Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng đầu tư và phát triển kiên...

Tài liệu Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng đầu tư và phát triển kiên giang

.PDF
92
320
72

Mô tả:

Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Kiên Giang
1 CHƯƠNG 1 LYÙ LUAÄN CHUNG VEÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng Tín dụng, theo tiếng Latinh gọi là creditium, tiếng Anh gọi là credit, có nghĩa là tin tưởng và tín nhiệm. Theo ngôn ngữ Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn. Về mặt tài chính, tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang người sử dụng trong một thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định. Tín dụng là một phạm trù kinh tế hàng hóa, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sở hữu nguồn vốn nhàn rỗi với các chủ thể sử dụng vốn trong nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc và lãi. Và tín dụng cũng là một trong những quan hệ xã hội hình thành từ rất sớm gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hóa. Quan hệ tín dụng đầu tiên tồn tại chủ yếu bằng hiện vật và dưới hình thức cho vay nặng lãi trên cơ sở của nền sản xuất hàng hóa kém phát triển. Trong các thời kỳ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, quan hệ tín dụng phát triển chậm trên cơ sở những nền sản xuất hàng hóa nhỏ. Đến giai đoạn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời với nền sản xuất hàng hóa lớn, nền sản xuất đại công nghiệp thì quan hệ tín dụng mới thật sự phát triển mạnh mẽ. Tín dụng bằng hiện vật nhường chỗ cho tín dụng hiện kim, cho vay nặng lãi nhường chỗ cho các hình thức tín dụng tiến bộ hơn như: Tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước, Tín dụng thương mại… Tín dụng Ngân hàng là một trong những hình thức tín dụng chủ yếu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng, khác với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chuyên nghiệp hoạt động của nó hết sức đa dạng và phong phú. 2 Tín dụng ngân hàng với đối tượng cho vay là tiền tệ nên sự vận động không bị ngăn cản về mặt phương hướng, nghĩa là có thể cho vay đối với bất kỳ một ngành kinh tế nào. Mặt khác, với qui mô lớn về nguồn vốn ngân hàng có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay vốn của bên vay cả về mục đích sử dụng vốn và các thời hạn nợ (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn). Vì vậy có thể xem TDNH là “Quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng, các TCTD với bên kia là các pháp nhân hoặc thể nhân trong nền kinh tế quốc dân” [6] 1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng. Qua khái niệm và bản chất của tín dụng được phân tích ở trên, ta thấy rằng tín dụng ngân hàng có 3 đặc điểm chủ yếu sau: - Về hình thức biểu hiện: hoạt động của tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thái tiền tệ và bút tệ. Do đặc tính về lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, để tập trung được lượng vốn lớn từ nhiều chủ thể, cũng như phân phối đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể kịp thời và đầy đủ, ngân hàng vận dụng vốn dưới hình thái tiền tệ để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. - Chủ thể trong quan hệ tín dụng ngân hàng: Ngân hàng thương mại, các TCTD đóng vai trò là chủ thể trung tâm. Ngân hàng vừa thực hiện vai trò là chủ thể đi vay trong khâu huy động, vừa thực hiện vai trò là chủ thể cho vay trong khâu phân phối cho vay. - Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với quy mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa: xuất phát từ đặc điểm tín dụng ngân hàng được cấp dưới hình thái tiền tệ có thể đáp ứng các nhu cầu khác nhau ngoài nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa, giá trị các món tín dụng có thể không đồng nhất với giá trị mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. 1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. 1.1.3.1. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá phát triển. Trong quá trình sản xuất kinh doanh để duy trì sự hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và 3 lưu thông. Nên hiện tượng thừa và thiếu vốn tạm thời luôn xảy ra tại các doanh nghiệp. Từ đó, tín dụng góp phần điều tiết các nguồn vốn tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn. Khi vốn tín dụng ngân hàng tham gia vào quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của nền kinh tế có hiệu quả, nó thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân mở rộng qui mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến quy trình công nghệ, hạ giá thành sản xuất và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Thực hiện vai trò này, tín dụng ngân hàng luôn là người trợ thủ đắc lực cho các doanh nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế. 1.1.3.2. Tín dụng ngân hàng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả. Trong khi thực hiện chức năng thứ nhất là tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng đã góp phần làm giảm khối lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền mặt trong tay các tầng lớp dân cư, làm giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản xuất hàng hoá dịch vụ làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, chính nhờ đó mà tín dụng góp phần làm ổn định thị trường giá cả trong nước. Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là một trong những nhân tố tích cực tiết giảm việc sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế là bộ phận lưu thông tiền mà nhà nước rất khó quản lý và lại dễ bị tác động của quy luật lưu thông tiền tệ. Vì vậy, tín dụng ngân hàng đã đóng góp không nhỏ trong việc điều tiết chính sách tiền tệ, nhằm ổn định tiền tệ tạo điều kiện để ổn định giá cả và là tiền đề quan trọng để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. 1.1.3.3. Tín dụng ngân hàng góp phần tạo công ăn việc làm, ổn định đời sống và trật tự an tòan xã hội. Một mặt tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất hàng hoá và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thoả mãn nhu cầu đời sống của người lao 4 động, mặt khác, do vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng trong việc khai thác các tiềm lực của xã hội như: tài nguyên thiên nhiên, lao động, đất đai…vào việc sản xuất góp phần phát triển kinh tế xã hội, do đó có thể thu hút được đông đảo lực lượng lao động của xã hội tham gia tạo ra một yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, tín dụng Ngân hàng đã góp phần không nhỏ vào việc tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, từng bước ổn định đời sống của người lao động, thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội. Ngoài các vai trò cơ bản trên, tín dụng ngân hàng còn có vai trò quan trọng để mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế, nhờ đó thúc đẩy mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước, làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển. 1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng. Có nhiều tiêu chí làm căn cứ để phân loại TDNH, tùy theo tiêu chí mà mà có các loại hình TDNH khác nhau:  Căn cứ vào loại hình nghiệp vụ cấp tín dụng: Căn cứ theo điều 98 luật các tổ chức tín dụng thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010, phân theo nghiệp vụ tín dụng được chia thành các loại sau: - Cho vay; - Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác; - Bảo lãnh ngân hàng; - Phát hành thẻ tín dụng; - Bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế; - Các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. 5  Căn cứ vào thời hạn cấp tín dụng chia thành: - Tín dụng ngắn hạn: là hoạt động cấp tín dụng có thời hạn tối đa là 12 tháng. - Tín dụng trung hạn: là hoạt động cấp tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng. - Tín dụng dài hạn: là hoạt động cấp tín dụng có thời hạn trên 60 tháng.  Căn cứ vào tính chất luân chuyển của vốn gồm: - Tín dụng tài trợ vốn lưu động: là việc cấp vốn tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp, cá nhân để mua nguyên, nhiên liệu, hàng hóa,… phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. - Tín dụng tài trợ tài sản cố định: là việc cấp vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân để đầu tư vào máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua sắm tài sản cố định.  Căn cứ vào tài sản đảm bảo: - Tín dụng không có tài sản đảm bảo: là việc TCTD cho khách hàng vay mà không có ràng buộc các biện pháp thế chấp, cầm cố tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ 3 để đảm bảo cho món vay đó. - Tín dụng có tài sản đảm bảo: là việc cho vay của TCTD cho khách hàng trong đó có ràng buộc các biện pháp thế chấp, cầm cố tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ 3 để đảm bảo cho món vay đó.  Căn cứ vào phương thức cho vay – thu nợ: - Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và TCTD thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng - Cho vay theo hạn mức tín dụng: TCTD và khách hàng xác định và thõa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. - Cho vay theo dự án đầu tư: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. - Cho vay trả góp: khi vay vốn, TCTD và khách hàng xác định và thõa thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. 6 1.1.5. Mở rộng tín dụng ngân hàng Mở rộng TDNH là một khái niệm kinh tế, chỉ một phương thức kinh doanh của NHTM qua việc phấn đấu cho sự tăng lên về quy mô, khối lượng, không gian, chất lượng tín dụng và tăng lợi nhuận của ngân hàng để đảm bảo cho ngân hàng phát triển bền vững bằng việc các ngân hàng có khả năng đáp ứng nhanh chóng, rộng rãi các nhu cầu tín dụng của mọi chủ thể hội đủ những điều kiện theo quy định, qua đó thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của các chủ thể kinh tế và nền kinh tế. [5] Từ khái niệm trên cho thấy nội dung, khái niệm mở rộng TDNH bao gồm những điểm chủ yếu sau: Một là, mở rộng TDNH là một khái niệm kinh tế chỉ một phương thức kinh doanh của NHTM: Là một khái niệm kinh tế bởi nó chứa đựng yếu tố kinh tế, phản ánh về lợi nhuận, về tăng trưởng kinh tế. Mở rộng TDNH còn chứa đựng tính chất xã hội bởi chứa đựng sự tín nhiệm và sự điều chỉnh của pháp luật và những quy định, những quy trình, điều kiện mang tính chất pháp lý. Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chủ yếu của NHTM và thường mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nhất là ngân hàng ở những nước đang phát triển. Với lẽ đó các NHTM thường rất quan tâm đến hoạt động tín dụng sao cho có hiệu quả tối ưu. Hai là, mở rộng nguồn vốn của ngân hàng: Muốn mở rộng tín dụng các ngân hàng phải có đủ năng lực vốn thì mới có thể có khả năng cung ứng nguồn vốn theo nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế, lẽ đương nhiên là các chủ thể vay vốn phải đáp ứng các điều kiện tín dụng cần thiết mà ngân hàng đưa ra. Để có thể thực hiện được mở rộng TDNH các ngân hàng phải mở rộng được nguồn vốn của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại thì việc các NHTM phải nâng cao năng lực tài chính, khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế phát triển là điều quan trọng. Ba là, mở rộng không gian, thời gian hoạt động: 7 Ngân hàng phải có đủ những điều kiện để mở rộng không gian, thời gian hoạt động. Điều đó có nghĩa là ngân hàng phải mở rộng cả mạng lưới hữu hình (địa điểm giao dịch trực tiếp) và vô hình (giao dịch gián tiếp qua sử dụng công nghệ điện tử, thông tin) nhằm tăng khả năng giao dịch thuận tiện, nhanh chóng, bảo mật, an toàn đáp ứng nhu cầu và những lợi ích cho nhiều loại khách hàng khác nhau, ở những không gian rộng và thời gian có tính liên tục. Do đó để mở rộng TDNH cần chú trọng mở các dịch vụ liên quan đến kinh doanh TDNH. Mở rộng TDNH không chỉ thuần túy là khách hàng giao dịch trực tiếp mà cần chú trọng các dịch vụ sử dụng công nghệ điện tử, tin học. Tạo điều kiện để thu hút khách hàng bằng những dịch vụ sử dụng công nghệ cao, vượt khỏi địa lý hành chính, quốc gia: chẳng hạn các dịch vụ qua máy rút tiền tự động (ATM) sử dụng 24/24 giờ, thẻ tín dụng sử dụng ở nhiều nơi cả trong nước và nhiều nước khác nhau… Bốn là, mở rộng các đối tượng khách hàng: Lượng khách hàng tăng lên cả về quy mô và chất lượng nhằm sử dụng có hiệu quả vốn vay từ ngân hàng. Mở rộng khách hàng cả về số lượng và chất lượng nhằm tăng tần số giao dịch của khách hàng cả về quy mô, số lượng và chất lượng; cả khách hàng trong nước và ngoài nước; giữ vững khách hàng cũ nhất là khách hàng tốt và tăng thêm lượng khách hàng mới. Đa dạng hóa các loại khách hàng trong mọi tầng lớp cộng đồng dân cư. Trong đó cần chú trọng đơn giản hóa và đa dạng các điều kiện tín dụng cho phù hợp với từng loại đối tượng khách hàng và số lượng, giá trị cấp tín dụng. Năm là, mở rộng phải gắn liền với đảm bảo an toàn hiệu quả và nâng cao chất lượng TDNH: Một trong những vấn đề quan trọng là an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng. Mở rộng TDNH thường gắn với nhiều vấn đề kinh tế, xã hội nhất là rủi ro tín dụng. Để đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng còn phải hết sức chú trọng đảm bảo thực hiện mục tiêu của nguồn vốn huy động. Sự linh hoạt trong mục tiêu, thời hạn huy động. Cho vay là cần thiết, song cần phải chú trọng đến vấn đề 8 thu hồi nợ nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Thường để đo lường chất lượng tín dụng của các NHTM, người ta dùng chỉ tiêu nợ quá hạn. Chỉ số này được tính toán như sau: Tổng dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = ----------------------- x 100 % Tổng dư nợ Tuy nhiên theo cách tiếp cận hiện nay khi đánh giá chất lượng tín dụng, người ta xem tỷ lệ nợ quá hạn như tỷ lệ nợ xấu bao gồm nợ nhóm 3+4+5. Mở rộng TDNH là yêu cầu cần thiết, song phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và nâng cao chất lượng TDNH nhằm đạt tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. 1.2. TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA. 1.2.1. Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thường khi nói đến doanh nghiệp nhỏ và vừa phải nói đến đặc điểm đầu tiên để phân biệt với doanh nghiệp lớn, đó là qui mô về vốn, lao động hay doanh thu hoặc phạm vi hoạt động của nó. Tùy theo điều kiện của từng quốc gia, trình độ phát triển kinh tế, định hướng phát triển kinh tế, định hướng phát triển trong từng thời kỳ mà khái niệm này có thể thay đổi. Bên cạnh đó tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa của các chương trình trợ giúp cũng khác nhau tùy thuộc vào đối tượng trợ giúp của từng chương trình cụ thể. Tham khảo tiêu chí xếp loại DNNVV ở một số nước cho thấy, những tiêu chí thường được các nước sử dụng để xác định DNNVV là vốn, lao động, doanh thu. Có nước chỉ dùng một, hai hoặc cả ba yếu tố đó, có nước còn tùy thuộc vào từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà quy định các tiêu chí khác nhau. Bên cạnh đó có nước phân loại doanh nghiệp thành các nhóm theo quy mô như doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp vừa để hoạch định chính sách cụ thể cho các đối tượng DNNVV theo quy mô. Trong nghị định 90/2001/NĐCP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNVVN định nghĩa DNVVN là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động bình quân hàng năm không quá 300 người và có thể linh hoạt áp dụng một 9 trong hai hoặc đồng thời cả hai tiêu chí nói trên tùy thuộc vào tình hình kinh tế xã hội của từng ngành, từng địa phương trong quá trình thực hiện các biện pháp, các chương trình trợ giúp. Theo quy định tại nghị định này không có sự phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp khác nhau khi đề cập đến một cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc DNVVN, một cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể hay đăng ký kinh doanh cá thể hay đăng ký theo luật hợp tác xã, luật doanh nghiệp và luật doanh nghiệp nhà nước. Hiện tại DNNVV được quy định tại nghị định số 56/2009/NĐ-CP ban hành ngày 30 tháng 06 năm 2009 của Chính phủ. Tại nghị định này định nghĩa DNNVV như sau: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau: Bảng 1.1: Tiêu chí xác định DNNVV theo nghị định số 56/2009/NĐ-CP Quy mô Khu vực I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản II. Công nghiệp và xây dựng III. Thương mại và dịch vụ Doanh nghiệp siêu nhỏ Số lao động Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa Tổng Tổng nguồn Số lao động Số lao động nguồn vốn vốn 10 người 20 tỷ đồng trở xuống trở xuống 10 người 20 tỷ đồng trở xuống trở xuống 10 người 10 tỷ đồng trở xuống trở xuống từ trên 10 từ trên 20 tỷ người đến đồng đến 100 200 người tỷ đồng từ trên 10 từ trên 20 tỷ người đến đồng đến 100 200 người tỷ đồng từ trên 10 từ trên 10 tỷ người đến 50 đồng đến 50 tỷ người đồng 1.2.2. Những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp nhỏ và vừa từ trên 200 người đến 300 người từ trên 200 người đến 300 người từ trên 50 người đến 100 người 10 1.2.2.1. Điểm mạnh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có những điểm mạnh cơ bản sau đây: - Dễ khởi nghiệp: để thành lập doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ chỉ cần một số vốn đầu tư ban đầu tương đối nhỏ, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng không lớn. - Bộ máy quản lý gọn nhẹ, linh họat: Do quy mô doanh nghiệp nhỏ, do vậy bộ máy quản lý nhỏ gọn, DNNVV có tính chất năng động, linh hoạt, thích ứng nhanh với sự thay đổi môi trường kinh doanh, thể chế kinh tế xã hội. Có khả năng thích ứng nhanh trong việc chuyển hướng kinh doanh và ít bị tổn thất do môi trường kinh doanh biến động, thu hồi vốn đầu tư nhanh. - Dễ phát huy mọi tiềm năng của doanh nghiệp: DNNVV dễ thành lập với chi phí thấp, tận dụng triệt để các nguồn lực ở địa phương, nơi mà các doanh nghiệp lớn không thể chen chân được. - Các DNNVV có tính chất tự chủ cao: Các DNNVV hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Sự phát triển DNNVV góp phần làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Chính vì thế, DNNVV phải luôn năng động, sáng tạo, chủ động mới có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế. 1.2.2.2. Điểm yếu của các DNNVV. DNNVV có những lợi thế riêng, song cũng có những mặt còn hạn chế sau: - Do hạn chế về vốn nên công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật chưa được quan tâm, tốc độ đổi mới công nghệ chậm, thường sử dụng công nghệ, kỹ thuật lạc hậu cũ kỹ nên chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, khả năng cạnh tranh yếu. - Không có lợi thế của kinh tế quy mô để có các thành quả và lợi ích mà chỉ có quy mô tầm cở DN lớn mới có được. - Trình độ cán bộ quản lý và tay nghề của người lao động còn hạn chế. Lao động trong khu vực DNNVV chủ yếu là lao động làm việc giản đơn, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề thấp, năng suất lao động không cao. 11 - Nhận thức của cán bộ quản lý ở các DNNVV còn yếu, nhất là ý thức chấp hành pháp luật, chấp hành chế độ quản lý tài chính, kế tóan, chế độ chính sách về thuế. Hạn chế trong việc liên kết, nhất là liên kết trong một hội ngành nghề. - Khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật kém, công nghệ lạc hậu dẫn đến giá thành cao làm mất khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. 1.2.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế. 1.2.3.1. Góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, gia tăng thu nhập quốc dân. Nhìn chung, ở các nước trên thế giới, nhất là các nước đang pháp triển số lượng DNNVV thường chiếm từ 90% đến 95% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế và giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động xã hội. Với số lượng lớn các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, sử dụng phần lớn lao động làm việc trong các lĩnh vực sản xuất, thương mại và dịch vụ… Các DNNVV tạo ra một phần lớn sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Ở Việt nam các DNNVV đã góp phần to lớn vào việc hình thành kinh tế thị trường và đóng góp tới trên 40% GDP của cả nước. [8] 1.2.3.2. Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tham gia vào quá trình phân phối lại thu nhập, giúp ổn định xã hội. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc làm thì đây là một thế mạnh rõ rệt của DNNVV và là nguyên nhân chủ yếu khiến cho các nước phải đặc biệt chú trong phát triển DNNVV. Lý luận và thực tiễn đã cho thấy việc tạo lập các DNNVV không khó, vốn đầu tư không lớn, phân bố rộng khắp nên là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lượng lớn lao động cũng như lao động nhàn rỗi. Bên cạnh đó, các DNNVV phân bố rộng khắp trên toàn xã hội từ thành thị đến nông thôn sẽ góp phần làm giảm áp lực di dân vào các đô thị lớn. Theo thống kê chưa đầy đủ, DNNVV ở nước ta hiện nay tạo ra khỏang 49% việc làm phi nông nghiệp nông thôn, khoảng 25-26% lực lượng lao động cả nước, như triển vọng thu hút lao động rất lớn vì suất đầu tư cho một chỗ làm ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn trong dân. [8] 12 1.2.3.3. Là khu vực thu hút tích cực và có khả năng huy động các nguồn vốn, nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển. Với việc tạo lập các DNNVV không cần nhiều vốn, phân bố các vùng lãnh thổ, thu hút vốn nhanh cho phép doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng lao động, tiền vốn mà các doanh nghiệp lớn khó thực hiện. Bên cạnh đó, trong quá trình họat động DNNVV có thể dễ dàng huy động vốn từ các nguồn nhàn rỗi như vay bạn bè, người thân. Lao động thường sử dụng chủ yếu trong gia đình hoặc tuyển dụng tại chỗ không tốn chi phí đào tạo. Thực tế cho thấy, việc tạo lập DNNVV là một phương thức có hiệu quả để khai thác mọi nguồn lực trong nước như lao động, tiền vốn, tài nguyên sẵn có tại địa phương phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. 1.2.3.4. Làm cho nền kinh tế năng động hơn, góp phần to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Do yêu cầu vốn ít, quy mô nhỏ, nhất là phần lớn kinh tế tư nhân, chịu trách nhiệm trực tiếp về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mình, cho nên DNNVV có yêu cầu tự thân và cũng có nhiều khả năng cải tiến mẫu mã, thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ,… góp phần làm cho nền kinh tế năng động hơn, thích ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Việc phát triển DNNVV sẽ tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế như cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lãnh thổ, phân bố dân cư… Ở nước ta, từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, thuần nông là chủ yếu đã và đang chuyển dần sang nền kinh tế có đủ cơ cấu theo hướng tiến lên xã hội văn minh, hiện đại. Rất dễ thấy là mấy năm gần đây, bộ mặt kinh tế, xã hội của nhiều vùng nông thôn đã có thay đổi: nhiều thị trấn, thị tứ đông đúc, nhộn nhịp hơn trước, nhiều cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mới được hình thành. Đi đôi với việc bộ mặt nông thôn ngày càng phát triển như giao thông, lưới điện… 1.2.3.5. Góp phần đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng cho xã hội, phát triển các ngành nghề truyền thống, tăng nguồn hàng xuất khẩu. 13 Tuy có quy mô hạn chế nhưng với số lượng lớn, DNNVV đã tạo thành mạng lưới kinh doanh rộng khắp, với ưu thế về vốn và sự năng động sẵn có, thương mại tư nhân (chủ yếu là DNNVV) chi phối hầu hết họat động bán lẻ trên thị trường. Phần lớn DNNVV có khả năng đáp ứng có khả năng đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu tiêu dùng đa dạng của các tầng lớp dân cư và của sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làm cho thị trường ngày càng sôi động, tác động đáng kể đến quá trình sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. Với những ưu thế của riêng mình, DNNVV năng động đầu tư vào các ngành nghề có nhiều lợi thế so sánh, đặc biệt là đối với các ngành nghề truyền thống ở các địa phương, tạo ra nhiều lọai hàng hóa phong phú, đa dạng và cung cấp hàng hóa phục vụ xuất khẩu, nhất là sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống, chế biến nông, lâm và thủy sản qua đó góp phần tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu. 1.2.3.6. Là bộ phận cần thiết trong quá trình liên kết sản xuất của các doanh nghiệp lớn là cơ sở hình thành những doanh nghiệp lớn trong tương lai. Mối liên kết giữa các DNNVV và các doanh nghiệp lớn, kể cả các các tập đoàn xuyên quốc gia hình thành và phát triển trong việc cung ứng nguyên vật liệu, thực hiện thầu phụ, dần hình thành mạng lưới công nghiệp bổ trợ và đặc biệt là tạo ra mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm, cung cấp các vật tư đầu vào với giá rẻ hơn, do đó góp phần hạ giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất cho doanh nghiệp lớn. Ngược lại, các doanh nghiệp lớn bảo đảm vững chắc cho các DNNVV về thị trường, tài chính, công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý . Thực tế trong quá trình hoạt động, các DNNVV hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn rất nhiều, các DNNVV đã tích lũy vốn, kinh nghiệm và trở nên lớn mạnh, dần trở thành các công ty lớn, các tập đoàn kinh tế lớn trên thị trường. 1.2.3.7. Góp phần đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân - nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội . Trong thực tế, DNNVV là nơi đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ doanh nhân mới phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường.Với việc dễ dàng tạo lập và khởi sự doanh nghiệp, các DNNVV là nơi sàng lọc, đào tạo các nhà quản trị 14 doanh nghiệp thông qua thực tiễn kinh doanh đúc kết những kinh nghiệm về quản lý và tiếp cận thị trường, từ đó xuất hiện lớp doanh nhân năng động, sản xuất kinh doanh giỏi. 1.2.4. Những khó khăn chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. 1.2.4.1. Khó khăn về vốn và khả năng trong việc tiếp cận tín dụng. Hiện hầu hết các doanh nghiệp nước ta có quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Theo kết quả thống kê của Tổng cục thống kê, hiện nay số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỉ đồng chiếm 41,8%, số doanh nghiệp có vốn từ 1-5 tỉ đồng chiếm 37,03%. Với quy mô vốn nhỏ lẻ như thế, nhu cầu để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của các DNNVV rất lớn, đặc biệt là khi vào WTO. Để đáp ứng nhu cầu tín dụng của mình, các DNNVV thường phải vay vốn chủ yếu từ các tổ chức phi tài chính, cụ thể là từ thân nhân và bạn bè .Đôi khi, các DNNVV phải trả lãi suất cao hơn rất nhiều so với lãi suất trên thị trường. Một phần, do các DNNVV còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các khoản tín dụng từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức khác. Điều tra mới đây về thực trạng DNNVV của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy chỉ có 32,38% DNNVV có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn của các ngân hàng; 35,24% khó tiếp cận và 32,38% không tiếp cận được. Khó khăn chính của DNNVV là không có tài sản đảm bảo, thứ đến là không đưa ra được thông tin đáng tin cậy về dự án, nhất là việc minh bạch về tài chính. Bên cạnh đó, công tác quản trị doanh nghiệp còn yếu kém, thiếu thông tin sản phẩm và thị trường …Vì vậy, ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong thẩm định để cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Mặt khác, thị trường tài chính ở Việt Nam chưa phát triển đã hạn chế việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng cũng như các hình thức góp vốn bằng tài sản khác của doanh nghiệp. 1.2.4.2. Khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh. Đất đai là vấn đề lớn và khó giải quyết đối với các cấp chính quyền, doanh nghiệp và toàn xã hội và là một trong những cản trở lớn nhất đối với đầu tư sản xuất – kinh doanh. Đất đai có thể sử dụng làm tài sản thế chấp để tiếp cận nguồn tín 15 dụng chính thức từ các ngân hàng. Do không có khả năng tiếp cận đất đai với chi phí và thủ tục hợp lý, quyền sử dụng và chuyển giao quyền sử dụng đất không được đảm bảo, các DNNVV sẽ không thể tiếp cận nguồn tài chính cần thiết cho phát triển và nâng cao tính cạnh tranh. Mặc dù đã có nhiều sự trợ giúp về mặt bằng sản xuất cho DNNVV như việc thành lập các cụm công nghiệp, khu công nghiệp vừa và nhỏ nhưng tốc độ xây dựng và đưa vào sử dụng còn chậm, chỉ đáp ứng được một phần nhỏ DNNVV có nhu cầu về mặt bằng sản xuất .Sự bất cập trong việc quản lý đất đai của chính phủ đã gây nhiều cản trở cho việc đáp ứng nhu cầu về mặt bằng sản xuất kinh doanh cũng như việc xin cấp đất hoặc thuê đất làm trụ sở và xây dựng nhà máy gặp nhiều khó khăn. Những khó khăn trong việc xin cấp quyền sử dụng đất, cũng như khó khăn trong việc thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, nên nhiều DNNVV đã sử dụng đất ở của gia đình vào mục đích sản xuất. Tuy nhiên, thuế chuyển mục đích sử dụng đất ở mức cao và thủ tục chuyển đổi khó khăn phức tạp và tốn thời gian, do vậy đã mất cơ hội và làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp. 1.2.4.3. Về kỹ thuật công nghệ. Do vốn đầu tư của các DNNVV rất thấp so với vốn đầu tư của các loại hình doanh nghiệp khác cũng như việc thiếu các thông tin về thị trường quốc tế trong lĩnh vực khoa học công nghệ và việc gặp khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng trung dài hạn, nên phần lớn các DNNVV có trình độ khoa học công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật lạc hậu. Suất tiêu hao nguyên nhiên liệu cao, tay nghề công nhân thấp nên chất lượng sản phẩm, hàng hóa dịch vụ không cao, khả năng cạnh tranh yếu, sản phẩm khó tiêu thụ trên thị trường trong nước và xuất khẩu đồng thời gây thiệt hại cho tài nguyên môi trường và hệ sinh thái. Mức độ đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp cũng còn rất thấp so với yêu cầu phát triển. Bên cạnh đó các bất cập của chính sách và thủ tục hiện hành về vấn đề chuyển giao cộng nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam cũng gây khó khăn tốn kém cho các doang nghiệp, đặc biệt là các DNNVV. 16 1.2.4.4. Về sức cạnh tranh và khả năng tiếp cận với thị trường thế giới. Do thông tin về thị trường của các DNNVV còn rất hạn chế, điều đó dẫn tới sự yếu kém về sức cạnh tranh và bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Khối lượng sản phẩm do các DNNVV sản xuất manh mún, chủ yếu là phục vụ tiêu dùng trong nước, thậm chí trong một địa phương hẹp, thị trường xuất khẩu tuy đã được mở rộng nhưng còn nhiều hạn chế, đa số hợp đồng là ngắn hạn, theo thời vụ, thiếu ổn định. Sức cạnh tranh của các DNNVV vẫn còn ở mức độ rất thấp do hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, tính độc đáo của sản phẩm không cao, giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản phẩm nói chung thấp. Bên cạnh lý do chi phí sản xuất kinh doanh của các DNNVV thường cao hơn khối doanh nghiệp khác do mức độ sản xuất nhỏ bé và tỷ lệ chi phí bất biến cao trong tổng chi phí, trình độ cộng nghệ thấp nên chất lượng sản phẩm thấp so với hàng nhập khẩu, các sản phẩm của các DNNVV phải cạnh tranh với một lượng lớn hàng hóa nhập lậu với giá rẻ hơn. Ngay cả ở thị trường trong nước các DNNVV còn phải gánh chịu những thông lệ và điều kiện cạnh tranh. không bình đẳng.Các quy định của pháp luật về bản quyền, nhãn hiệu và các quyền sở hữu trí tuệ khác chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, chính vì vậy, các mặt hàng giả còn rất phổ biến, vẫn còn sự độc quyền của một số doanh nghiệp lớn do chưa có sự điều tiết của các luật cạnh tranh thích hợp. Vấn nạn tham nhũng, trục lợi của chính các cán bộ quản lý ở các lĩnh vực thuế, hải quan, quản lý thị trường … làm tăng chi phí không chính thức. 1.2.4.5. Kỹ năng nghiệp vụ và quản lý còn yếu. Nhìn chung kỹ năng nghiệp vụ và quản lý trong các DNNVV còn rất thấp so với yêu cầu, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Chưa có sự tách bạch rõ ràng giữa tài sản của chủ doanh nghiệp và tài sản của doanh nghiệp, người chủ doanh nghiệp đồng thời là người quản lý doanh nghiệp. Vì vậy, không có sự phân biệt rõ ràng về mặt pháp lý quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động. Phần lớn các doanh nghiệp thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh dài hạn, và phải triển khai hoạt động với đội ngũ cán bộ nghiệp vụ phần lớn chưa được qua đào tạo. 17 1.2.5.6. Tiếp cận và xử lý thông tin còn hạn chế. DNNVV thiếu thông tin và thường bị lép vế trong các mối quan hệ (với nhà nước, thị trường, ngân hàng, với các trung tâm khoa học và trung tâm đào tạo …). Trong thời đại hiện nay, vấn đề thông tin là một yếu tố quan trọng đối với sự thành bại của doanh nghiệp, việc tiếp cận và xử lý thông tin trong hoạt động kinh doanh đối với các DNNVV hạn chế hơn các công ty lớn do họ không đủ khả năng chuyên môn cũng như chi phí khá cao so với quy mô của doanh nghiệp nhỏ. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin quản lý doanh nghiệp của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước nói chung còn yếu và tản mạn, chính vì không xây dựng được hệ thống thông tin quản lý tập trung nên việc phối hợp quản lý các cơ quan như đăng ký kinh doanh, thuế thống kê, ngân hàng, hải quan …thông qua dữ liệu tập trung về doanh nghiệp không thực hiện được. 1.2.4.7. Tiến trình hội nhập chậm, tính liên kết kém. Trên thực tế ở nhiều quốc gia trên thế giới, quá trình hội nhập đòi hỏi các nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng phải nhận thức sâu sắc mức độ ảnh hưởng của nó, không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Tuy vậy, theo một nghiên cứu gần đây về tính sẵn sàng của các DNNVV của Việt Nam trong quá trình hội nhập, phần lớn các DNNVV (63% không kỳ vọng vào toàn cầu hóa, 82% không có sự chuẩn bị khi gia nhập WTO) không nhận thức được mức độ ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực tới nền kinh tế trong nước, tới họat động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu lẫn doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nước. Đặc biệt là tính liên kết kém đang nổi lên như là một điểm yếu lớn trong họat động của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp địa phương hiện nay. Theo nghiên cứu của phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, rất ít khu công nghiệp, cụm công nghiệp đạt được tính liên kết cao giữa các doanh nghiệp trên cùng địa bàn. 18 1.3. SỰ CẦN THIẾT CỦA TDNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DNNVV. 1.3.1. Đặc điểm hoạt động TDNH đối với DNNVV. Do những đặc trưng của loại hình DNNVV nên họat động tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp này cũng có đặc điểm riêng so với các loại hình khác. Những đặc điểm đó là: Thứ nhất, do quy mô và phạm vi họat động của doanh nghiệp không lớn nên việc nắm bắt thông tin và bao quát tình hình của doanh nghiệp dễ dàng hơn, công tác thẩm định ít tốn kém về mặt thời gian và cũng không đòi hỏi cao về trình độ thẩm định như doanh nghiệp có quy mô lớn, quy trình và thủ tục cho vay cũng có thể được thiết kế đơn giản hơn. Thứ hai, việc tiếp xúc tìm hiểu doanh nghiệp cũng dễ dàng hơn, tuy vậy do đặc trưng dữ liệu doanh nghiệp nhỏ và vừa không có độ tin cậy cao do tình trạng công tác hạch tóan kế tóan không được coi trọng và thiếu độ tin cậy, việc tuân thủ pháp luật còn yếu… nên việc phân tích thẩm định tín dụng nếu dựa vào các số liệu tài chính doanh nghiệp cung cấp thường có độ tin cậy không cao. Thứ ba, việc các doanh nghiệp nhỏ và vừa đưa ra một phương án kinh doanh thuyết phục là vấn đề khó cho chủ doanh nghiệp. Lý do chính là họ ít quan tâm đến việc lập dự án hay phương án một cách chi tiết, bên cạnh đó họ thực sự thiếu kỹ năng này. Thứ tư, việc cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa được xem là có rủi ro cao so với cho vay doanh nghiệp lớn xuất phát từ nhiều lý do thuộc về đặc điểm của các doanh nghiệp như DNNVV thường phụ thuộc vào một vài khách hàng, trình độ kỹ năng quản trị kém, quy mô nhỏ nên dễ kết thúc, tính cạnh tranh kém. Tuy vậy, về khía cạnh phân tán rủi ro có thể thấy rõ rằng, cho vay nhiều DNNVV sẽ thực hiện được quá trình phân tán được rủi ro hơn là cho vay một vài doanh nghiệp quy mô lớn. 1.3.2. Sự cần thiết của việc mở rộng TDNH đối với phát triển DNNVV. Trong nền kinh tế thị trường, DNNVV ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu của mình và có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Để 19 ngày càng phát triển và tiếp tục có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế thì DNNVV đòi hỏi cần có nhiều hỗ trợ hơn nữa để khắc phục các yếu kém của mình, trong đó yêu cầu về vốn là vấn đề thiết yếu nhất. Trong nền kinh tế cũng có nhiều kênh cung ứng vốn mà DNNVV có thể tiếp cận như vốn tự có do tích lũy; vốn từ vay mượn bạn bè, người thân; vốn từ kênh tín dụng thương mại; vốn huy động trên thị trường chứng khoán và vốn vay ngân hàng,…Trong các kênh cung ứng vốn đó, nguồn vốn vay ngân hàng được xem là quan trọng và hiệu quả nhất đối với các DNNVV Việt Nam hiện nay vì các lý do sau: - Nguồn vốn tự có tự tích lũy được từ quá trình kinh doanh thường là nhỏ và có giới hạn nhất định và thông thường là không đủ để các DNNVV có thể đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Và nguồn vốn này muốn có số lượng lớn đòi hỏi phải có thời gian tích lũy lâu dài và thường được các DNNVV ưu tiên sử dụng trước khi có việc cần đến. Do đó, để nắm bắt cơ hội kinh doanh, theo đuổi kịp tốc độ phát triển kinh tế và có thể cạnh tranh với các DN khác trong quá trình hội nhập quốc tế thì ngoài nguồn vốn tích lũy được các DNNVV Việt Nam cần phải được hỗ trợ từ các nguồn vốn khác. - Nguồn vốn từ vay mượn bạn bè, người thân hay vay nóng thị trường tự do bên ngoài từ các cá nhân hay tổ chức cho vay phi chính thức khác thường là rất hạn chế do lãi suất cao, thời hạn ngắn, thiếu ổn định và rất hiếm DN nào có thể phát triển mạnh bằng nguồn vốn này. Và việc vay mượn từ nguồn vốn này dễ phát sinh các vấn đề rối rắm về quan hệ của DN sau này. - Tín dụng thương mại: nguồn vốn này thì cũng rất hạn chế do nó lệ thuộc rất lớn vào chính sách mua bán chịu của nhà cung cấp và thường có thời hạn ngắn, bản thân các DN cũng không thể chủ động được nguồn vốn này cả về quy mô, giới hạn, đối tượng, thời gian,… và hơn nữa là hiện nay ở thị trường Việt Nam hình thức tín dụng thương mại cũng chưa được phát triển mạnh. - Còn việc tìm nguồn vốn từ thị trường chứng khoán thì càng khó khăn hơn đối với các DNNVV. Để tìm được nguồn vốn từ thị trường này đòi hỏi các DN phải thoát khỏi các hạn chế vốn có của các DNNVV như tình hình tài chính, thực lực 20 DN, tính minh bạch công khai trong các báo cáo tài chính, khả năng xây dựng phương án, kế hoạch kinh doanh,…Nhưng các hạn chế này muốn khắc phục đòi hỏi các DNNVV trước hết phải có vốn để đầu tư phát triển và trở thành các DN có quy mô lớn hơn. Do đó nguồn vốn huy động từ nguồn này xem như là chưa khả thi đối với các DNNVV. - Do vậy để có nguồn vốn phục vụ phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả hơn các DNNVV chỉ còn trông đợi vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Bởi vì nó có các ưu điểm sau: + Khả năng cung ứng vốn của các ngân hàng là không hạn chế: về quy mô nguồn vốn, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay cạnh tranh,… Tùy thuộc vào nhu cầu vốn của DN mà ngân hàng có các hình thức tín dụng linh hoạt phù hợp, ngân hàng có thể đáp ứng đầy đủ nguồn vốn lưu động thường xuyên cho phép DN duy trì sự phát triển ổn định và có hiệu quả hoặc cung ứng vốn với thời hạn dài để các DN đầu tư thêm máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, đổi mới công nghệ sản xuất, mở rộng cơ sở kinh doanh,… + Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, với cam kết mở rộng thị trường tài chính dịch vụ thì ngày càng có nhiều các NHTM hoạt động và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Do đó, các DNNVV sẽ có thể chủ động lựa chọn ngân hàng để vay vốn với mức lãi suất hợp lý, khả năng đáp ứng nhu cầu vốn phù hợp từ đó góp phần nâng cao lợi nhuận cho DN. + Từ việc tiếp cận vốn vay từ ngân hàng, các DNNVV còn được có thể sử dụng dịch vụ tư vấn của ngân hàng về các vấn đề liên quan đến tình hình tài chính, cách thức quản lý, việc thiết lập các báo cáo tài chính, thiết lập và thẩm định tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh,…từ đó giúp các DNNVV có thể từng bước khắc phục được các hạn chế vốn có của mình. - Xét về phía các NH thì việc mở rộng cho vay các DNNVV trong thời gian gần đây và xu hướng sắp tới cũng là một tất yếu. Trong xu hướng và định hướng chung của các NHTM là đang giảm dần tỷ trọng cho vay đối với các DNNN và tăng nhanh tỷ trọng cho vay các DNNVV, vì thành phần DNNN đang giảm dần về số
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan