Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận vai trò của nguyễn ái quốc trong việc thành lập đảng cộng sản việt nam...

Tài liệu Tiểu luận vai trò của nguyễn ái quốc trong việc thành lập đảng cộng sản việt nam. liên hệ với việc xây dựng và chỉnh đốn đảng hiện nay

.PDF
30
1
118

Mô tả:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG *** TIỂU LUẬN MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Đề tài: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. LIÊN HỆ VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY Sinh viên thực hiện: Phạm Thành Nhân Lớp: KHQLNN K40B Kiên Giang KIÊN GIANG MỤC LỤC PHẦN 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................... 3. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... PHẦN 2: NỘI DUNG ......................................................................................... 1. Tiểu sử vắn tắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh ............................................. 2. Tình hình xã hội Việt Nam và các phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời......................................................... 3. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.......................................................... 4. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng............................................................................................................... a. Hội nghị thành lập Đảng ......................................................................... b. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ................................................... c. Ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ............................................................ PHẦN 3: CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG THỜI KỲ MỚI ................................................................................... 1. Vai trò, sự cần thiết phải kết hợp xây dựng với chỉnh đốn Đảng ............. 2. Một số giải pháp xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay ......................... 2.1. Tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị, hoàn thiện đường lối đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện .............................................. 2.2. Tăng cường công tác tư tưởng; rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng 2.2.1 Tăng cường công tác tư tưởng ............................................................ 2.2.2 Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân ...................................................................................... 2.3. Ðẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ............. 2.4. Ðổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Ðảng và của hệ thống chính trị ....................................................................................... 2.5. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ. .................................................................................................... 2.5.1 Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ........................................................ 2.5.2 Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ ............................................ 2.6. Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng đảng viên............................................................................................. 2.6.1 Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ............................................... 2.6.2 Nâng cao chất lượng đảng viên ......................................................... 2.7. Ðổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát ............................. 2.8. Xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Ðảng với nhân dân ........................................................................................................ 2.9. Ðổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Ðảng ....................... PHẦN 4: KẾT LUẬN ............................................................................... 1 PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Năm 1958 thực dân Pháp tiến hành cuộc xâm lược Việt Nam. Sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chúng đã từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, sau gần 30 năm bình định bằng vũ trang, Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp. Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã bắt đầu hành trình cứu nước của mình trên con tàu đô đốc La-tu-so To-re-vin. Kể từ giờ phút này, trái tim của Người đã thật sự hoà nhịp với trái tim của những người dân An Nam, với những người dân ở các nước thuộc địa đang sống trong sự thống khổ - trái tim mong ước hoà bình và hạnh phúc cho nhân loại. Giờ đây, Người đang sống cho cả dân tộc Việt Nam – một dân tộc mà trong lịch sử không bao giờ chịu khuất phục trước giặc ngoại bang. Chính nguồn gốc lịch sử oai hùng ấy, chính dòng máu của người dân Việt Nam ấy đã nung đúc nên một con người mà tương lai sẽ trở thành ngọn đuốc soi đường cho dân tộc bước qua muôn vàn thử thách. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Bác là người đầu tiên gieo hạt giống Mác-Lenin trên đất nước Việt Nam, làm cho cách mạng Việt Nam nên hoa kết quả. Người đã trở thành người cộng sản đầu tiên của nước ta khi gia nhập vào Quốc tế cộng sản và trở thành người có vai trò rất quan trọng. Sau đó, Người tiếp tục thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên-tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, với báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận của Hội, góp phần truyền bá những tư tưởng tiến bộ vào đất nước. Tiếp đó, Người đã hợp nhất ba tổ chức Đảng: Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng và Đông Dương cộng sản liên Đoàn thành Đảng Cộng sản Việt Nam và dày công đào tạo cho Đảng ta một đội ngũ cán bộ ưu tú, chăm lo xây dựng Đảng ta thành một khối đoàn kết, thống nhất, vững mạnh. Đến nay, đã 91 năm trôi qua, kho lịch sử bằng vàng ấy đã tiếp tục toả sáng trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa đến những bước ngoặt căn bản, có tính cách mạng làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc, thay đổi thân phận của người dân và vị thế của đất nước Việt Nam trên đấu trường quốc tế. Cùng quay lại trang sách lịch sử lúc bấy giờ, để thấy rõ được và trân quý hơn cuộc sống độc lập có được ngày hôm nay là một sự đóng góp hy sinh to lớn của Người cha anh hùng, Người đã dành hết nửa phần cuộc đời cho mảnh đất hình chữ S. Vai trò của Người được thể hiện rất rõ nét trong quá trình thành lập Đảng cộng sản Việt Nam cũng 2 như trong quá trình giải phóng dân tộc thời kì này. Đó cung là lý do mà e chọn đề tài “Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên hệ với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay” làm tiểu luận kết nghiên cứu. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu, sau khi học tập và kết thúc bài tiểu luận “Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên hệ với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay” là nâng cao hiểu biết, nhận thức được công lao to lớn của Chủ tịch nước Hồ Chí Minh, Người cha già dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã dùng cả cuộc đời cho độc lập, tự do của Tổ quốc và ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân và nâng cao nhận thức của cá nhân về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ mới. 3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu chủ yếu dựa trên giáo tập bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, còn được nghiên cứu qua các nguồn internet, tài liệu chuyên môn khác,… 3 PHẦN 2: NỘI DUNG 1. Tiểu sử vắn tắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên trên quê hương có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm. Nguyễn Ái Quốc lớn lên giữa nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào đã nuôi chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc . Triều đình phong kiến nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, thực dân Pháp vạch ra những chính sách đàn áp, bóc lột dã man lên nhân dân ta, khiến cho các phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ. Lúc này triều đình phong kiến nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, song phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp vẫn diễn ra. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỉ XIX Tiêu biểu là các phong trào Cần Vương, Cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Các cuộc khởi nghĩa này tuy diễn ra sôi nổi nhưng đều không thành công. Với ý chí và quyết tâm đó, tháng 6/1911, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc. 2. Tình hình xã hội Việt Nam và các phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời *Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự cấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa. Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn cấm. Về kinh tế, chúng triệt để khai thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, vô nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta vào cảnh bần cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài. 4 Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá nô dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng. Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết. *Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ. 3. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam 5 Cuối thế kỷ XIX, sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay thực thi các chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt. Hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó, tiêu biểu là phong trào Cần Vương do Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo... Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc. Xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, mang trong mình những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ngày 05/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Với nhiều nghề lao động khác nhau để mưu sinh, tìm hiểu nền văn minh phương Tây như Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân, Người đã rút ra một kết luận quan trọng: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo, độc ác và ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp - một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Người đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây bản yêu sách tám điểm. Tuy những yêu sách của Người không được Hội nghị đáp ứng nhưng đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn” Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đăng trên báo L'Humanite (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17/7/1920. Những luận điểm cách mạng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của V.I. Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Người xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản do Lênin thành lập). Đây cũng là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái 6 Quốc - từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Sự kiện đó cũng mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển mới “giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác -Lênin”(3). Nguyễn Ái Quốc từ người tìm đường trở thành người dẫn đường cho cách mạng Việt Nam, với những đóng góp to lớn có tính quyết định cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã chuẩn bị các tiền đề tốt nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng. +Về chính trị: Từ khi khẳng định cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Cách mạng Thánh Mười Nga; tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu quy luật hình thành của các đảng cộng sản trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy sự cần thiết phải chuẩn bị chu đáo về đường lối chính trị của Đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Lênin ở Việt Nam. Tác phẩm Đường Cách mệnh (1927) của Người là sự chuẩn bị tập trung và chu đáo về lý luận chính trị cho Đảng ta, đặt nền tảng tư tưởng cho đường lối chính trị của cách mạng Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đường Cách mệnh đã chỉ ra mục tiêu giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu, trước hết của cách mạng Việt Nam và các nước thuộc địa là giải phóng dân tộc; về sự cần thiết phải đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở chính quốc với giai cấp vô sản thuộc địa, đoàn kết giữa các nước thuộc địa hình thành mặt trận chung chống chủ nghĩa đế quốc; về khả năng nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa; cách mạng Việt Nam sau khi giành thắng lợi sẽ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Cách mạng muốn thắng lợi phải có Đảng lãnh đạo, phải có lý luận khoa học dẫn đường và có đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn. +Về tư tưởng: Nhận thấy muốn làm cách mạng phải tập hợp lực lượng và sức mạnh của quần chúng, do đó, Nguyễn Ái Quốc chủ trương truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng nhân dân, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm cho phong trào yêu nước tiến dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Sự chuẩn bị về tư tưởng rõ nét nhất của Nguyễn Ái Quốc là thông qua hoạt động báo chí và tuyên truyền. Thời gian ở Pháp, Người cho xuất bản và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút cho tờ Le’Paria (Người cùng khổ) (từ số 1 đến số 15). Người viết khoảng 30 bài, tập trung tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân và truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin vào các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Tháng 6.1925 tại Quảng Châu, Người cho xuất bản báo Thanh niên, cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Ngoài ra còn một số 7 các tờ báo định kỳ khác như: tờ tuần báo Công nông (xuất bản cuối 1926 – 1928) đối tượng tuyên truyền chủ yếu là công nhân và nông dân; tờ Lính cách mệnh xuất bản đầu 1927 đến 1928, lấy binh sĩ Việt Nam trong quân đội Pháp ở Đông Dương làm đối tượng tuyên truyền. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường Cách mệnh (1927) vừa tố cáo tội ác của thực dân vừa vạch ra những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng, gắn cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc. Ngoài viết sách, báo, tham luận tại các hội nghị, Nguyễn Ái Quốc còn trực tiếp giảng bài, thảo luận. Người đã sử dụng nhiều công cụ, hình thức, phương pháp để vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác – Lênin và động viên nhân dân giác ngộ làm cách mạng. +Về tổ chức: Hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi trong phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc sớm đã nhận thức được vai trò quan trọng của công tác tổ chức xây dựng Đảng. Người đánh giá cao sức mạnh tổ chức của nhân dân thuộc địa sẽ thành lực lượng khổng lồ chống chủ nghĩa đế quốc. Tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã tập hợp các thanh niên Việt Nam yêu nước tại đây thành lập nên Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên – một tổ chức yêu nước, tiền cộng sản, phù hợp với trình độ của phong trào cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Thấm nhuần nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc xác định Đảng Cộng sản phải có lý luận tiên phong dẫn được, phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, kỷ luật tự giác và nghiêm minh, đoàn kết thống nhất, gắn bó với nhân dân. Tin tưởng vào thanh niên - thế hệ trẻ và là tương lai của dân tộc, Nguyễn Ái Quốc không những tập hợp thanh niên vào một tổ chức mà còn đào tạo họ thành những lớp người kiên trung của Đảng. Đó là Đinh Đức Cảnh, Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong… Bằng những hoạt động tích cực về mọi mặt của Nguyễn Ái Quốc, phong trào cách mạng Việt Nam đã có bước phát triển nhanh về chất, nhanh chóng vô sản hóa và thành lập các nhóm cộng sản. Tuy nhiên, sự tồn tại và hoạt động riêng rẽ của các tổ chức cộng sản này gây khó khăn, bất lợi cho phong trào cách mạng trong nước. Vì thế đi đến thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một chính đảng thống nhất của cách mạng Việt Nam là một sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc, thể hiện công lao, trí tuệ, uy tín và đạo đức cách mạng trong sáng của Người. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tháng 2 năm 1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về mặt tổ chức của cách mạng Việt Nam. Đồng thời thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo các nguyên lý của Chủ 8 nghĩa Mác – Lênin của Nguyễn Ái Quốc vào việc sáng lập một chính đảng vô sản kiểu mới ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Từ đây, cách mạng Việt Nam có Đảng dẫn đường chỉ lối. Trải qua 91 mùa xuân, dù tình hình thế giới có nhiều biến động, cách mạng có những lúc vô cùng khó khăn, đứng trước sự chống phá gay gắt của các thế lực thù địch, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ vững bản lĩnh, giữ vững uy tín và vai trò lãnh đạo cách mạng, được sự tin tưởng ủng hộ của nhân dân, là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 4. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng a. Hội nghị thành lập Đảng *Bối cảnh lịch sử Đầu năm 1930, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh mẽ. Liên Xô lớn mạnh. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1929 gây hậu quả nặng nề đối với nhiều nước tư bản trong đó có thực dân Pháp, ở Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường các biện pháp quân sự hoá. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930) do Quốc dân Đảng lãnh đạo, thực dân Pháp càng tăng cường hơn các biện pháp đàn áp, khủng bố dã man. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam phát triển mạnh dưới sự lãnh đạo của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Tuy nhiên, do hoạt động phân tán nên có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản để thành Đàng Cộng sản duy nhất đặt ra cấp bách. Tháng 10 - 1929, Quốc tế Cộng sản gửi tài liệu yêu cầu những người cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ và thành lập một Đảng của giai cấp vô sản và có mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới. Từ tháng 7-1928, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Xiêm. Nhận được tin về sự chia rẽ của những người cộng sản Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm trở lại Hương Cảng (Trung Quốc). Với tinh thần trách nhiệm cao của người cộng sản chân chính và vói tư cách là Uỷ viên Bộ Phương Đông, phụ trách cục Phương Nam của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến dự Hội nghị họp nhất các tổ chức cộng sản. Người dự thảo các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình tóm tắt; dự kiến thời gian, địa điểm, cách thức tổ chức Hội nghị. Từ ngày 6-1 đến ngày 7 - 2 - 1930 (dịp Tết Canh Ngọ), tại xóm nhỏ của người lao động ở bán đảo Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Dự Hội nghị có 2 đại biểu của Đông Dương cộng sản Đàng là Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh; 2 đại biểu của An Nam cộng sản Đảng là Châu Văn 9 Liêm và Nguyễn Thiệu. Hai đại biểu đang hoạt động ở Hồng Công, Trung Quốc dự không chính thức là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn. Tổng sổ đảng viên của Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng khi đó có khoảng 500 người. Đông Dương cộng sarn Liên Đoàn vừa thành lập, không kịp nhận thông báo cử người đến dự. * Nội dung Hội nghị Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thảo luận và nhất trí 5 nội dung do Nguyễn Ái Quốc đề nghị: -Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương. -Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. -Thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. -Quyết định phương châm, kế hoạch thực hiện việc thống nhất các tổ chức Đảng trong nước; quyết định ra báo, tạp chí của Đảng Cộng sản Việt Nam. -Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương. -Hội nghị còn dự kiến tổ chức Đoàn Thanh niên cộng sản, Hội Tương tế, Hội phản đế, mở rộng ảnh hường của công xã Quảng Tây, bảo vệ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc. -Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Trung ương lâm thời của Đảng họp quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. -Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (2-1930) có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam b. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng (8) đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh đã xác định các vấn đề cơ bản về chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam như sau: Một là, phương hướng chiến lược của cách mạng: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Nói cách khác là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành độc lập dân tộc, đánh đổ phong kiến, giành dân chủ, ruộng đất cho nông dân và tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Hai là, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng bao gồm: Về chính trị: Đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Việt Nam 10 được hoàn toàn độc lập; lập ra Chính phủ công nông binh; tổ chức ra quân đội công nông. Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu hầu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tài, ngân hàng, v.v) của tư bản để quốc Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu hết ruộng đất của để quốc làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ. Về văn hoá - xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, v.v; phổ thông giáo dục theo công nông hoá. Ba là, về lực lượng cách mợng: Đảng phải thu phục cho được đại đa số nông dân và phảị dựa vào nông dân nghèo làm cách mạng ruộng đất. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt, ... để kéo họ đi vào phe giai cấp vô sản. Đối với phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản An Nam chưa lộ rõ mặt phàn cách mạng thì lợi dụng, sau đó làm cho họ trung lập. Kẻ nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Bốn là, về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng là đội tiền phong của giai cấp vô sản phải thu phục được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo dân chúng đánh đổ đế quốc, tay sai, để ủng hộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Khi liên lạc với các giai cấp khác, Đảng phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân và dân tộc, không khi nào nhân nhượng, thoả hiệp. Năm là, về phương pháp cách mạng: Tiến hành bạo lực cách mạng giành chính quyền. Chính phù công nông binh phải nhanh chóng tổ chức quân đội công nông để bảo vệ những thành quả cách mạng, đập tan mọi sự kháng cự của thế lực phản cách mạng. Sáu là, về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận cách mạng của thế giới, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ra đời ngay khi thành lập Đảng, đã giải đáp đúng những vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam, đặt nền tàng đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động của toàn Đảng, toàn dân, tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam từ đây phát triển. Với Cương lĩnh chính trị, Đảng cộng sản Việt Nam sớm khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của mình. Với tư tưởng cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh chính trị đầu tiên là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam, là cơ sở quyết định mọi thăng lợi của cách mọng Việt Nam. 11 c. Ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong thời đại mới. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng nước ta. “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam nước ta. Nó chứng tỏ rằng, giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Đảng ra đời với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng “như trong đêm tối không có đường ra” về đường lối cứu nước Việt Nam, đồng thời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam; đặt nền tảng cho truyền thống đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khắng khít của cách mạng thế giới; chứng minh sự đúng đắn của chủ nghĩa Lênin về xây dựng Đảng cộng sản kiểu mới trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Quá trinh vận động ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã để lại cho cách mạng những kinh nghiệm quý giá: Kinh nghiệm về sự truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Kinh nghiệm về sự cần thiết phải có lý luận Mác - Lênin làm cốt trong Đảng. Kinh nghiệm về xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Lênin. Đảng ra đời gắn liền với công lao to lớn cùa Nguyễn Ái Quốc- Người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam. Thắng lợi cùa cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua chứng tỏ sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự mở đầu cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. PHẦN 3: CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG THỜI KỲ MỚI 1. Vai trò, sự cần thiết phải kết hợp xây dựng với chỉnh đốn Đảng Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự tồn vong của Đảng và chế độ, sự phát triển bền vững của đất nước. Với ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt đó, kể từ khi ra đời đến nay, trong các văn kiện đại hội Đảng, các hội nghị trung ương và trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một nội dung trung tâm, vấn đề then chốt trong hoạt động và tổ chức của Đảng. Bản thân nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng tiền bối và hiện nay, bên cạnh là lãnh tụ chính trị, đồng thời cũng là nhà lý luận, có nhiều bài viết, tác phẩm về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. 12 Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là hai mặt của một quá trình. Xây dựng là việc xác lập, hình thành đường lối, Cương lĩnh chính trị, các quy định, quy chế; làm cho tư tưởng của cán bộ, đảng viên phù hợp, thống nhất cao và tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng; là việc xây dựng tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo,... Chỉnh đốn là việc uốn nắn, chấn chỉnh, sắp đặt lại cho đúng theo quy định, Điều lệ Đảng; xử lý, đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực,... Xây dựng và chỉnh đốn Đảng liên quan mật thiết với nhau, gắn liền với nhau, bổ trợ, tác động đến nhau. Trong xây dựng có chỉnh đốn, trong chỉnh đốn có xây dựng. Trong mỗi giai đoạn, thời kỳ, căn cứ vào đặc điểm, bối cảnh, yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, xây dựng và chỉnh đốn Đảng có nhiệm vụ trọng tâm khác nhau. Nếu như trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, xây dựng, chỉnh đốn Đảng tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ hoạch định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo; thống nhất tư tưởng và hành động, chống ngả nghiêng, dao động trước khó khăn, khi đối mặt nguy cơ sinh tử, mất - còn; củng cố lòng tin, nâng cao ý chí, tăng cường quyết tâm kháng chiến..., thì trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, xây dựng, chỉnh đốn Đảng tập trung vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ để Đảng đủ sức lãnh đạo công cuộc đổi mới; đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực,... trong bộ máy Đảng và Nhà nước. Hiện nay, công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế càng sâu rộng lại càng xuất hiện những vấn đề mới, những khó khăn, thách thức đòi hỏi Đảng phải luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để đủ sức lãnh đạo cách mạng. Tinh thần tự đổi mới, tự chỉnh đốn đã được Đảng ta phát huy cao độ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, trong cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, trở thành truyền thống tốt đẹp của Đảng; nhờ đó, Đảng không ngừng lớn mạnh, vượt qua mọi sóng gió, những bước ngoặt của lịch sử để lãnh đạo cách mạng Việt Nam thành công. Trong thời kỳ hòa bình, xây dựng, phát triển đất nước, truyền thống đó cần tiếp tục được phát huy lên một tầm cao mới, với chất và lượng mới, trở thành ý thức thường trực trong mỗi cán bộ, đảng viên, cấp ủy, tổ chức đảng để tạo thành nguồn sức mạnh to lớn giúp Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên. Thực tiễn sau khi đất nước thống nhất, bước vào công cuộc đổi mới cũng cho thấy, việc kết hợp giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng còn một khoảng cách. Về lý luận, trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng đã đề cập đến xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện lại chưa chú ý đúng mức, chưa chỉ đạo kiên quyết việc chỉnh đốn Đảng, chưa kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm quy định, Điều lệ Đảng. Việc kết hợp 13 giữa xây dựng với chỉnh đốn chưa hài hòa, hiệu quả, chưa có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Đây là một trong những nguyên nhân lý giải vì sao từ khi đất nước thống nhất, đặc biệt là bước vào công cuộc đổi mới, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, “lợi ích nhóm”,... diễn ra ngày càng nghiêm trọng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị không từ một thủ đoạn nào nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và đất nước. Chúng tìm đủ mọi cách để mưu toan phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc rằng, Đảng phạm nhiều sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo; đảng cộng sản lãnh đạo mất dân chủ, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là cuộc “đấu đá nội bộ”, “phe này cánh kia”, “nhẹ trên nặng dưới”; xuyên tạc công tác cán bộ, mưu toan hạ bệ hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh, trắng trợn cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lỗi thời, không thể làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng,... Tất cả những vấn đề lý luận và thực tiễn trên cho thấy, việc nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng nói chung, kết hợp xây dựng với chỉnh đốn Đảng nói riêng là hết sức quan trọng, cấp bách, tạo cơ sở cho việc triển khai thực hiện một cách hài hòa, chặt chẽ, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm giữa “xây” và “chống”, “chống” và “xây” nhằm tiếp tục tạo chuyển biến thực chất trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. 2. Một số giải pháp xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay 2.1. Tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị, hoàn thiện đường lối đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện. Cụ thể hóa, pháp luật hóa và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối chính trị, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Ðảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, tri thức mới của thời đại, nâng cao năng lực trí tuệ; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt, sáng tạo về sách lược, phương pháp; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc đổi mới vô nguyên tắc, chủ quan, nóng vội. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức để nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, quyết sách quan trọng của Ðảng, Nhà nước. Coi trọng nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương; tăng cường kiểm tra, giám sát; thường xuyên bám sát và kịp thời tổng kết thực tiễn, phát hiện, ủng hộ 14 và nhân rộng những nhân tố mới, qua thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối. Xúc tiến nghiên cứu bổ sung, phát triển Cương lĩnh của Ðảng phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. 2.2. Tăng cường công tác tư tưởng; rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng. 2.2.1 Tăng cường công tác tư tưởng: Chủ động hơn trong công tác tư tưởng. Nghiên cứu xây dựng chiến lược công tác tư tưởng trong tình hình mới. Ðổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu nhân dân, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng trong toàn Ðảng, toàn dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Chăm lo củng cố sự đoàn kết, thống nhất và tình đồng chí trong Ðảng, sự đồng thuận trong xã hội; thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phê bình. Công tác tư tưởng cần nâng cao tính chiến đấu và sức thuyết phục. Bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để giải đáp sát thực, kịp thời; đấu tranh khắc phục những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội, chạy theo lợi ích cá nhân; chủ động và kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận điệu phản động, góp phần làm thất bại mọi mưu toan "diễn biến hòa bình", bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch. Tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời làm sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về Ðảng cầm quyền và công tác xây dựng Ðảng; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân... Chú trọng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận. Sớm xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận. Tiếp tục cụ thể hóa chiến lược phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu những thành tựu và tinh hoa văn hóa của nhân loại, hoàn thiện hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn phát triển kinh tế xã hội với phát triển văn hóa, làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. 15 Ðổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy và học tập lý luận, công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động, báo chí, xuất bản, văn hóa nghệ thuật, nắm bắt và định hướng dư luận xã hội; tăng cường tuyên truyền đối ngoại, đặc biệt là về những vấn đề chính trị nhạy cảm như dân tộc, tôn giáo, nhân quyền... Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí. Khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, nhất là xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém, vì lợi ích vật chất cá nhân, cục bộ. Kiện toàn tổ chức, nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận, nhất là cán bộ chủ chốt, từng bước hiện đại hóa điều kiện, phương tiện công tác tư tưởng - văn hóa. 2.2.2 Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân: Ðặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Ðảng và nhân dân, thật sự tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong mọi công việc; xử lý hài hòa các lợi ích, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết. Tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm đời sống và đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Học tập, quán triệt, làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ðổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt đảng bộ, chi bộ; thường xuyên lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm những quy định về trách nhiệm, phẩm chất, đạo đức, lối sống. 2.3. Ðẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Ðấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Ðảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Các cấp ủy và tổ chức đảng phải nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp và khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; có quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết, kiên trì, liên tục, có hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở, trong Ðảng, Nhà nước và toàn xã hội; có hệ thống giải pháp đồng bộ, cụ thể và có hiệu lực về tuyên truyền, giáo dục và hành chính, về kinh tế, tài chính và pháp luật, về thanh tra, kiểm tra và giám sát, về chế độ chính sách đãi ngộ và kỷ luật Ðảng; sử dụng sức mạnh tổng hợp của tổ chức Ðảng, bộ máy nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng. 16 Các cấp ủy và tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp cao phải thực sự tiên phong, gương mẫu đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Ðẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, bổ sung thêm những yêu cầu, biện pháp mới phù hợp, đưa cuộc vận động đi vào chiều sâu. Coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên; công tác quản lý cán bộ, đảng viên của tổ chức đảng; đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, mở rộng dân chủ, công khai. Biểu dương và nhân rộng những tấm gương cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, nhất là về kinh tế, tài chính; về cơ chế, giải pháp phòng ngừa; cơ chế giám sát, phản biện của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Ðẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước. Xác định rõ chế độ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tăng cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy công tác kiểm tra và kỷ luật của Ðảng; củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu lực của hệ thống thanh tra các cấp, các cơ quan bảo vệ pháp luật và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan. Xây dựng hệ thống chính sách phân phối thu nhập xã hội và chế độ đãi ngộ công bằng, hợp lý bảo đảm đời sống của cán bộ, công chức. Công khai hóa các chế độ, chính sách để cán bộ, đảng viên và nhân dân giám sát, kiểm tra. Xây dựng thiết chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia giám sát, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Xử lý kịp thời, nghiêm minh, công khai theo kỷ luật Ðảng và pháp luật của Nhà nước đối với những cán bộ, công chức tham nhũng, bao che cho tham nhũng, gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của nhân dân, dù người đó ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu. Tịch thu tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị phải lãnh đạo chặt chẽ cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, không để những phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng cuộc đấu tranh này kích động, gây rối. Thành lập các ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng trung ương và địa phương đủ mạnh, có thực quyền, hoạt động có hiệu quả. Ðẩy mạnh hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. 2.4. Ðổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Ðảng và của hệ thống chính trị. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Ðảng. Hoàn thiện quy chế, quy trình về công tác tổ chức bảo đảm mở rộng và phát huy dân chủ trong Ðảng. 17 Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Ðảng và của cả hệ thống chính trị; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành, lề lối làm việc. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Ðảng ở Trung ương và các địa phương, gắn với kiện toàn tổ chức, tinh giản biên chế của cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII, bảo đảm tinh gọn, hoạt động thiết thực, hiệu quả, phù hợp với điều kiện một đảng cầm quyền. Tổ chức cơ quan tham mưu chuyên trách của Ðảng tinh gọn, có chất lượng cao đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Cải tiến lề lối làm việc, nâng cao chất lượng nghiên cứu, đề xuất, tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra của các cơ quan tham mưu của Ðảng các cấp. Tăng cường sự phối hợp giữa các ban cán sự đảng, đảng đoàn với cấp ủy địa phương. Tổng kết về tổ chức và hoạt động của ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy khối cả về lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị sẽ xem xét, quyết định về mô hình và phương thức hoạt động của các tổ chức này. Sắp xếp, củng cố tổ chức cơ sở đảng phù hợp với mô hình sản xuất kinh doanh mới ở các tổng công ty, các loại hình doanh nghiệp; bảo đảm hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng. Tiếp tục kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, thực hiện tốt hơn các chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Kiện toàn tổ chức, bộ máy của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, xây dựng bộ đa ngành, đa lĩnh vực, tập trung làm nhiệm vụ quản lý nhà nước, bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp. Xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị. Tiếp tục thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Kiện toàn các cơ quan tư pháp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả, gọn đầu mối, lấy cải cách tổ chức và hoạt động xét xử làm trung tâm. Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm thực hiện đúng thẩm quyền và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân cấp. Sắp xếp tổ chức, bộ máy Mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo hướng tinh gọn ở cấp Trung ương, tỉnh, huyện. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất