Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam...

Tài liệu Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam

.DOC
30
196
123

Mô tả:

Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam 1 PHẦN I: MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết. Nông sản là một mặt hàng thiết yếu phục vụ cho nhu cầu của con người. Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của kinh tế, đời sống người dân ngày càng được cải thiện, nhu cầu của con người cũng theo đó mà ngày càng tăng. Xuất phát từ đó mà đòi hỏi đối với các mặt hàng nông sản không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng cả về chất lượng. Tuy nhiên, quá trình sản xuất, thu hoạch và buôn bán thì mặt hàng nông sản lại mang tính thời vụ. Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi dào, phong phú về chủng loại, chất lượng khá đồng đều và giá bán rẻ. Ngược lại, vào những lúc trái vụ, hàng nông sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều và giá bán thường cao. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc sản xuất cũng như xuất khẩu hàng nông sản ở các nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Việt Nam là một nước có nên nông nghiệp lâu đời, có tiềm năng khá lớn trong việc sản xuất hàng nông sản. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế đang được đẩy mạnh, Việt Nam đang mở rộng cánh cửa giao lưu buôn bán với các quốc gia trên thế giới, và mỗi nước đều có những lợi thế so sánh cũng riêng mình thì hàng nông sản được coi là một thế mạnh của Việt Nam. Và thực tế cũng đã chứng minh, hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản đã và đang đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Hoạt động sản xuất và xuất khẩu hang nông sản không những đảm bảo được nhu cầu trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, giải quyết việc làm cho người lao động mà còn giúp nâng cao đời sống cho người nông dân, là động lực thúc đẩy quá trình sản xuất trong nước. Hoạt động này sẽ giúp cho Việt Nam có thể khai thác tối đa lợi thế ở Việt Nam về điều kiện khí hậu, tài nguyên, nguồn nhân lực,… Với vai trò to lớn như vậy, xuất khẩu hàng nồn sản được coi là một mũi nhọn chủ lực ở Việt Nam trong phát triển kinh tế. Trong nhưng năm trở lại đây, hoạt động xuất khẩu hàng nông sản có tộc độ tăng khá nhanh và ổn định. Đặc biệt là ở các mặt hàng như gạo, cà phê, cao su đã đóng góp một phần không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước nói riêng và tổng sản phẩm GDP nói chung. Tuy nhiên, không phải lúc nào hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam cũng thuận lợi mà còn đầy rẫy những khó khan, thử thách. Con đường để hàng nông sản Việt Nam đến với thị trường thế giới còn có không ít những rào cản đòi hỏi những người nông dân, những nhà doanh nghiệp và cả chính phủ cần phải có giải pháp tháo gỡ để vượt qua. 2 Xuất phát từ những lý do đó mà nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “ Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam” để nghiên cứu. II. Phương pháp nghiên cứu. - Sử dụng phương pháp diễn giải xen lẫn phân tích để giới thiệu vấn đề. - Sử dụng phương pháp thu thập số liệu: Số liệu được đọc, được nghiên cứu từ sách, báo, mạng internet có liên quan. - Sử dụng các phương pháp phân tích số liệu, đánh gía, so sánh, thống kê mô tả nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài. - Phân chia công việc mỗi thành viên đóng góp một phần và trưởng nhóm tổng hợp hoàn thành bài. 3 PHẦN II: NỘI DUNG I. LÝ LUẬN LIÊN QUAN. 1. Khái niệm về xuất khẩu Xuất khẩu hay xuất cảng, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán hàng hóa cho nước ngoài. Theo điều 28, mục 1, chương 2, Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định: “Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”. Hàng hóa xuất khẩu: Là hàng hóa sản xuất để đưa ra thị trường, mua bán trao đổi trên thị trường nhưng là thị trường nước ngoài. Hàng hóa này phải di chuyển qua biên giới của quốc gia. Đồng thời cũng phải đáp ứng được tiêu chuẩn, chất lượng mà thị trường nhập khẩu đó đòi hỏi. Như vậy so với hàng hóa sản xuất để bán trên thị trường nội địa nó phức tạp hơn nhiều Giá cả xuất khẩu: Là mức giá của hàng hóa xuất khẩu, nó được đưa ra dựa trên mức giá quốc tế và có sự chấp nhận của cả hai bên xuất nhập khẩu Kim ngạch xuất khẩu: Được hiểu là tổng giá trị hàng hjóa xuất khẩu của một doanh nghiệp, một đơn vị kinh tế hay một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định. Hạn ngạch xuất khẩu: Là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, được hiểu là quy định của nhà nước về sản lượng hay giá trị của một mặt hàng, hay nhóm mặt hàng sang một thị trường nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép xuất khẩu (Quota xuất khẩu). Hợp đồng xuất khẩu: Là hợp đồng mua bán hàng hóa được kí kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài. Các chủ thể của hợp đồng là ngừơi mua, người bán phải có trụ sở đăng kí kinh doanh tại các nước khác nhau, thông thường là có quốc tịch khác nhau. 2. Vai trò của xuất khẩu  Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa. 4  Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quả nhu cầu nội địa. Trong trường hợp, nền kinh tế còn lạc hậu và phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất, thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp. Hai là, coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.  Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.  Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.  Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.  Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kĩ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kĩ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới.  Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường.  Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh.  Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.  Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. 5 3. Những yếu tố tác động đến xuất khẩu Khi các nhân tố liên quan đến chi phí sản xuất hàng xuất khẩu ở trong nước không thay đổi, giá trị xuất khẩu phụ thuộc vào thu nhập của nước ngoài và vào tỷ giá hối đoái.  Thu nhập của nước ngoài tăng (cũng có nghĩa là khi tăng trưởng kinh tế của nước ngoài tăng tốc), thì giá trị xuất khẩu có cơ hội tăng lên.  Tỷ giá hối đoái tăng (tức là tiền tệ trong nước mất giá so với ngoại tệ, thì giá trị xuất khẩu cũng có thể tăng nhờ giá hàng tính bằng ngoại tệ trở nên thấp đi.  Chính sách của Nhà nước về thương mại quốc tế:  Thuế quan: Hiện nay các mặt hàng nông sản chủ yếu như gạo, cà phê, hồ tiêu… là các mặt hàng nông sản được Nhà nước khuyến khích xuất khẩu nhằm giải quyết các vấn đề xã hội nên được miễn thuế xuất khẩu.  Công cụ phi thuế quan: Quota xuất khẩu (hạn ngạch xuất khẩu): Được áp dụng như một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan và ngày càng có vai trò quan trọng trong xuất khẩu hàng hoá. Hạn ngạch được hiểu như quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu từ một thị trường nội địa trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép. Quota xuất khẩu là một trong những công cụ trước đây cũng đã áp dụng cho hàng hoá nông sản (xuất đi phải xin giấy phép xuất khẩu) làm hạn chế khả năng xuất khẩu. Từ năm 1997 đến nay, Nhà nước đã bỏ Quota xuất khẩu đối với các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu. Riêng đối với gạo, việc xuất khẩu phải thông qua hiệp hội xuất khẩu gạo để đảm bảo quyền lợi chung của hiệp hội và của các doanh nghiệp xuất khẩu.  Chính sách đối với cán cân thanh toán cán cân thương mại: Trong hoạt động kinh tế thương mại nói chung, giữ vững được cán cân thanh toán và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng góp phần quyết định vào sự củng cố nền độc lập và tăng trưởng kinh tế nhanh. Đương nhiên biện pháp để giữ cân bằng không phải là hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu hoặc vay vốn để giữ cho cán cân thanh toán được cân bằng. Sự cân bằng theo kiểu đó là cân bằng tiêu cực. 6 Vấn đề đặt ra là phải có chính sách khuyến khích sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Song song với việc mở rộng quy mô xuất khẩu, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, trong đó chú trọng đến những mặt hàng chủ lực. Có như vậy, quốc gia mới có thể giảm dần nhập khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu.  Những quy định về tiêu chuẩn kĩ thuật (tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, đo lường, bao bì đóng gói,…)… 4. Mục tiêu, nhiệm vụ của xuất khẩu  Mục tiêu chung của hoạt động xuất khẩu hiện nay là: “Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, tạo thêm các mặt hàng chủ lực; nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường; giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu”. Ở những thời điểm nhất định mục tiêu xuất khẩu có khác nhau, nhưng mục tiêu quan trọng chủ yếu nhất của xuất khẩu là để nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Nhu cầu của nền kinh tế rất đa dạng, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cho tiêu dùng, cho xuất khẩu và tạo công ăn việc làm.  Để thực hiện tốt mục tiêu trên, hoạt động xuất khẩu hướng vào thực hiện các nhiệm vụ sau:  Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất…).  Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.  Tạo ra những mặt hàng (nhóm hàng) xuất khẩu có khối lượng và giá trị lớn đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN Ở VIỆT NAM. 7 1. Trong những năm gần đây Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế và phát triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia. Sự độc lập phát triển của mỗi quốc gia là sự phụ thuộc của quốc gia đó vào thế giới phải cân bằng với sự phụ thuộc của thế giới vào quốc gia đó. Hoạt động xuất nhập khẩu là yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Những năm qua, hoat động xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã có những chuyển biếm tích cực như: Sự tăng lên về kim nghạch xuất khẩu, Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa dạng hóa, giảm tỷ trọng loại hàng hóa chưa qua chế biến tăng tỷ trọng hàng đã qua chế biến. Thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam càng ngày càng mở rộng và thay đổi về cơ cấu thị trường. Sự thay đổi đó thể hiện rất rõ ở kết quả xuất khẩu nông sản cuả Việt Nam năm 2008, 2009, 2010, 2011 và 10 tháng đầu năm 2012. Trong những năm qua, hoat động xuất khẩu nông sản đã có những chuyển biếm tích cực như sự tăng lên về kim nghạch xuất khẩu, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa dạng hóa, giảm tỷ trọng loại hàng hóa chưa qua chế biến tăng tỷ trọng hàng đã qua chế biến. Thị trường xuất khẩu hàng húa của Việt Nam càng ngày càng mở rộng và thay đổi về cơ cấu thị trường. Trong số các nước ở Châu Á như Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn, tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của ta sang các nước đó cũng đó thay đổi theo hướng giảm dần và tăng ở các nước khối EU và Châu Mỹ. Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sản xuất nông nghiệp trong năm 2008 gặp không ít khó khăn về thời tiết, dịch bệnh cũng như điều kiện thị trường. Đầu năm là những đợt rét chưa từng có trong vòng nhiều thập kỷ qua đã ảnh hưởng lớn không chỉ đến cây trồng, vật nuôi mà cả đến đời sống của người nông dân. Tiếp đó là thiên tai bão lụt mà tiêu biểu đợt mưa ngập ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng, gây thiệt hại lớn về mùa màng và nuôi trồng thủy sản, v.v… Mặt khác, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu từ giữa năm 2008 đã tạo nên những cơn bão giá (giá xăng dầu thế giới tăng đã làm cho hàng loạt các vật tư nhập khẩu đầu vào của nông nghiệp tăng mạnh) làm tăng chi phí của người sản xuất tăng vào những tháng giữa năm. Đặc biệt, những tháng cuối năm điều kiện thị trường của nông sản đã biến động bất lợi cho ngành nông nghiệp: xuất khẩu khó khăn, nông sản khó tiêu thụ, v.v… Xuất khẩu thủy sản trong các tháng cuối năm giảm mạnh, đi ngược lại xu thế chung trong những năm trước đây và sẽ còn tiếp 8 tục trong năm tới. Tất cả những yếu tố này đã tạo ra một năm đầy những yếu tố bất thường đối với ngành: kể cả thuận lợi cũng như khó khăn. Mặc dù vậy, ngành nông nghiệp vẫn đạt được những thành tựu nhất định. Sản lượng lương thực tăng mạnh (7,5% so với năm 2007), kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt hơn 2,8 tỷ USD, cà phê – hơn 2 tỷ USD. Xuất khẩu thủy sản lần đầu tiên vượt ngưỡng 4 tỷ USD. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2009 có những thuận lợi: Chính phủ triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ lãi suất để kích cầu và tăng cường đầu tư cho sản xuất, thời tiết về cơ bản thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và khai thác thuỷ sản, dịch bệnh diễn ra ở qui mô nhỏ,... Tuy nhiên, năm 2009 sản xuất cũng gặp nhiều khó khăn: mưa lũ lớn trên diện rộng cuối năm 2008 đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất cây vụ đông, khu vực Tây Nguyên quí I bị hạn, thiếu nước, mưa bão trong quý III ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, giá cả nhiều nông sản giảm mạnh từ cuối năm 2008, giá thức ăn chăn nuôi ở mức cao, thị trường xuất khẩu một số sản phẩm khó khăn,... Do vậy, kết quả sản xuất năm 2009 vẫn tăng so với cùng kỳ nhưng ở mức tăng thấp so với những năm trước. Sản lượng lương thực có hạt đạt 43,33 triệu tấn tăng 24 ngàn tấn so với năm ngoái (tương đương 0,1%), trong đó sản lượng lúa đạt 38,9 triệu tấn, tăng 116 ngàn tấn (tương đương 0,4%), sản lượng ngô giảm khoảng 3,1% (tương đương 141 ngàn tấn) đạt mức 4,4 triệu tấn. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu gạo của năm 2009 đạt mức cao nhất từ trước đến này: ước đạt 5,8 triệu tấn với trị giá kim ngạch 2,6 tỉ USD, so cùng kỳ năm trước tang 22,67% về lượng, nhưng giảm 10,34% về giá trị. Xuất khẩu nông lâm thủy sản tuy không đạt được mức của năm ngoái do tác động của khủng hoảng kinh tế và giảm giá thế giới nhưng cũng vượt mức đề ra (kế hoạch của ngành là 12 triệu USD và chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao là 14 tỷ USD). Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 12/2009 ước đạt trên 1,3 tỷ USD, đưa giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản cả năm 2009 ước đạt 15,34 tỷ USD, giảm 6,91% so cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu các mặt hàng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, ước đạt 7,8 tỷ USD, so với cùng kỳ năm trước giảm 10,88%, thuỷ sản ước đạt 4,2 tỷ USD, giảm 6,73% so cùng kỳ, lâm sản ước đạt 2,74 tỷ USD, giảm 10,94% so cùng kỳ. Năm 2010 diễn biến thời tiết không mấy thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp: vụ đông xuân thiếu nước trên phạm vi rộng; nắng nóng kéo dài đầu vụ hè thu và vụ mùa; mưa, bão ảnh hưởng lớn đến năng suất, sản lượng lúa hè thu và lúa mùa ở các tỉnh miền Trung và Bắc Trung Bộ; dịch bệnh cây trồng, vật nuôi lan rộng ở nhiều địa phương, nhất là bệnh rầy nâu trên cây lúa và dịch bệnh tai xanh 9 trên lợn. Tuy nhiên, nhờ có các chính sách và biện pháp cụ thể kịp thời kết quả sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2010 đạt khá so với năm trước. Năm 2011 giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản cả năm 2011 ước xấp xỉ 25 tỷ USD, tăng 27,9% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, các mặt hàng nông sản chính có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong nhóm hàng này, ước đạt 13,7 tỷ USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 33,2%; thuỷ sản ước đạt 6,1 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ; lâm sản chính ước đạt 4,1 tỷ USD (trong đó gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,9 tỷ USD), tăng 12,7% so cùng kỳ năm 2010. Năm 2012 tính đến tháng 10 thì xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 10 ước đạt 2,25 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản 10 tháng đầu năm 2012 ước đạt 22,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính 10 tháng đầu năm ước đạt 12,2 tỷ USD, tăng 7,7%; thuỷ sản ước đạt 5 tỷ USD, tăng 1,7%; lâm sản chính ước đạt gần 4 tỷ USD, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông lâm sản chính 10 tháng đầu năm có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước, ngoại trừ mặt hàng gạo và cao su. Giá trị nhập khẩu các đầu vào cho sản xuất nông lâm sản 10 tháng đầu năm 2012 ước đạt 13,76 tỷ USD, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm 2011. Như vậy, xuất siêu ngành Nông nghiệp 10 tháng đầu năm ước đạt 8,74 tỷ USD. 2. Thực trạng xuất khẩu một số nông sản chính a. Hoạt động xuất khẩu gạo Trong tháng xuất khẩu 436 nghìn tấn, tăng 51,5% so với tháng trước, nâng tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 đạt 4,74 triệu tấn, tăng 4% so với năm trước và thực hiện được 105,4% kế hoạch năm. Giá bình quân xuất khẩu gạo cả năm là 610 USD/tấn, tăng 86,7% tương đương với tăng 283 USD/tấn, trị giá cả năm đạt 2,89 tỷ USD tăng 94,3% so với cùng kỳ năm 2007. Tính đến hết tháng 12 năm 2008, Việt Nam xuất khẩu gạo sang Châu Á là 2,68 triệu tấn, giảm 19,1% so với năm 2007 và chiếm 56,4% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước (trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,69 triệu tấn, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2007, các nước còn lại 986 nghìn tấn, giảm 46,7%); tiếp theo là Châu Phi: 1,18 triệu tấn, tăng 88%; Châu Mỹ: 547 nghìn tấn, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2007,… Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu gạo sang Châu Á đạt 3,21 triệu tấn, tăng 19,9% so với năm 2008 và chiếm 53,8% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước 10 (trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu với 1,71 triệu tấn, tăng nhẹ 0,9%; các nước còn lại 1,5 triệu tấn, tăng 52,6%). Tiếp theo là Châu Phi: 1,67 triệu tấn, tăng 41,7%; Châu Mỹ: 497 nghìn tấn, giảm 9,2% so với năm trước… Philippin là đối tác dẫn đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam trong năm 2009 với 1,48 triệu tấn, giảm 13,6% so với năm trước; tiếp theo là các thị trường: Singapore đạt 539 nghìn tấn, tăng 64,7%; Cuba đạt 472 nghìn tấn, tăng 5%. Mặc dù, xuất khẩu gạo giảm ở thị trường lớn nhất Philippin, nhưng tăng mạnh ở một số thị trường mới nổi như thị trường Inđônêxia đạt 687 nghìn tấn (năm 2009 chỉ là 17,8 nghìn tấn); Bănglađét đạt 359 nghìn tấn (năm 2009 là hơn 5 nghìn tấn);… Năm 2011 thì mặt hang gạo vẫn là một mặt hàng nông sản chủ đạo, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu nông sản của nước ta (chiếm 26,8% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản). Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy năm 2011 lượng gạo xuất khẩu đạt 7,1 triệu tấn và trị giá đạt 3,66 tỷ USD, chỉ tăng nhẹ 3,3% về lượng và tuy nhiên tăng khá 12,6% về trị giá so với năm trước. Năm 2012 lượng gạo xuất khẩu của cả nước trong tháng 9 năm nay là 673 nghìn tấn, giảm 17,4%, trị giá đạt 303 triệu USD, giảm 17% so với tháng trước. Như vậy, tính đến hết quý III/2012, lượng xuất khẩu nhóm hàng này là 6,23 triệu tấn, tăng 5% và trị giá đạt 2,82 tỷ USD, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước. Trong 3 quý qua, Trung Quốc là đối tác lớn nhất nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,71 triệu tấn, tăng gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2011. Tiếp theo là Philippin: 1,04 triệu tấn, tăng 13,1%; Malaixia: 542 nghìn tấn, tăng 36,1%; Bờ Biển Ngà: 465 nghìn tấn, tăng 65,7%; Inđônêxia: 325 nghìn tấn, giảm 72,5% và Ghana: 263 nghìn tấn, tăng gấp hơn 2 lần;... b. Hoạt động xuất khẩu thủy sản Theo Tổng cục Hải Quan, xuất khẩu thuỷ sản 11 tháng đạt 4,2 tỷ USD với khối lượng xuất khẩu 1,15 triệu tấn, tăng 22,06% về giá trị và 33,60% về khối lượng. Do những bất ổn trong tình hình kinh tế thế giới nên xuất khẩu thuỷ sản tháng 12 chỉ ước đạt 300 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thuỷ sản cả năm là 4,5 tỷ, tăng 19,64% so với năm 2007 và vượt kế hoạch 5,92%. Năm 2008 là năm thành công của cá tra, basa. Thời điểm đầu năm, giá xuất khẩu xuống thấp, các doanh nghiệp thiếu vốn thu mua cá khiến hàng ngàn tấn cá nguyên liệu tồn đọng ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, gây tâm lý lo ngại cho bà con nuôi cá tra, basa. Nhưng sau một thời gian ngắn, nhờ đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước Đông Âu, EU và mở rộng thị trường sang các nước vùng Trung 11 Đông, nên mặt hàng cá tra, basa vẫn duy trì mức độ tăng trưởng cao. Sau 11 tháng đã xuất khẩu được 584,7 ngàn tấn cá tra, basa đạt giá trị 1,33 tỷ USD, tăng 66,65% về khối lượng và 48,84% về giá trị so với cùng kỳ năm 2007. Các thị trường xuất khẩu cá tra, basa quan trọng là Nga (171,24 triệu USD, gấp 2,22 lần so với năm 2007, chiếm 12,84% giá trị xuất khẩu cá tra, basa). Nếu năm 2007 U-cơ-rai-na là nước nhập khẩu cá tra, basa lớn thứ bảy của Việt Nam thì đến năm nay đã vươn lên vị trí thứ hai (133,06 triệu USD, gấp 3,57 lần năm 2007, chiếm 9,98%). Tây Ban Nha từ thị trường tiêu thụ cá tra, basa đứng đầu trong năm 2007, đã tụt xuống vị trí thứ ba, nhưng vẫn tăng trưởng cả về khối lượng (42,22 ngàn tấn, tăng 28,87% so với cùng kỳ năm 2007) và giá trị (111,34 triệu USD, tăng 20,54%). Các nước khác trong khối EU cũng là những khách hàng tiêu thụ cá tra, basa quan trọng của Việt Nam như Đức (99,24 triệu USD, chiếm 7,44%), Hà Lan (85,39 triệu USD, chiếm 6,4%), Ba Lan (78,12 triệu USD, chiếm 5,86%, nhưng giá trị xuất khẩu năm 2008 sang thị trường này lại có sự sụt giảm 6,55% so với cùng kỳ năm 2007),… Một thị trường khá mới nữa là A-rập Xê-út đã trở thành thị trường tiềm năng, từ vị trí thứ 76 năm 2007 (83,62 ngàn USD), đã vươn lên vị trí 14 (22,93 triệu USD). Mặt hàng tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu số một. Tuy nhiên, xuất khẩu tôm cũng đang gặp khó khăn do khủng hoảng tài chính. Người tiêu dùng các nước phát triển phải cắt giảm chi tiêu, các mặt hàng tôm đắt đỏ trước đây đã dần được thay thế bằng các loại thuỷ sản khác rẻ tiền hơn, dẫn đến giá tôm xuất khẩu bị sụt giảm. Sức tiêu thụ của thị trường tôm truyền thống của Việt Nam như Nhật, Mỹ, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, đã giảm sút. Mặc dù vậy, xuất khẩu tôm năm 2008 vẫn có sự tăng trưởng cả về khối lượng và giá trị, nhưng khối lượng tăng nhanh hơn giá trị. Xuất khẩu tôm 11 tháng năm 2008 đạt 176,29 ngàn tấn (tăng 20,37% so với cùng kỳ năm 2007) với giá trị gần 1,5 tỷ USD (tăng 8,98%). Nhật Bản vẫn là thị trường tiêu thụ tôm hàng đầu của Việt Nam, với khối lượng xuất khẩu là 53,92 ngàn tấn (chiếm 30,59% khối lượng tôm xuất khẩu, tăng 4,96%) tương ứng với giá trị 460,47 triệu USD (chiếm 30,70% giá trị xuất khẩu tôm, tăng 2,59%). Thị trường tiêu thụ tôm lớn thứ hai là Mỹ với 42,97 ngàn tấn (chiếm 24,37%, tăng 18,36%) nhưng giá trị lại giảm chỉ đạt 430,44 triệu USD (chiếm 28,70%, giảm 1,18%). Thị trường tiêu thụ tôm lớn thứ ba là EU có sự tăng trưởng khả quan hơn với khối lượng 30,44 ngàn tấn (chiếm 17,27%, tăng 53,91%) và giá trị 218,42 triệu USD (chiếm 14,56%, tăng 49,75%). Mặc dù chịu nhiều tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính khiến tình hình tiêu thụ thủy sản cuối năm tại các nước EU bị chững lại, nhưng trong tương lai đây vẫn là thị trường tiềm năng của mặt hàng tôm Việt Nam. Thị trường Hàn quốc vẫn có sự tăng trưởng về khối lượng tôm xuất khẩu nhưng giá trị chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2007 với 12 khối lượng 11 ngàn tấn và giá trị 76,83 triệu USD (tăng 17,37% khối lượng, tăng 3,21% giá trị), trong khi đó thị trường ASEAN giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2007 với khối lượng 2,9 ngàn tấn và giá trị 22,42 triệu USD (giảm 14,45% khối lượng và 32,01% giá trị). Mặt hàng mực, bạch tuộc thu về giá trị ngoại tệ lớn thứ ba trong xuất khẩu thuỷ sản đạt 294 triệu USD (chiếm 7,01% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản), có tăng nhẹ về khối lượng (tăng 7,09%) nhưng giá bán có phần khá hơn năm 2007 (tăng 13,95%). Thị trường tiêu thụ mặt hàng này lớn nhất là EU (chiếm 32,64% giá trị xuất khẩu mực, bạch tuộc đông lạnh), tăng trưởng khá cả về khối lượng (26,87 ngàn tấn, tăng 22,44%) và giá trị (96,17 triệu USD, tăng 32,97%) so với năm 2007. Nhật (chiếm 31,07%) là thị trường tiêu thụ mực, bạch tuộc lớn thứ hai lại có sự suy giảm so với năm 2007, với khối lượng 17,13 ngàn tấn (giảm 4,51%) và giá trị (giảm 1,76%). Ngoài cá tra, basa, các mặt hàng cá đông lạnh khác cũng tăng trưởng khả quan với tốc độ tăng trưởng giá trị nhanh hơn khối lượng, các thị trường tiêu thụ cá chủ lực là các nước EU, Nhật và Mỹ. Các mặt hàng chế biến, mặt hàng giá trị gia tăng cũng ghi nhận những kết quả khá, nhóm hàng tôm chế biến (chiếm 5,19% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản) đạt 218,18 triệu USD (tăng 79,02% so với cùng kỳ năm 2007), nhóm hàng cá chế biến (chiếm 11,99%) đạt 159,8 triệu USD (tăng 122,29%). Về thị trường xuất khẩu, nhóm các nước EU tiếp tục là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao với khối lượng 326,17 ngàn tấn (chiếm 28,34% tổng khối lượng xuất khẩu thuỷ sản, tăng 27,51% so với cùng kỳ năm 2007) và giá trị 1,06 tỷ USD (chiếm 25,35% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản, tăng 27,98%). Thị trường lớn thứ hai là Nhật có tốc độ tang trưởng đều đặn về khối lượng và giá trị, còn thị trường Mỹ lớn thứ ba chỉ tăng nhẹ. Nhờ mặt hàng cá tra, basa mà thị trường các nước châu Âu (405,28 triệu USD, gấp 2,1 lần cùng kỳ năm 2007) và châu Phi (81,26 triệu USD, gấp 2,82 lần) cũng ghi nhận những kết quả đáng ngạc nhiên. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 12 năm 2009 đạt 330 triệu USD, nâng tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản 12 tháng lên 4,21 tỷ USD, đạt 93,27% kế hoạch năm, giảm 6,73 % so với cùng kỳ năm 2008. Nét mới trong xuất khẩu thủy sản năm 2009 là Việt Nam đã tiến hành đàm phán hiệp định với Nhật Bản về xuất nhập khẩu thủy sản. Nhiều khả năng tới đây, phía Nhật Bản sẽ giảm mức thuế nhập khẩu bằng 0% đối với các sản phẩm tôm Việt Nam. Năm 2009 hàng thủy sản của nước ta xuất khẩu đạt kim ngạch 4,25 tỷ USD, giảm 5,7% so với năm 2008 (nhưng tăng 14,2% so với năm 2007). Trong đó, tôm đạt 211 nghìn tấn với trị giá: 1,69 tỷ USD; cá Tra & cá Basa đạt 614 nghìn tấn, trị 13 giá: 1,36 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong năm 2010 đạt hơn 5 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2009. Xuất khẩu thuỷ sản của nước ta trong năm 2010 sang EU đạt 1,2 tỷ USD, tăng 7,6%; sang Hoa Kỳ đạt 956 triệu USD, tăng 34,4%; sang Nhật Bản đạt 894 triệu USD, tăng 17,5%; sang Hàn Quốc đạt 389 triệu USD, tăng 24,2% so với năm 2009. Tổng giá trị thuỷ sản xuất khẩu sang 4 thị trường này đạt 3,44 tỷ USD, chiếm 68,6% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước. Kim ngạch xuất khẩu trong tháng 12/2011 đạt 581 triệu USD, giảm nhẹ 0,2% so với tháng 11. Tính đến hết năm 2011, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt 6,11 tỷ USD, tăng 21,8% so với năm 2010 và tăng 65,6% so với mức bình quân giai đoạn 2005 - 2009. Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn là 3 đối tác chính nhập khẩu hàng thuỷ sản trong năm 2011, cụ thể: xuất mặt hàng này sang thị trường EU đạt 1,36 tỷ USD, tăng 12,9%; sang Hoa Kỳ đạt 1,16 tỷ USD, tăng 21,3%; sang Nhật Bản đạt 1,02 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2010. Ngoài ra, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam còn mở rộng sang các thị trường như Hàn Quốc: 490 triệu USD, tăng 26,1%; Trung Quốc: 223 triệu USD, tăng 37,3%; Braxin: 86,3 triệu USD, tăng 153,5%... Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng 6/2012 đạt 524 triệu USD, giảm 4,7% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong 2 quý lên 2,86 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2011. Trong đó, xuất sang Hoa Kỳ đạt 559 triệu USD, tăng 16%; sang EU là 555 triệu USD, giảm 13,9%; và sang Nhật Bản đạt 502 triệu USD, tăng 33,4%;… c. Hoạt động sản xuất cà phê Xuất khẩu tháng 12/2008 đạt khoảng 120 ngàn tấn với trị giá 203 triệu USD, đưa tổng lượng cà phê xuất khẩu cả năm 2008 sẽ đạt 994 ngàn tấn với giá trị kim ngạch vượt ngưỡng 2 tỷ USD, giảm gần 20 % về lượng nhưng tăng 4,8% về kim ngạch. Đây là mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ hai sau gạo trong nhóm hàng nông sản xuất khẩu của nước ta. Lượng xuất khẩu cà phê cả năm 2009 là 1,18 triệu tấn, tăng 11,7% so với năm 2008. Do đơn giá xuất khẩu bình quân giảm 26,6% nên trị giá chỉ là 1,73 tỷ USD, giảm 18% so với năm trước. Các thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong năm 2009 là Đức: 136 nghìn tấn, tăng 0,2% so với năm 2008; Bỉ: 132 nghìn tấn, tăng 49,5%; Hoa Kỳ: 128 nghìn tấn, tăng 20,4%; Italia: 96,2 nghìn tấn, tăng 11,3%;… 14 Trái ngược với xuất khẩu gạo, mưa kéo dài làm sản lượng cà phê thu hoạch sụt giảm kéo theo tình hình xuất khẩu cà phê cũng không mấy khả quan. Khối lượng xuất khẩu năm 2010 chỉ đạt 1,1 triệu tấn và giá trị là 1,67 tỷ USD, giảm xấp xỉ 5% về lượng và 3,7% về giá trị so với năm 2009. Giá xuất khẩu trung bình xấp xỉ bằng năm 2009. Năm 2010, có sự thay đổi lớn về vị trí của các thị trường tiêu thụ lớn, thị trường tiêu thụ đứng đầu của năm 2009 là Bỉ có sự sụt giảm mạnh chỉ bằng 1/3 và tụt xuống vị trí thứ 6. Hoa Kỳ và Đức là hai thị trường tiêu thụ hàng đầu có sự tăng trưởng khá, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm trước. Lượng cà phê xuất khẩu trong tháng 12/2011 là 155,6 nghìn tấn, trị giá đạt 325 triệu USD, tăng 119,9% về lượng và tăng 116,6% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết 12 tháng/2011, lượng cà phê xuất khẩu của nước ta đạt gần 1,26 triệu tấn, trị giá đạt 2,75 tỷ USD, tăng 3,2% về lượng và tăng 48,7% về trị giá so với năm 2010. Thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của nước ta trong năm 2011 bao gồm EU: 490 nghìn tấn, tăng1,8% và chiếm 39% tổng lượng xuất khẩu nhóm hàng này của nước ta; tiếp theo là Hoa Kỳ: 138,5 nghìn tấn, giảm 9,5%; Nhật Bản: 50,7 nghìn tấn, giảm 4,4%... so với năm 2010. Lượng cà phê xuất khẩu trong tháng 6/2012 là hơn 141 nghìn tấn, trị giá đạt 303 triệu USD, giảm 30,8% về lượng và giảm 29% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết 6 tháng/2012, lượng xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước là gần 1,05 triệu tấn, trị giá là 2,2 tỷ USD, tăng 20,4% về lượng và tăng 15,2% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. d. Hoạt động xuất khẩu cao su Năm 2008 xuất khẩu hơn 72 nghìn tấn, tăng 20% so với tháng 11, nâng tổng lượng cao su xuất khẩu năm 2008 là 658 nghìn tấn, giảm 7,9% và chỉ hoàn thành có 84,4% kế hoạch năm. Tuy nhiên, do năm 2008 giá bình quân tăng 25% (tương đương với tăng 487 USD/tấn) nên kim ngạch xuất khẩu cao su cả năm đạt hơn 1,6 tỷ USD tăng 15,1% so với năm 2007. Năm 2008, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam gần 431 nghìn tấn, chiếm tới gần 65,5% khối lượng xuất khẩu cao su của cả nước. Tiếp theo là Hàn Quốc: 29 nghìn tấn, Đức: 24 nghìn tấn, Đài Loan: 21,2 nghìn tấn, Malaysia gần: 21 nghìn tấn,… 15 Lượng xuất khẩu trong tháng 12 năm 2009 đạt 90,4 nghìn tấn, nâng tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này cả năm đạt 731 nghìn tấn, tăng 11,1% so với năm 2008. Mặc dù vậy, do giá xuất khẩu bình quân giảm mạnh đến 31,1% nên kim ngạch chỉ đạt 1,23 tỷ USD, giảm 23,5% so với năm trước. Trung Quốc tiếp tục là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của Việt Nam trong năm qua với 510 nghìn tấn (chiếm 69,6% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước), tăng 18,4% so với năm 2008. Tiếp theo là sang Malaixia: 30,1 nghìn tấn, tăng 43,3%; sang Hàn Quốc: 28,3 nghìn tấn, giảm 2,4%; sang Đài Loan: 25 nghìn tấn, tăng 18,1%; sang Đức: 21,4 nghìn tấn, giảm 12,4%;… Lượng xuất khẩu trong tháng đạt 101 nghìn tấn với trị giá gần 393 triệu USD, tăng 13,3% về lượng và tăng 21,9% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết năm 2010, lượng cao su xuất khẩu đạt 782 nghìn tấn, tăng 6,9% và kim ngạch đạt 2,39 tỷ USD, tăng 94,7% so với năm 2009. Năm 2010 Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của nước ta với 464 nghìn tấn, nhưng giảm 9% so với năm 2009 và chiếm 59,4% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp theo là Malaixia: 58,9 nghìn tấn, tăng 95,5%; Hàn Quốc: 34,7 nghìn tấn, tăng 22,4%; Đài Loan: 31,9 nghìn tấn, tăng 27,5%; Đức: 27,8 nghìn tấn, tăng 29,9%; … Tháng 12/2011, lượng cao su xuất khẩu đạt 111 nghìn tấn, trị giá 335 triệu USD, giảm 11,8% về lượng và giảm 11,1% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 12/2011, tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước đạt 817 nghìn tấn, tăng 4,4%, trị giá đạt 3,23 tỷ USD, tăng 35,4% so với năm 2010. Trung Quốc vẫn là đối tác chính tiêu thụ cao su nhập khẩu từ nước ta trong năm 2011 với 502 nghìn tấn, tăng 8% và chiếm tới 61,4% lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp theo là các thị trường: EU: 67,1 nghìn tấn, tăng 6,2%; Malaixia: 57,8 nghìn tấn, giảm 2%; Đài Loan: 34,3 nghìn tấn, tăng 7,6%;… Tháng 6/2012, xuất khẩu nhóm hàng này là 60 nghìn tấn, trị giá 170 triệu USD, giảm 19,2% về lượng và giảm 27,5% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 6/2012, tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước đạt 403 nghìn tấn, tăng 39,6% so với cùng kỳ năm trước. Và tiếp tục Trung Quốc vẫn là đối tác chính nhập khẩu cao su của Việt Nam với 210 nghìn tấn, tăng 21,3% và chiếm tới 52,2% lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp sau là các thị trường: Malaixia: 65 nghìn tấn, tăng gấp 3 lần; Hàn Quốc: 19 nghìn tấn, tăng 33,3%; Đài Loan: 18 nghìn tấn, tăng 50,6%;… so với cùng kỳ năm trước. Những năm gần đây, rau quả, hạt tiêu và hạt điều đang khẳng định vai trò của mình trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu; kim ngạch xuất khẩu của chúng 16 ta không ngừng tăng qua các năm. Hiện nay, thị trường rau quả xuất khẩu đã được mở rộng tới gần 50 nước và vùng lãnh thổ, chủ yếu tập trung ở thị trường châu á, Tây Băc Âu và Mỹ. III. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM. Việt Nam là một nước có khĩ hậu nhiệt đới, gió mùa, 80% dân số sống bằng nghề nông. vì vậy hàng nông sản là loại hàng chủ lực và cần thiết của Việt Nam. Không phải chỉ một vài năm gần đây Việt Nam mới xuất khẩu nông sản mà thực tế nó đã có mặt trên thị trường thế giới hàng trăm năm nay. 1- Thị trường Nhật Bản Từ năm 1986 đến nay, lượng hàng mà Việt Nam nhập của Nhật Bản đã tăng lên 3-4 lần, trong khi đó lượng hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản lại tăng từ 13-14 lần. Sau Indonesia Việt Nam là nước đang phát triển tại châu á luôn xuất siêu sang Nhật Bản, đay là thị trường mà mặt hàng nông lâm sản chiếm lĩnh lớn nhất của nước ta. Có thể nói Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam đồng thời cũng là nước xuất khẩu lớn thứ hai sang Việt Nam. Triển vọng tăng trưởng quan hệ xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản và Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam, điều này cũng sẽ quyết định lượng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Vì vậy Việt Nam nên tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và công nghệ của Nhật Bản vào để sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có của đất nước tạo ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2- Thị trường các nước Asean. Việt Nam gia nhập Asean là một mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển hoá mối quan hệ giữ Asean Việt Nam với các nước thành viên mang đậm tính chất hợp tác. Nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế của các nước thành viên có thể bổ sung cho nhau, đem lại sự phồn vinh cho mỗi quốc gia và cả khu vực. Cho đến nay Asean đã chiếm khoảng 25-30% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, khoảng 30 % kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam và 15% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việt Nam đã trở thành một thành viên chính thức của Asean có điều kiện mở rộng thương mại không chỉ với các nước Asean mà còn với các nước khác. tuy nhiên là một thành viên Việt Nam phải thực hiện các hiệp định thoả thuận của Asean trong đó việc tham gia vào hiệp định khu vực mậu dịch tự do Asean (AFTA), thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan (CFPT). Điều này ảnh 17 hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh thương mại trong khu vực nói chung và đối vơí nông lâm sản nói riêng. Khi đó chúng ta sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh lớn, đòi hỏi những mặt hàng nông lâm sản phải có chất lượng cao, giá rẻ. 3- Thị trường EU Thị trường EU là một thị trường giàu tiềm năng đối với hàng nông sản của VIệt Nam. Nhận định này dựa trên hai căn cứ sau đây: - Thứ nhất, tuy nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp của thị trường EU chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của thị trường này, nhưng đó vẫn là một thị trường rất lớn, các số liệu thống kê đều cho thấy rằng, bên cạnh việc vẫn đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp ra thị trường thế giới, nhưng để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của chính mình, EU vẫn đẩy mạnh nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp. - Thứ hai, với các định hướng phát triển nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp…, đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, chúng ta sẽ nâng cao được chất lượng và VSATTP của sản phẩm nông nghiệp. 4- Thị trường Mỹ Trước năm 1975, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ một số mặt hàng như cao su, gỗ, hải sản, đồ gốm... song kim ngạch xuất khẩu không đáng kể. Ngày 3/2/1994 tổng thống Mỹ B.Clinton tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận Việt Nam, tiếp đó bộ thương Mại Mỹ chuyển Việt Nam từ nhóm Z(gồm Bắc Triều Tiên, CuBa và Việt Nam) lên nhóm Y ít hạn chế thương mại hơn (gồm các nước Liên Xô cũ, các nước thuộc khối Vacsava cũ, Anbani, Môngcổ, Lào, Camphuchia và Việt Nam ). Bộ vận tải và bộ thương mại Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng sang Việt Nam, cho phép tàu mang cờ Việt Nam vào cảng Mỹ nhưng còn hạn chế phải xin phép trước 7 ngày và thông báo tàu đến trước 3 ngày. Từ năm 1991 đến năm 1994 thì kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đã tăng đáng kể. Căn cứ vào nhu cầu thị trường Mỹ hàng sau đây có khả năng xuất khẩu sang Mỹ như cà phê, chè gia vị, hải sản chế biến, hàng may mặc... ngoài những mặt 18 hàng nói trên Việt Nam có thế mạnh như cao su, dầu thô, thực vật, hoa quả nhiệt đới, hàng thủ công mỹ nghệ. .. đều có thể xuất sang Mỹ. 5- Thị trường liên bang Nga và các nước Đông Âu và Trung Quốc Đây là thị trường chủ yếu tiêu thụ hàng nông lâm sản của Việt nam như: Hoa quả tươi và chế biến, chè, cà phê, cao su, hàng thủ công mỹ nghệ. Nga là bạn hàng truyền thống tiêu thụ nhiều mặt hàng của Việt Nam. Nhưng vài năm gần đây thì kim ngạch buôn bán giữa nước ta và Nga đã giảm dần và hiện nay Nga là nước xuất siêu sang Việt Nam. Với sản lượng và chủng loại hàng hóa không ngừng tăng lên trong nhiều năm gần đây, hoạt động sản xuất nông nghiệp của Việt Nam đã khẳng định được vị thế quan trọng đối với cả thị trường trong nước và thế giới. Với thị trường trong nước, các mặt hàng nông sản đã cung cấp đủ cho thị trường những mặt hàng thiết yếu đặc biệt quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu chi tiêu của người dân (chiếm gần 40% chi tiêu của người dân trong tổng chi tiêu), đó là nhóm hàng lương thực, thực phẩm. Đối với thị trường thế giới, xuất khẩu nông sản của Việt Nam tăng nhanh cả về sản lượng và kim ngạch, tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch xuất khẩu trong nhiều năm trở lại đây đạt mức 22-23% năm, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm thủy sản chính ngạch năm 2010 và 2011 đã đạt 15-20 tỷ USD, chiếm 20-21% tổng kimn ngạch xuất khẩu cả nước. Một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam có thị phần lớn và chiếm vị trí dẫn đầu trong các nước xuất khẩu nông sản như: gạo (đứng thứ 2 thế giới), hồ tiêu (đứng thứ nhất thế giới), hạt điều (đứng thứ 2 thế giới), cà phê (chiếm 40% thị phần). IV. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA XUẤT KHẨU NÔNG SẢN Ở VIỆT NAM. 1. Thuận lợi. a. Về đất đai. Việt Nam có diện tích 330.363 km2, tiềm năng đất nông nghiệp của là 10 -11,157 triệu ha với 8 triệu hecta (ha) cây trồng hàng năm (đất trồng lúa khoảng 5,4 triệu ha, 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm). Hiện nay, nước ta mới chỉ sử dụng 19 65% quỹ đất nông nghiệp. Trong đó 5,6 triệu ha cho cây trồng hàng năm, cây lâu năm là 0,86 triệu ha, 0,33 triệu ha đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha mặt nước.Việt Nam có một diện tích lớn đất bị xói mòn, thoái hoá. Cụ thể: Vùng Bắc Bộ 5% tổng diện tích, Khu 4 cũ 35% tổng diện tích, Đồng Bằng Nam Bộ 34% tổng diện tích. Nếu đầu tư cải tạo diện tích này sẽ rất thuận tiện cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày như cao su, hạt tiêu, cà phê. Vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long có diện tích đất đưa vào sử dụng khá cao lần lượt là 93% và 82% tổng diện tích của cả vùng nhưng hệ số sử dụng đất mới chỉ đạt 1,5 lần do tình trạng thâm canh trong nông nghiệp còn lạc hậu với sự yếu kém về hệ thống thuỷ lợi. Do vậy nước ta vẫn có thể khai thác được vùng đồng bằng màu mỡ này nếu biết đầu tư phát triển sản xuất theo chiều sâu. Đặc biệt những vùng đất còn hoang hoá ở các vùng khác cũng cần tích cực đầu tư tạo tiềm lực cho sản xuất nông nghiệp. b. Về khí hậu. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa Châu Á. Khí hậu Việt Nam rất đa dạng, phân biệt rõ rệt từ miền Bắc vào miền Nam. Miền Bắc có mùa đông lạnh. Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long có khí hậu kiểu Nam Á. Đây là điều kiện khí hậu thuận lợi để đa dạng hoá các loại cây trồng. Ngoài ra tiềm năng nhiệt độ, độ ẩm và gió dồi dào phân bổ khá đồng đều trên phạm vi cả nước. Tiềm năng nhiệt của nước ta được xếp vào dạng giàu có với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, độ ẩm tương đối trong năm lớn hơn 80%, lượng mưa khoảng 1800 - 2000 mm/năm là điều kiện lý tưởng cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát triển. c. Về vị trí địa lý và cảng khẩu. Từ trước đến nay, một khối lượng lớn hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế bằng đường sắt, đường ống và đường hàng không thì phương thức vận tải này có nhiều thuận lợi hơn, thông dụng hơn và có mức cước phí rẻ hơn. Trong thực tiễn chuyên chở bằng đường biển, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi nổi bật. Đường biển Việt Nam có hình chữ “S”, hệ thống cảng biển nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế trải dọc từ Bắc, Trung, Nam, 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng