thì vị trí của các mức năng lượng
của chúng hoàn toàn trùng nhau. Còn khi các nguyên tử tiến lại gần nhau đến
8
khoảng cách cỡ Å (10-10m) thì các hàm sóng của các điện tử của chúng bắt đầu
phủ lên nhau và chúng không còn độc lập nữa, các mức năng lượng nguyên tử
không trùng chập nhau nữa mà tách ra thành các vùng năng lượng. Mỗi mức
tách ra thành một vùng. Mỗi vùng gồm N mức nằm gần nhau đến mức có thể coi
chúng phân bố như liên tục theo năng lượng. Và như vậy trong một số trường
hợp có thể nói về bức tranh vùng năng lượng rất phức tạp do có sự chồng lấn
giữa các vùng với nhau, sự tách của một vùng ra thành các vùng con. Sự tách
một mức năng lượng nguyên tử ra thành một vùng năng lượng rộng hay hẹp phụ
thuộc vào sự phủ hàm sóng giữa các điện tử thuộc các nguyên tử khác nhau với
nhau là nhiều hay ít. Khi giữa các điện tử nằm trên các lớp ngoài của nguyên tử,
nhất là các điện tử hóa trị, thì có sự phủ hàm sóng mạnh, do đó vùng năng lượng
lúc này rộng. Khi các điện tử nằm trên các lớp càng sâu bên trong bao nhiêu thì
sự phủ hàm sóng càng yếu đi bấy nhiêu (do bị các điện tử bên ngoài che chắn),
và vùng năng lượng đối với các lớp càng nằm sâu bên trong càng hẹp lại. Khi
xen kẽ giữa các vùng năng lượng được phép là các vùng cấm, thì nói chung là
không có các điện tử có các giá trị năng lượng nằm trong các vùng cấm này.
Theo nguyên lý vùng năng lượng tối thiểu thì trong nguyên tử các mức
năng lượng thấp hơn bao giờ cũng được lấp đầy trước. Do đó các vùng năng
lượng tương ứng với các mức năng lượng của các điện tử nằm bên trong nguyên
tử (có năng lượng thấp hơn) bao giờ cũng được lấp đầy trước, chỉ còn vùng
ngoài cùng (vùng hóa trị) là có thể chưa được lấp đầy hoàn toàn. Từ đây, dựa
trên cơ sở vùng hóa trị này được lấp đầy bao nhiêu, người ta phân loại các chất
rắn thành kim loại, bán dẫn, và điện môi như hình 1.1. Nếu vùng hóa trị được
các điện tử lấp đầy hoàn toàn và nằm cách xa vùng năng lượng được phép tiếp
theo, thì ta có chất điện môi tức là chất cách điện. Còn nếu vùng hóa trị mới chỉ
được các điện tử lấp đầy một phần, hoặc vùng hóa trị đã được lấp đầy hoàn toàn
nhưng lại chồng lên hoặc liền nhau với vùng năng lượng tiếp theo (thường được
gọi vùng dẫn), thì ta có chất dẫn điện, hay cũng còn gọi là kim loại hoặc bán kim
loại. Trong trường hợp tuy vùng hóa trị cũng đã được các điện tử lấp đầy hoàn
toàn nhưng vùng này lại khá gần với vùng dẫn, chỉ cách vùng dẫn bằng một
vùng tương đối hẹp để sao cho về nguyên tắc các kích thích nhiệt cũng có thể
kích điện tử từ vùng hóa trị nhảy lên vùng dẫn ( Eg » 0,3 ÷ 3 eV) thì ta có chất
bán dẫn.
9
.
Hình 1.1: Phân loại các chất rắn theo sự lấp đầy của vùng hóa trị.
a.điện môi b.bán dẫn
c.Kim loại
Các chất rắn về mật độ dẫn điện được phân loại như trên do hiện tượng
chất rắn xảy ra như sau: Sự dẫn điện về bản chất là chuyển động của các điện tử
trong tinh thể. Nếu xét theo bức tranh vùng năng lượng thì đó hiện tượng điện tử
nhảy mức năng lượng thấp lên mức cao hơn. Vì vùng bên trong đều đã bị lấp
đầy nên trong các vùng này các điện tử không thể nhảy lên các mức cao hơn
được. Do đó chỉ có vùng ngoài cùng (vùng hóa trị) là quan trọng nhất nếu xét về
tính chất dẫn điện.
Vùng năng lượng - hệ quả của tuần hoàn tịnh tiến. Từ sự sắp xếp rất trật tự,
có tính tuần hoàn của các nguyên tử trong tinh thể, ta có thể nhận xét rằng nói
chung thì điện tử chuyển động hầu như hoàn toàn tự do trong tinh thể mà không
hề gặp bất kỳ một trở ngại nào, không va chạm một hạt nào, cứ như là chúng
chuyển động trong chân không. Đây chính là cơ sở vật lý để người ta đưa ra gần
đúng điện tử gần tự do. Nói như vậy nhưng không có nghĩa là cấu trúc tinh thể
hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến chuyển động của điện tử. Ảnh hưởng này
biểu hiện ở chỗ trong một số trường hợp nhất định điện tử không thể di chuyển
trong tinh thể được. Đó là trường hợp khi điện tử chuyển động với vectơ sóng
k đáp ứng điều kiện phản xạ Bragg ( k - k = G i , với G i là một véctơ bất kì
của mạng đảo). Như vậy, một điện tử có vectơ sóng k như trên sẽ bị cả họ một
mặt phẳng tinh thể vuông góc với G i phản xạ đi phản xạ lại tạo thành sóng
đứng, và kết quả là nó không thể di chuyển được. Để phân tích sâu hơn ta xét
chi tiết về đặc điểm vùng năng lượng này.
10
Điện tử hoàn toàn tự do: Khi điện tử hoàn toàn tự do, nếu ta coi đó là hạt
thì nó chuyển động với vận tốc cố định (v = const ); còn nếu coi nó là sóng thì
nó có vectơ sóng k cố định (k = const ). Hơn nữa, trong trường hợp này năng
lượng của điện tử chỉ thuần là động năng và do đó quan hệ giữa năng lượng và
xung lượng có điện tử có dạng:
Hạt :
mv 2 p 2
E=
=
2
2m
2
k2
p Sóng –hạt: E =
2m
2
k2
Gần đúng điện tử gần tự do trong tinh thể. Nói một cách chính xác thì trong
tinh thể điện tử sẽ có cả động năng (K) và thế năng (U), hay là năng lượng tổng
cộng E của nó bằng:
E=U+K
Như đã phân tích ở trên, ta có thể coi một cách gần đúng rằng (đây là dạng
đơn giản nhất của gần đúng điện tử gần tự do). Bình thường, khi điện tử không
bị phản xạ Bragg thì nó chuyển động hoàn toàn tự do trong tinh thể, tức là nó
không có thế năng mà chỉ có động năng, do đó ở đây E = K. Ngược lại, khi bị
phản xạ Bragg thì điện tử không di chuyển được trong tinh thể, tức là lúc này nó
chỉ có động năng mà không có thế năng: E = U.
Ta có thể biểu diễn bằng công thức như sau:
2
2
k
k k , Gi U
E K+U = [1 k k , Gi ]
2m
trong đó: k- k,Gi là kí hiệu Kronecker:
0 khi k- k G i
1 khi k- k = G i
k- k,Gi =
Ngoài ra, khi điện tử chỉ có thế năng thì cần nhớ rằng thế năng là một đại
lượng phụ thuộc vào vị trí. Đối với trường hợp điện tử trong tinh thể thì có thể
xét để thấy rằng có không phải một mà là hai vị trí mà điện tử nó có thể nằm ở
đó khi nó bị cố định, cụ thể như sau: Trong mạng tinh thể mỗi một ion dương sẽ
tạo ra xung quanh mình một hố thế năng (chú ý là thế năng của điện tử trong
điện trường của các ion dương là âm, tương ứng với việc nó bị hút bởi các ion
dương này). Do sự sắp xếp có trật tự của các nguyên tử trong mạng tinh thể nên
các hố thế năng sắp xếp một cách tuần hoàn. Từ sự bố trí có tính chất tuần hoàn
của các hố thế năng nói trên, bằng các nhận xét về đối xứng có thể thấy rằng có
hai vị trí tương đương nhau mà điện tử có thể nằm ở đó khi nó bị cố định không
11
di chuyển được, đó là khi ở ngay tại vị trí chính các nút mạng (vị trí các ion
dương), tại đây điện tử có thế năng âm nhất (U1). Và khi vị trí giữa các nút
mạng, tại đây điện tử có thế năng bớt âm hơn (U2). Khi điện tử cố định trong
tinh thể thì nó có hai (chứ không phải một) và chỉ có hai (chứ không phải là
nhiều hơn) giá trị năng lượng (là thế năng) U1 và U2 khác nhau tức là không có
điện tử có năng lượng nằm trong khoảng E = U2 - U1 , hay nói cách khác là có
sự gián đoạn trong thang năng lượng của điện tử trong tinh thể. Khoảng năng
lượng E = U2 - U1 , thường được gọi là khe năng lượng hoặc vùng cấm.
Như vậy, tính chất tuần hoàn tịnh tiến của cấu trúc tinh thể làm cho năng
lượng của các điện tử chuyển động trong tinh thể có cấu trúc theo vùng, các
vùng được phép xen kẽ (cài răng lược) với các vùng cấm và là lí do xuất hiện
các vùng cấm là phản xạ Bragg.
Hai là, gần đúng một điện tử. Bài toán tìm ra các trạng thái năng lượng của
các điện tử trong tinh thể là một bài toán phức tạp, vì số lượng điện tử trong tinh
thể rất lớn. Do đó người ta dùng phương pháp gần đúng để giải nó. Và phương
pháp hay được dùng nhất đó là gần đúng một điện tử. Đây là phương pháp mà
trong đó tác động của tất cả các hạt nhân và các điện tử khác trong tinh thể lên
điện tử đang xét bằng một tác động trung bình (hoặc hiệu dụng) do đó ta chỉ cần
xét các trạng thái năng lượng của một điện tử có thể đại diện cho tất cả các điện
tử trong tinh thể. Tổng quát lại, gần đúng một điện tử là cách phân chia: tinh thể
= một điện tử + phần còn lại.
Dựa vào tính chất tuần hoàn tịnh tiến của cấu trúc tinh thể, ta thấy thế năng
V( r ) mô tả tác dụng trung bình của tất cả các hạt nhân và điện tử khác của
mạng tinh thể được gọi là trường tinh thể. Và chúng phải thỏa mãn điều kiện
tuần hoàn tịnh tiến:
V(r R) V(r)
Theo quan điểm về cơ học lượng tử, bài toán về các trạng thái của điện tử
trong tinh thể lý tưởng trở thành bài toán đơn giản giải phương trình
Schrodinger:
2
2m
2r(r) V(r)(r) E(r)
trong đó: V( r ) thỏa mãn điều kiện: V(r R) V(r)
12
Để giải phương trình này ta phải xác định được trường thế V( r ). Thông
thường, người ta dùng phương pháp gần đúng tự hòa hợp Hartree - Fox để giải:
Chọn hàm sóng ban đầu 0 (r) nào đó (gần bậc 0 của V( r )). Thay hàm sóng
0 (r) vào phương trình Schrodinger để tìmV0( r ). Áp dụng V0( r )vào phương
trình Schrodinger để tìm ψ1( r ). Đặt ψ1( r )vào phương trình Schrodinger để tìm
ra V1 (gần đúng bậc 1 của V( r )). Thực hiện các phép toán liên tục nối tiếp nhau
ta sẽ thu được kết quả chính xác hơn về V( r ) và ψ( r ).
Ba là, hàm Bloch. Giải phương trình Schrodinger cho bài toán một hạt
chuyển động trong trường thế tuần hoàn :
V(r R) V(r)
Biểu diễn hàm sóng dưới dạng :
V(r R) V(r) (r R) eikR (r)
Từ đây suy ra được:
k (r) u k (r)eik r
trong đó: u k (r R) u k (r)
Tức là hàm sóng của điện tử chuyển động trong tinh thể trong gần đúng
một điện tử có dạng: Là một sóng phẳng ( eik r ); nhưng với biên độ uk( r ) không
phải là cố định mà thay đổi tuần hoàn theo chu kỳ của mạng tinh thể
u k (r R) u k (r) . Một hàm như vậy được gọi là hàm Bloch. Hàm Bloch là dạng
chung của hàm sóng điện tử trong tinh thể ở gần đúng một điện tử, nó là hệ quả
trực tiếp của tính tuần hoàn của tinh thể. Do đó dùng phương pháp gần đúng nào
để giải bài toán một điện tử thì bao giờ lời giải của bài toán này cũng đều phải
có dạng Bloch. Xác suất tìm thấy hạt tại một vị trí nào đó trong tinh thể là như
nhau trong toàn tinh thể - điện tử không định xứ tại một nút mạng cụ thể nào.
* (r) (r) u *k (r)u k (r) u k (r)
trong đó: (r) có dạng hàm Bloch.
u k (r) là hàm tuần hoàn.
13
2
Vectơ sóng của điện tử k biểu diễn trạng thái của điện tử trong tinh thể nó
quyết định độ lệch pha của hàm sóng.
Bốn là, vùng năng lượng trong gần đúng điện tử liên kết chặt. Việc chọn
hàm sóng ban đầu (ở gần đúng bậc 0) cho phương trình Schrodinger của gần
đúng một điện tử được chọn từ các suy luận sau.
Trong phép gần đúng điện tử gần tự do, hàm sóng được chọn là hàm sóng
của điện tử tự do, sau đó ta bổ chính cho nó bằng cách coi trường tinh thể tuần
hoàn V( r ) mà điện tử chuyển động trong đó chỉ là một nhiễu loạn nhỏ tác động
lên chuyển động tự do của điện tử. Ngoài ra ta còn dùng để giải bài toán tại biên
vùng Brillouin, khi mà nhiễu loạn trên đây không thể coi là nhỏ nữa. Sử dụng
phương pháp gần đúng điện tử gần tự do, ta thấy V( r ) chỉ là một nhiễu loạn nhỏ
tác động lên chuyển động tự do của điện tử, vì vậy nó chỉ áp dụng được khi
động năng của điện tử lớn hơn rất nhiều so với sự biến thiên trong không gian
của thế năng V( r ). Trong thực tế trường hợp xảy ra khi ta chiếu vào tinh thể
chùm điện tử có năng lượng ít vài trăm eV, còn bình thường thì điện tử trong
tinh thể chỉ có động năng cùng bậc với sự biến thiên trong không gian của V( r ),
do đó không thể áp dụng gần đúng điện tử gần tự do.
Nếu ta chọn, hàm sóng ban đầu là các hàm sóng riêng của các điện tử nằm
trong các điện tử riêng biệt (hay còn gọi là hàm sóng nguyên tử), sau đó bổ
chính cho chúng bằng cách cho rằng khi các nguyên tử riêng biệt tiến lại gần
nhau để tạo nên tinh thể thì các nguyên tử cũng chỉ tương tác yếu với nhau và do
đó các điện tử vẫn liên kết chặt với các nguyên tử mẹ của chúng làm cho các
hàm sóng nguyên tử chỉ bị thay đổi đi chút ít (tức là chỉ bị nhiễu loạn nhỏ). Bình
thường khi các nguyên tử còn cách xa nhau thì các hàm sóng nguyên tử hoàn
toàn không chồng lấn lên nhau, tức là chúng trực giao nhau. Khi các nguyên tử
nằm đủ gần nhau sẽ xảy ra hiện tượng chồng lấn (phủ) của hàm sóng này làm
cho chúng không còn trực giao nhau nữa. Do đó điều kiện tương tác giữa các
nguyên tử, các hàm sóng của các điện tử trong phép gần đúng liên kết mạnh gần
như trực giao nhau.
Như vậy ta thấy gần đúng liên kết chặt sẽ càng đúng nếu điện tử càng nằm
sâu trong nguyên tử và nó sẽ không áp dụng được đối với các điện tử hóa trị.
Tuy nhiên với cách chọn hàm sóng ban đầu là cách chọn hàm sóng nguyên tử là
mỗi một nút mạng bao giờ cũng phải gắn liền với một số điện tử nhất định nào
đó (điện tử phải trung hòa về điện) làm cho ở đây rất khó xét các trạng thái phân
14
cực. Việc chọn các hàm sóng ban đầu cho phương trình Schrodinger bên cạnh
những mặt được thì cũng có những mặt chưa được, ta thấy cả hai phép gần đúng
điện tử gần tự do và điện tử liên kết mạnh đều không đủ khả năng mô tả một
cách định lượng trạng thái của các điện tử hóa trị của tinh thể. Tuy nhiên các
phép gần đúng này đã minh họa rất tốt các định luật chung về các trạng thái
năng lượng của các điện tử trong tinh thể và đó chính là giá trị của chúng.
Giải bài toán gần đúng điện tử liên kết chặt, ta thu được giá trị riêng của
năng lượng của điện tử nằm trong trạng thái ψ( r )có dạng:
E Eo C n eik R n
(**)
n
trong đó: C *o (r)V(r)o (r)d
n *o (r)V(r R n ) o (r R n )d
ξn được gọi là tích phân chồng lấn (có được do sự chồng lấn của các hàm sóng
nguyên tử).
Công thức (**) là công thức quan trọng nhất của lí thuyết vùng năng lượng
trong phép gần đúng điện tử liên kết chặt và chúng có hai ý nghĩa như sau:
Một mức năng lượng biến thành một vùng năng lượng. Công thức cho thấy
khi xét vấn đề từ quan điểm tinh thể được tạo nên từ các nguyên tử riêng biệt,
một mức năng lượng E0 của điện tử trong nguyên tử riêng biệt do kết quả của sự
tương tác giữa các nguyên tử lân cận nên bị dịch chuyển lên một đại lượng là C
và tách ra thành một vùng năng lượng (do thành phần chứa ξn). Công thức cũng
cho thấy rằng độ rộng của vùng năng lượng (được phép) tỉ lệ thuận với giá trị
của đại lượng ξn, chủ yếu được quyết định bởi độ chống lấn giữa các nguyên tử
cạnh nhau. Do đó, đối với các điện tử hóa trị sự chồng lấn của các hàm sóng là
quá lớn làm cho độ rộng của vùng năng lượng lên đến vài eV, lớn hơn cả
khoảng cách giữa hai mức năng lượng nguyên tử, vì vậy không thể áp dụng gần
đúng liên kết mạnh trong trường hợp này. Đối với các điện tử nằm trên các lớp
điện tử bên trong thì độ rộng của vùng năng lượng là khá nhỏ, khi đó có thể áp
dụng gần đúng này.
15
- Xem thêm -