Bài tập
Thương mại điện tử
Nhóm 4:
1.
Nguyễn Thị Huyền Trang
2.
Hà Nhật Linh
3.
Amphaphon Vongphuthon
4.
Khamseng Phetsykham
Lớp: QTKD Thương Mại 48A
(Lớp Thương mại điện tử 1)
Chủ
đề:
Mạng
Internet,
Intranet,
Extranet: lịch sử hình thành và phát triển
của các loại mạng, kết cấu mạng.
I, Mạng máy tính và phân loại
II, Mạng Internet
III, Mạng Intranet
IV, Mạng Extranet
I, Mạng máy tính và phân loại
1, Mạng máy tính
Mạng máy tính là hai hay nhiều máy tính điện tử được nối với nhau
bằng các thiết bị liên lạc để cùng chia sẻ phần cứng, phần mềm và dữ liệu.
Mạng máy tính phải đảm bảo 3 yếu tố:
- Thứ nhất, có thông tin muốn cùng nhau chia sẻ, tức là phải có một
máy tính trên mạng có khả năng cung cấp thông tin goi là máy chủ hay máy
phục vụ (Server) đồng thời lại có máy tính khác cũng trên mạng có khả năng
tiếp nhận thông tin đó gọi là máy khách (Client) hay máy trạm
(Workstation).
- Thứ hai, các máy tính đơn lẻ phải được kết nối với nhau thông qua
một đường truyền vật lý gọ là vật tải truyền (Tránmission Medium), các
thông tin được truyền trên nó phải đảm bảo nhanh chóng, kịp thời và chính
xác.
- Thứ ba, hệ thống trên đường truyền vật lý phải tuân theo quy tắc
truyền thông chung gọi là các giao thức (Protocois), khi ấy các thông tin sẽ
đến được đích chung đã định và các hệ thống nhận gửi mới hiểu nhau.
2, Phân loại
Phân loại mạng máy tính theo phạm vi địa lý:
- Mạng GAN (Global Area Network)
GAN (Global Area Network) - Mạng toàn cầu, mạng kết nối máy tính
từ các châu lục khác nhau. Thông thường kết nối này được thực hiện thông
qua mạng viễn thông, vệ tinh.
- Mạng WAN (Wide Area Network)
WAN (Wide Area Network) - Mạng diện rộng, mạng kết nối máy tính
trong nội bộ các quốc gia hay giữa các quốc gia trong cùng một châu lục.
Thông thường kết nối này được thực hiện thông qua mạng viễn thông. Các
mạng WAN có thể được kết nối với nhau thành GAN hay tự nó đã là GAN.
- Mạng MAN (Metropolitan Area Network)
MAN (Metropolitan Area Network) - Mạng khu vực, mạng kết nối các
máy tính trong phạm vi một thành phố. Kết nối này được thực hiện thông
qua các môi trường truyền thông tốc độ cao (50 - 100 Mbit/s)
- Mạng LAN (Local Area Network)
LAN (Local Area Network) - Mạng cục bộ, mạng kết nối các máy tính
trong một khu vực bán kính hẹp thông thường khoảng vài trăm mét. Kết nối
được thực hiện thông qua các môi trường truyền thông tốc độ cao ví dụ cáp
đồng trục thay cáp quang. LAN thường được sử dụng trong nội bộ một cơ
quan, tổ chức... Các LAN có thể được kết nối với nhau thành WAN.
II, Mạng máy tính toàn cầu Internet
1, Sự hình thành Internet
Internet thường được xem như là một “mạng của các mạng” (network
of network).
Lịch sử của Internet bắt đầu từ trước khi hình thành mạng máy tính vào
những năm 1960. Một cơ quan của Bộ Quốc phòng Mỹ, cơ quan quản lý dự
án nghiên cứu phát triển (ARPA) đã đề nghị liên kết 4 địa điểm đầu tiên vào
tháng 7 năm 1968. Bốn địa điểm đầu tiên đó là Viện nghiên cứu Stamford,
Trường Đại học Tổng hợp California ở Los Angeles, UC - Santa Barbara và
Trường Đại học Tổng hợp Utah.
Bốn địa điểm trên được nối thành mạng vào năm 1969 đã đánh dấu sự
ra đời của Internet ngày nay: Mạng được biết đến dưới cái tên ARPANET đã
hình thành. Giao thức cơ sở cho liên lạc trên Internet là TCP/IP và NCP.
Ban đầu, máy tính và đường liên lạc có khâu xử lý rất chậm, số lượng
máy được nối vào mạng rất ít (chỉ 200 máy chủ vào năm 1981).
ARPANET ngày càng phát triển khi càng có nhiều máy nối vào - rất
nhiều trong số này là từ các cơ quan của Bộ Quốc phòng hoặc những trường
Đại học nghiên cứu với các đầu nối vào Bộ Quốc phòng. Đây là những giao
điểm trên mạng. Trong khi ARPANET đang cố gắng chiếm lĩnh mạng quốc
gia thì một nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu Xeroc Corporation’s Palo
Alto đã phát triển một kỹ thuật được sử dụng trong mạng cục bộ Ethernet.
Theo thời gian, Ethernet trở nên là một trong những tiêu chuẩn quan
trọng để cung cấp một mạng cục bộ. Trong thời gian này, DARPA (đặt lại
tên từ ARPA) chuyển sang hợp chất TCP/IP vào version hệ điều hành UNIX
của trường ĐHTH California ở Berkeley. Với sự hợp nhất như vậy tạo nên
một thế mạnh trên thị trường, những trạm làm việc độc lập sử dụng UNIX,
TCP/IP cũng có thể dễ dàng xây dựng vào phần mềm hệ điều hành, và
những nhà cung cấp máy tính như Sun cũng chế tạo một cửa cho Ethernet.
TCP/IP trên Ethernet đã trở thành một cách thức thông dụng để trạm làm
việc nối đến trạm khác.
Trong thập kỉ 1980, máy tính cá nhân được sử dụng rộng rãi trong các
công ti và trường Đại học trên thế giới. Mạng Ethernet kết nối các PC trở
nên phổ biến. Các nhà sản xuất phần mềm thương mại cũng đưa ra những
chương trình cho phép máy PC và máy UNIX giao tiếp cùng một ngôn ngữ
trên mạng.
Vào giữa thập kỉ 1980, giao tiếp TCP/IP được dùng trong một số kết nối
khu vực và cũng được sử dụng cho các mạng cục bộ và mạng liên khu vực
(Campus Wide). Giai đoạn này tạo nên một sự phát triển bùng nổ.
Thuật ngữ “Internet” xuất hiện lần đầu vào khoảng năm 1974 trong khi
mạng vẫn được gọi là ARPANET cho đến năm 1980, khi Bộ Quốc phòng
Mỹ quyết định tách riêng phần mạng về quân sự thành “MINLET”. Cái tên
ARPANET vẫn được sử dụng cho phần mạng (phi quân sự) còn lại dành cho
các trường đại học và cơ quan nghiên cứu. Vào thời điểm này, ARPANET
(hay INTERNET) còn ở qui mô rất nhỏ.
Mốc lịch sử quan trọng của INTERNET được chọn vào giữa thập kỉ
1980, khi tổ chức khoa học quốc gia Mỹ NSF thành lập mạng liên kết các
trung tâm máy tính lớn với nhau gọi là NSFNET. Nhiều doanh nghiệp đã
chuyển từ ARPANET sang NSFNET và do đó, sau gần 20 năm hoạt động,
ARPANET không còn hiệu quả nữa và đã ngừng hoạt động vào khoảng năm
1990.
Tới năm 1995, NSFNET thu lại thành một mạng nghiên cứu. Internet
vẫn tiếp tục phát triển
Các mạng được nối vào Internet có thể là các mạng cục bộ LAN hay
mạng diện rộng WAN. Các máy chủ chủ chốt của Internet được nối với nhau
bằng một kênh liên lạc có tốc độ cao gọi là trục xương sống (Backbone) của
mạng (đường vẽ đậm). Các máy chủ này cho phép các máy trong mạng của
chúng tiếp cận Internet đồng thời tạo ra những mối liên kết giữa Internet và
các máy chủ của các mạng khác.
Hiện nay đã có hơn 20000 mạng máy tính trên 130 nước được nối vào
Internet với khoảng 30 triệu người dùng. Mỗi mạng nối vào Internet được
gọi là một trang web (Web site). Mặc dù mỗi mạng nhỏ hợn được nối vào
Internet đều do một cơ quan hay cá nhân làm chủ những không có ai làm
chủ toàn bộ Internet. Điều đó dẫn tới sự lộn xộn của thông tin trên mạng này.
Vì không có ai lãnh trách nhiệm sàng lọc dữ liệu trên Internet nên người
dùng dễ dàng gặp phải những tin vô ích đi kèm với các bản tin có ích cho
mình.
2,Các thông tin trên Internet
Internet cho phép truy nhập và khai thác các cơ sở dữ liệu thuộc nhiều
lĩnh vực kinh tế xã hội, các ngành nghề khác nhau như các thông tin về khoa
học kĩ thuật, giáo dục và đào tạo, các kết quả nghiên cứu khoa học công
nghệ, các thông tin về thương mại thị trường, giá cả, dự báo thời tiết... Nói
tóm lại Internet chứa một khối lượng thông tin khổng lồ phân tán ở hàng
chục ngàn mạng con thuộc hàng trăm nước trên thế giới. Với góc độ phạm vi
sử dụng có thể chia các cơ sở dữ liệu của Internet thành hai loại chính:
- Loại các thông tin mở cho công cộng, loại này thông thường bao gồm
các thông tin về văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học kĩ thuật, kết
quả của các chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ lớn. Bất cứ ai
thuộc mạng, một khi đã truy nhập được vào mạng, tại bất cứ điểm nút nào
đều có thể khai thác và nhận được tất cả các thông tin thuộc loại mở này một
cách tùy ý.
- Loại các thông tin không mở cho công cộng, loại này bao gồm các hệ
thống cơ sở dữ liệu do các tổ chức có mạng con hoặc có máy chủ ở nhiều
nước trên thế giới xây dựng và thiết lập lên để phục vụ cho các nhu cầu
riêng của họ. Thông thường thì các hệ thống cơ sở dữ liệu này chứa các
thông tin của các chuyên ngành thuộc nhiều nước khác nhau trên thế giới.
Các hệ thống cơ sở dữ liệu này thường được bảo mật rất cao, chỉ có những
người sử dụng có phép hợp lệ mới có quyền truy nhập và khai thác.
Ngoài việc cung cấp thông tin nói chung, Internet còn cung cấp nhiều
dịch vụ cần thiết như gửi thư điện tử, cung cấp phương tiện để tìm kiếm, chỉ
dẫn, truy cập thông tin từ xa, thảo luận nhóm, cung cấp các văn kiện của
Chính phủ, hỗ trợ kĩ thuật máy tính, giúp giao dịch, mua sắm qua mạng, giải
trí, nạp phần mềm, âm nhạc, đồ họa và những đoạn phim video trên mạng
xuống các máy trạm...
Vào ngày 19/11/1997, Việt Nam cũng đã chính thức tuyên bố cung cấp
các dịch vụ Internet.
3, Dịch vụ thông tin dưới dạng tiếng nói và hình ảnh - World Wide Web
World Wide Web hay Website, được thiết kế để đọc và dùng để tham
khảo chéo tới các tài liệu khác nhau trên Web thông qua việc sử dụng các
liên kết siêu văn bản (Hypertext) hoặc siêu phương tiện (Hypermedia).
Người sử dụng qua đó có thể tìm thấy các thông tin cần thiết dưới dạng
văn bản, âm thanh, đồ họa... trong các nhóm tin hàng ngày trên trang web.
Internet còn cung cấp nhiều nguồn tin giá trị về chuyên môn và các thông tin
chi tiết về tình hình kinh tế, tài chính trong nước và quốc tế. Trang web
không có kích thước cố định về độ dài hay bề rộng. Những thông số này
được xác định bởi ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HyperText Markup
Language - HTML). Để có thể tiếp cận thông tin trên mạng toàn cầu WWW
thì cần có một máy tính đã nối với mạng Internet và một phần mềm để đọc
gọi là Web Brower (trình duyệt web). Các trình duyệt web thông dụng là
Internet explorer, Netscape, Mosaic, Lynx và Cello.
Một kiểu trang web đặc trưng gọi là trang chủ (Home page). Một trang
chủ đóng vai trò như trang mở đầu để khám phá web. Nó là một trang chính
thức mà qua đó một cá thể, một doanh nghiệp, một trường đào tạo... thể hiện
tất cả nội dung trên web. Một trang chủ thường có nhiều trang, chứa thông
tin về một chủ đề nào đó. Ngoài ra, một trang web cũng có thể chứa một
hoặc nhiều những mối liên kết sang những trang web khác giúp người dùng
tìm đọc những thông tin có liên quan với nhau nằm trên nhiều trang.
Mỗi trang web có một địa chỉ duy nhất gọi là định dạng nguồn tài
nguyên thống nhất (Uniform Resource Locator - URL). Đây là kí hiệu được
dùng để phân biệt tất cả các trang web và các tài nguyên trên Internet. Địa
chỉ giống như số thẻ để phân loại giúp tra cứu các nguồn sách của thư viện.
Nó cho phép người dùng truy cập vào Internet để truy tìm các tài liệu trên
máy chủ của Internet.
Một định danh nguồn tài nguyên thống nhất gồm 3 phần: phương pháp
truy cập, địa chỉ của máy chủ web (web server) và tên tài liệu.
III, Mạng Intranet
Trong khi mạng cục bộ LAN có giới hạn về phạm vi địa lý thì mạng nội
bộ Intranet hạn chế số người trong cộng đồng có thể giao tiếp với mạng.
Intranet là mạng máy tính được thiết lập theo tiêu chuẩn của mạng
Internet và giới hạn trong phạm vi của một cơ quan hay một doanh nghiệp
nhằm phục vụ cho việc chia sẻ thông tin qua việc sử dụng Internet. Intranet
được bảo vệ và bị ngăn cách với Internet bởi một bức tường lửa.
Tường lửa (firewall) là hệ thống ngăn chặn việc truy cập trái phép của
những người không được phép từ bên ngoài và mạng máy tính Intranet.
Tường lửa thực hiện việc lọc bỏ những địa chỉ trên mạng không hợp lệ dựa
theo các qui tắc hay chỉ tiêu định trước. Tường lửa có thể là hệ thống phần
cứng, phần mềm hoặc kết hợp cả hai.
Một trong những nhiệm vụ chính của tường lửa là che chắn không cho
những người dùng không hợp pháp phần mềm bên ngoài không được kết nối
hay lấy các thông tin trên mạng, cho phép người dùng hợp pháp thực hiện
việc truy xuất. Ngoài ra, nó cũng có khả năng ngăn chặn người bên trong
doanh nghiệp giao tiếp với bên ngoài. Quá trình này thực thi các chỉ tiêu lọc
bỏ do người quản trị ấn định. Trên lý thuyết, tường lửa là phương pháp bảo
mật an toàn khi mạng kết nối Internet.
IV, Mạng Extranet
Extranet là một Intranet được mở rộng ra bên ngoài công ty đến một
người sử dụng khác ở bên ngoài mạng nội bộ, sử dụng đường truyền
Internet, nối mạng riêng hay thông qua hệ thống viễn thông.
Extranet bao gồm một loạt thành phần, người tham gia và một số cấu
hình. Thành phần của nó bao gồm: intranet, máy chủ lưu giữ web, bức tường
lửa, ISPs, công nghệ chuyển thông tin được mã hóa (tunneling technology),
phần mềm giao diện và các ứng dụng trong kinh doanh.
Extranet cung cấp một Internet site có thể truy nhập đến
một nhóm người đã chọn.
Extranet cung cấp khả năng tạo ra các ứng dụng mà các bên cộng tác và
khách hàng có thể truy nhập nhưng không dành cho công chúng nói chung.
Một lnternet site cung cấp sự hiện diện web đối với công chúng. Một
Intranet sử dụng công nghệ Internet để cung cấp cho các nhân viên truy nhập
đến thông tin nội bộ. Một Extranet cung cấp một Internet site có thể truy
nhập đến một nhóm người đã chọn.
Trong một Extranet site, các khách hàng và các đối tác hiện tại được
cung cấp truy nhập có bảo vệ bằng mật khẩu đến thông tin thích hợp. Các
đối tác và khách hàng có thể truy nhập đến các thông tin này trong khi công
chúng nói chung không truy nhập được Extranet có thể sử dụng mã hoá và
sự bảo vệ bằng mật khẩu để đảm bảo an toàn cho việc truy nhập đến site đó.
Đối với các giao dịch giữa các doanh nghiệp, Extranet đảm bảo thương mại
điện tử an toàn.
Extranet có thể tự động hoá chia sẻ thông tin bằng cách cung cấp truy
nhập đến thông tin cụ thể và truy nhập có kiểm soát đến các cơ sở dữ liệu
nội bộ.Trong một Internet site, có thể tạo ra một vị trí để phân phối thông tin
không cần giữ bí mật và có thể đồng thời khai thác nhiều dịch vụ Extranet,
mỗi dịch vụ tập trung vào các nhu cầu của một nhóm khách hàng cụ thể. Ví
dụ, các khách hàng hiện tại mua từ các dây chuyền sản phẩm khác nhau có
thể truy nhập đến dịch vụ Extranet, được tập trung vào nhu cầu của họ. Các
đối tác kinh doanh có thể có truy nhập đến một site của một đối tác khác có
thông tin về giá cả, xúc tiến bán hàng hay các dịch vụ cá nhân hoá khác. Các
nhà đầu tư có thể truy nhập đến một Internet site có các thông tin tài chính
hay các chiết khấu dành riêng cho họ. Mỗi Extranet site có thể chia sẻ truy
nhập đến ứng dụng thương mại điện tử của công ty. Có thể quy định các sản
phẩm khác nhau hay cung cấp các chiết khấu dựa trên Extranet hay các mật
khẩu người sử dụng.
Chẳng hạn một công ty sản xuất dược phẩm có web site mà khách hàng
thăm quan để tìm hiểu thêm thông tin về một số sản phẩm thông dụng bán ở
các quầy thuốc. Site này bao gồm các thử nghiệm gần đây, kinh nghiệm sử
dụng, các khuyến nghị và các cảnh báo về hiệu ứng phụ. Công ty cũng có
thể tạo ra một Extranet site cho các nhân viên bán hàng của mình. Các đại
diện bán hàng cần phải biết vị trí không công bố của site này và có số nhận
đang cá nhân để truy nhập thông tin. Một khi đã vào Extranet site, các đại
diện bán hàng có thể đặt hàng, theo đòi xu thế đặt hàng của các khách hàng,
tìm hiểu các thông tin về khuyến mãi và nhận được thông tin cạnh tranh. Các
bác sĩ có thể được cung cấp truy nhập đến một Extranet site khác. Trên
Extranet site của các bác sĩ, công ty có thể xây dựng các nhóm thảo luận cho
các bác sĩ, những người đã sử đụng sản phẩm đó, cung cấp các kết quả thử
nghiệm lâm sàng và có các dịch vụ đặc biệt phục vụ cho mua hàng thực
tuyến.
Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Thương mại điện tử - ĐH KTQD
- Giáo trình Tin học đại cương - ĐH KTQD
- www.ebook.vietnamwebsite.net
- www.iti.vnu.edu.vn
- www.3c.com.vn
- Xem thêm -