KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
-----H•I-------
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HÀNH TIẾT KIỆM,
CHỐNG LÃNG PHÍ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đặng Thị Hoàng Liên
Thư ký:
Lại Xuân Nghị
7545
02/11/2009
Hà Nội, 2009
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐND
Hội đồng nhân dân
KTNN
Kiểm toán Nhà nước
NSĐP
Ngân sách địa phương
NSNN
Ngân sách nhà nước
NSTW
Ngân sách trung ương
UBND
Ủy ban nhân dân
XHCN
Xã hội Chủ nghĩa
MỤC LỤC
NỘI DUNG
Trang
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỰC HÀNH TIẾT
KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM
TOÁN NHÀ NƯỚC
4
1.1
Khái niệm về tiết kiệm và lãng phí
4
1.1.1
Tiết kiệm
4
1.1.2
Lãng phí
4
1.2
Quan điểm, chủ trương về tiết kiệm, chống lãng phí của
Đảng và Nhà nước
5
1.2.1
Mục tiêu, quan điểm phòng, chống tham nhũng, lãng phí
6
1.2.2
Chủ trương, giải pháp về phòng, chống tham nhũng, lãng phí
7
1.3
Một số vấn đề thể chế hoá chủ trương, đường lối, cơ chế,
chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí
7
1.3.1
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí - nền tảng của việc
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
7
1.3.2
Chương trình hành động của Chính phủ về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí - Giải pháp tổng thể triển khai thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí
8
1.4
Sự cần thiết phải thực hành tiết kiệm và chống lãng phí
trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
14
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG
LÃNG PHÍ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
19
2.1
Một số kết quả đạt được trong hoạt động của KTNN
19
2.1.1
Công tác tổ chức cán bộ
19
2.1.2
Công tác kiểm toán
19
2.1.3
Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
20
2.1.4
Công tác nghiên cứu khoa học
21
2.1.5
Công tác quan hệ hợp tác quốc tế
21
2.2
Thực trạng về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong
hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
21
2.2.1
Xây dựng, hoàn thiện, bổ sung các văn bản quy định của Nhà
22
nước làm cơ sở cho việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
trong KTNN và triển khai thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí
2.2.2
Tăng cường công tác tuyên truyền, học tập, nghiên cứu và quán
triệt việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
23
2.2.3
Thực hiện công khai tạo điều kiện kiểm tra, giám sát việc thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí trên mọi lĩnh vực
24
2.2.4
Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm quy định về thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí
24
2.2.5
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong một số lĩnh vực cụ
thể của Kiểm toán Nhà nước
25
2.3
KTNN tăng cường phát hiện và ngăn chặn lãng phí thông
qua hoạt động kiểm toán và nâng cao chất lượng kiểm toán
32
2.3.1
Công tác tổ chức, triển khai, chỉ đạo thực hiện Luật Thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí của các Bộ, ngành, địa phương đã
thực hiện kiểm toán
33
2.3.2
Tình hình thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
34
2.4
Công tác công khai thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
theo Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật
Kiểm toán Nhà nước
42
2.5
Đánh giá thực trạng và rút ra những vấn đề cần xử lý về
thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong hoạt động của
Kiểm toán Nhà nước
45
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG
PHÍ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
47
3.1
Định hướng thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong
hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
47
3.2
Một số giải pháp về thực hành tiết kiệm và chống lãng phí
trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
49
3.2.1
Nhóm giải pháp đối với việc quản lý và sử dụng Ngân sách
Nhà nước
49
3.2.2
Nhóm giải pháp đào tạo, quản lý, sử dụng lao động và thời gian
lao động
52
3.2.3
Nhóm giải pháp thông qua hoạt động kiểm toán
53
3.2.4
Nhóm giải pháp về tuyên truyền, phổ biến
55
3.2.5
Tiến hành rà soát các văn bản về thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí
55
3.2.6
Tăng cường minh bạch hóa, công khai hóa kết quả kiểm toán,
chú trọng công khai kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
tại đơn vị được kiểm toán
56
3.3
Điều kiện thực hiện các kiến nghị giải pháp thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí trong hoạt động của Kiểm toán Nhà
nước
56
KẾT LUẬN
58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
60
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong hoạt
động của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) luôn được lãnh đạo KTNN quan tâm chỉ
đạo và cụ thể hóa bằng các quy định liên quan đến nhiều lĩnh vực tổ chức và
hoạt động của ngành, đặc biệt là đối với hoạt động kiểm toán. KTNN đã ban
hành nhiều văn bản hướng dẫn và quy định cụ thể nhằm quán triệt, phổ biến
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng kinh phí, tài sản cơ quan,
chi tiêu công quỹ cũng như tiêu dùng cá nhân đến toàn thể cán bộ công chức,
viên chức và người lao động trong cơ quan (Quy định về trang bị và thanh toán
cước điện thoại; Quy định về định mức sử dụng văn phòng phẩm, Quy chế về
tiêu chuẩn, đối tượng sử dụng xe ôtô; Quy định về giờ giấc làm việc; thực hiện
công khai tài chính từ khâu giao dự toán đến khâu chấp hành, quyết toán
NSNN...). Đồng thời, KTNN đã thực hiện nhiều giải pháp đẩy mạnh công tác
thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng NSNN, sử dụng nguồn
nhân lực và thông qua nhiệm vụ kiểm toán góp phần phát hiện và ngăn chặn kịp
thời những hành vi lãng phí, thất thoát trong việc quản lý sử dụng NSNN, tiền
và tài sản nhà nước.
Mặc dù phần lớn các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đề ra
đối với hoạt động của KTNN đã được triển khai và đạt được những kết quả nhất
định nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số biện pháp chưa đáp ứng được tiến độ
đặt ra như: chế độ báo cáo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa được thực
hiện thường xuyên; việc phát hiện, tuyên truyền những điển hình tốt cũng như
việc phê phán mạnh mẽ những hành vi sai phạm trong thực hiện Luật Thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí chưa quan tâm đúng mức; một số Đoàn kiểm toán chưa
chú trọng đánh giá việc thực hiện thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tại các
đơn vị được kiểm toán.
Trước yêu cầu ngày càng cao của việc tăng cường hiệu quả hoạt động của
KTNN trong thực hành tiết kiệm chống lãng phí; thực hiện chức năng, nhiệm vụ
1
của KTNN theo quy định của Luật KTNN, Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí; thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ về thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cần được đẩy
mạnh hơn trong tất cả các hoạt động của KTNN và tập trung trên một số mặt
chủ yếu như: việc quản lý và sử dụng NSNN; quản lý và sử dụng tài sản công;
đào tạo, quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động; tuyên truyền, phổ biến;
rà soát các văn bản về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; thường xuyên kiểm
tra về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng tài sản công và
đặc biệt đẩy mạnh công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thông qua hoạt
động kiểm toán.
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là một trong những mục tiêu của
công cuộc cải cách hành chính nhà nước, KTNN là cơ quan trong hệ thống thiết
chế Nhà nước do vậy không thể tách khỏi xu hướng này. Bên cạnh đó, KTNN là
cơ quan kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước nhằm sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả
các nguồn lực tài chính công nên việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong
hoạt động của cơ quan này là rất cần thiết.
Nghiên cứu triển khai và thực hiện tốt các giải pháp thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí trong hoạt động của KTNN sẽ góp phần quan trọng trong việc
tăng cường hiệu lực, hiệu quả của KTNN, chống tham nhũng, thất thoát, lãng
phí, phát hiện ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền
vững của đất nước. Do đó, Đề tài cấp cơ sở: “Thực trạng và giải pháp thực
hành tiết kiệm và chống lãng phí trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước”
vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong hoạt
động của KTNN;
- Đánh giá thực trạng thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong hoạt
động của KTNN;
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản để thực hành tiết kiệm và chống lãng phí
2
trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là việc thực hành tiết kiệm và
chống lãng phí trong hoạt động của KTNN; đặc biệt tập trung nghiên cứu một số
nội dung chính sau: việc quản lý và sử dụng NSNN; quản lý và sử dụng tài sản
công; đào tạo, quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động; tuyên truyền,
phổ biến; rà soát các văn bản về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; thường
xuyên kiểm tra về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng tài
sản công và đặc biệt đẩy mạnh công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
thông qua hoạt động kiểm toán của KTNN.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng một số phương pháp
sau: Tổng hợp, phân tích, đối chiếu, so sánh, thống kê và khái quát hoá.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
- Chương 2: Thực trạng thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong hoạt
động của Kiểm toán Nhà nước
- Chương 3: Một số giải pháp cơ bản thực hành tiết kiệm và chống lãng
phí trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
3
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM,
CHỐNG LÃNG PHÍ TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí một cách hiệu quả, KTNN cần
tuân thủ đúng quan điểm, chủ trương về tiết kiệm, chống lãng phí của Đảng và
Nhà nước; các quy định của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí do Quốc
hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ban hành. Do đó, các quan điểm, chủ
trương của Đảng và Nhà nước về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãnh phí được coi là những vấn đề cơ bản về thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí trong hoạt động của KTNN.
1.1. Khái niệm về tiết kiệm và lãng phí
1.1.1. Tiết kiệm là việc giảm bớt hao phí trong sử dụng tiền, tài sản, lao
động, thời gian lao động và tài nguyên thiên nhiên nhưng vẫn đạt được mục tiêu
đã định. Đối với việc quản lý, sử dụng NSNN, tiền, tài sản nhà nước, lao động,
thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên ở những
lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành thì tiết kiệm là việc sử dụng ở mức thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế
độ nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã định hoặc sử dụng đúng định mức, tiêu
chuẩn, chế độ nhưng đạt cao hơn mục tiêu đã định.
1.1.2. Lãng phí là việc quản lý, sử dụng tiền, tài sản, lao động, thời gian
lao động và tài nguyên thiên nhiên không hiệu quả. Đối với lĩnh vực đã có định
mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì lãng
phí là việc quản lý, sử dụng NSNN, tiền, tài sản nhà nước, lao động, thời gian
lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên vượt định mức, tiêu
chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã định.
(Theo Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã được Quốc hội nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11
năm 2005)
4
1.2. Quan điểm, chủ trương về tiết kiệm, chống lãng phí của Đảng và
Nhà nước
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa X đã ra Nghị
quyết số 04-NQ-T.W "Về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí" đưa ra đánh giá: trong những năm qua,
nhất là từ sau Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Ðảng và Nhà nước ta đã
tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và đã đạt
được một số kết quả nhất định, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an
ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Nhiều cán bộ, đảng viên giữ vững phẩm
chất đạo đức cách mạng, đi đầu trong cuộc đấu tranh này. Nhiều vụ án tham
nhũng, trong đó có những vụ án lớn, phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng đã
được phát hiện, xử lý. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũng, lãng phí
vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi
rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin
của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Ðảng và
Nhà nước ta.
Nguyên nhân chủ yếu của những thiếu sót, khuyết điểm trong phòng,
chống tham nhũng, lãng phí: Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện,
thiếu đồng bộ, còn nhiều sơ hở, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị nói chung, của bộ máy nhà nước nói riêng còn
nhiều khuyết điểm, chất lượng và hiệu quả chưa cao; chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của một số cơ quan, tổ chức chưa được xác định rõ ràng, cụ thể, còn
trùng lặp hoặc bị phân tán. Nhiều tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tính nghiêm trọng, sự
nguy hại của tệ tham nhũng, lãng phí, nên lãnh đạo không chặt chẽ, thiếu kiểm
tra, đôn đốc, thậm chí còn nể nang, né tránh, dung túng, bao che cho tham
nhũng, lãng phí; chưa thực sự dựa vào dân và chưa phát huy được sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý,
giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn nhiều yếu kém. Một bộ
5
phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị,
phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các
ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn
phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng
phí và thực hành tiết kiệm.
Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ rất quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta. Do
vậy, trong những năm tới, phải đẩy mạnh toàn diện và kiên quyết cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Một số nội dung chính của Nghị quyết số 04-NQ-T.W "Về tăng cường sự
lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí" trong
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa X:
1.2.1. Mục tiêu, quan điểm phòng, chống tham nhũng, lãng phí
1.2.1.1. Mục tiêu phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhằm ngăn chặn,
từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững
ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây
dựng Ðảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức kỷ
cương, liêm chính.
1.2.1.2. Quan điểm phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Ðảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện
đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự.
Phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính
trị và khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Ðảng, chính quyền trong sạch, vững
mạnh. Vừa tích cực, chủ động phòng ngừa vừa kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, trong đó phòng ngừa là chính. Gắn phòng, chống tham nhũng, lãng phí
với xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, phát huy dân chủ, thực hành tiết kiệm, chống
chủ nghĩa cá nhân, chống quan liêu. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là
nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục
6
với những bước đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm. Kế thừa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn
lọc kinh nghiệm của nước ngoài.
1.2.2. Chủ trương, giải pháp về phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Chủ trương và giải pháp về phòng, chống tham nhũng, lãng phí bao gồm
các nội dung sau:
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức trách
nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức và nhân dân về công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí;
- Nâng cao tính tiên phong, gương mẫu của tổ chức đảng và đảng viên,
tăng cường vai trò của chi bộ trong quản lý, giáo dục đảng viên;
- Tiếp tục hoàn thiện công tác cán bộ phục vụ phòng, chống tham nhũng,
lãng phí;
- Bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ
chức, đơn vị;
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế, xã hội;
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán,
điều tra, truy tố, xét xử hành vi tham nhũng;
- Thực hiện tốt công tác truyền thông về phòng, chống tham nhũng, lãng phí;
- Xây dựng các cơ quan, đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng;
- Tăng cường giám sát của nhân dân và cơ quan dân cử;
- Hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.
1.3. Một số vấn đề thể chế hoá chủ trương, đường lối, cơ chế, chính
sách của Đảng và Nhà nước về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
1.3.1. Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí - nền tảng của việc
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí quy định về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí trong quản lý, sử dụng NSNN, tiền, tài sản nhà nước, lao động,
thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên; thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Đối tượng áp
7
dụng Luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng NSNN, tiền, tài sản nhà
nước, lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên. Công dân và
tổ chức không thuộc đối tượng trên.
Nội dung chính của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là những
quy định cụ thể về một số lĩnh vực cần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí như:
quản lý sử dụng kinh phí NSNN; đầu tư xây dựng dự án sử dụng NSNN, tiền, tài
sản nhà nước; quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà công vụ của cơ quan, tổ
chức sử dụng kinh phí NSNN và công trình phúc lợi công cộng; quản lý, khai
thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; đào tạo, quản lý, sử dụng lao động và thời
gian lao động trong khu vực nhà nước; quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước
tại doanh nghiệp; sản xuất và tiêu dùng của cá nhân.
1.3.2. Chương trình hành động của Chính phủ về thực hành tiết kiệm
chống lãng phí - Giải pháp tổng thể triển khai thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí
Chương trình hành động của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí đưa ra giải pháp tổng thể triển khai công tác thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí trên các mặt sau:
1.3.2.1. Tổ chức học tập, nghiên cứu, quán triệt Luật Thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí
Theo Chương trình hành động của Chính phủ về thực hành tiết kiệm
chống lãng phí, trước tiên các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với các đoàn thể, tổ
chức quần chúng có trách nhiệm tổ chức học tập, quán triệt Luật Thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, Chương trình hành động của Chính phủ, Chương trình
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của cấp mình, ngành mình, đơn vị mình đến
từng cán bộ, công chức, viên chức, hội viên thuộc phạm vi quản lý nhằm tăng
cường hiểu biết pháp luật, nâng cao nhận thức, có những hành động, việc làm cụ
thể tạo chuyển biến thực sự trong lề lối làm việc, cải cách hành chính và thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí.
8
Các cơ quan thông tấn báo chí đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục về pháp luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trên các phương tiện
thông tin đại chúng với các hình thức thích hợp và có hiệu quả; nêu gương người
tốt, việc tốt trong việc thực thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kịp thời phê phán,
lên án các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm, gây lãng phí.
1.3.2.2. Hoàn thiện hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ làm cơ sở thực
hành tiết kiệm chống lãng phí
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương tổng rà soát các định mức, tiêu chuẩn, chế độ
trong các lĩnh vực, đặc biệt tập trung vào lĩnh vực quản lý, sử dụng NSNN; đầu
tư xây dựng cơ bản; quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà công vụ, công trình
phúc lợi công cộng và tài sản công khác; khai thác, quản lý, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên; lập danh mục các định mức, tiêu chuẩn, chế độ, định mức kinh tế kỹ thuật còn thiếu hoặc không còn phù hợp trong các lĩnh vực chuyên ngành để
có kế hoạch sửa đổi, bổ sung, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có
thẩm quyền ban hành. Việc sửa đổi, bổ sung định mức, tiêu chuẩn, chế độ, định
mức kinh tế - kỹ thuật trong các lĩnh vực phải bảo đảm phù hợp với yêu cầu thực
tế, tiến bộ khoa học, công nghệ và khả năng của NSNN trong từng thời kỳ.
1.3.2.3. Thực hiện công khai tạo điều kiện kiểm tra, giám sát việc thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị thuộc phạm vi
quản lý thực hiện các quy định về công khai để tạo điều kiện cho việc kiểm tra,
thanh tra, giám sát thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đồng thời, tăng cường
kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về công khai, đưa công tác
công khai về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thành nề nếp trong các cơ
quan, đơn vị, tổ chức nhà nước.
Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, tổ chức nhà nước phải thực hiện công
khai theo đúng quy định của pháp luật, trước hết tập trung thực hiện công khai
việc sử dụng NSNN và các nguồn tài chính được giao (nếu có); công khai mua
9
sắm, sử dụng trang thiết bị làm việc, phương tiện đi lại; công khai quản lý, sử
dụng trụ sở làm việc, nhà công vụ, công trình phúc lợi công cộng và các tài sản
khác trong cơ quan, đơn vị, tổ chức.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm báo cáo tình hình thực hiện
công khai trong các đơn vị thuộc phạm vi quản lý và kết quả giám sát việc thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, định kỳ hàng năm
báo cáo Chính phủ.
1.3.2.4. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm quy định về thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí
Kiểm tra, thanh tra thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là một nội dung
của kế hoạch thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành của các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và của Chính phủ; là biện pháp để phát hiện, ngăn ngừa các hành vi
vi phạm pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Một số lĩnh vực cần
tập trung kiểm tra, thanh tra bao gồm: quản lý, sử dụng đất đai; các dự án đầu tư
sử dụng NSNN hoặc có nguồn gốc từ NSNN; quản lý, sử dụng trụ sở làm việc,
nhà công vụ, công trình phúc lợi công cộng; các Chương trình Quốc gia; quản
lý, sử dụng các nguồn viện trợ, tài trợ của nước ngoài; mua sắm, trang bị, quản
lý, sử dụng phương tiện đi lại; mua sắm, trang bị, quản lý, sử dụng trang thiết bị
làm việc.
1.3.2.5. Tổ chức thực hiện có hiệu quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
trong các lĩnh vực: quản lý, sử dụng NSNN; quản lý đầu tư xây dựng; quản lý,
sử dụng đất đai, trụ sở làm việc, nhà công vụ; quản lý, khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên; đào tạo, quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động
trong khu vực Nhà nước; quản lý, sử dụng vốn và tài sản tại công ty nhà nước và
đặc biệt đối với sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Cụ thể:
Trong quản lý, sử dụng NSNN, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phả thực hiện
nghiêm các quy định của Luật NSNN trong tất cả các khâu: lập, thẩm định, phê
10
duyệt, phân bổ dự toán, quản lý, sử dụng, kiểm soát chi và quyết toán kinh phí
NSNN. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng NSNN chịu trách nhiệm
giải trình việc quản lý, sử dụng NSNN được giao theo yêu cầu của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Đẩy mạnh thực hiện các cơ chế quản lý tài chính mới để thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, đặc biệt là thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính trong các cơ quan hành
chính nhà nước. Các đơn vị sự nghiệp công lập phải chuyển sang thực hiện cơ chế
tự chủ tài chính gắn với tự chịu trách nhiệm theo quy định của Chính phủ; đồng
thời, mở rộng và đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá đối với các lĩnh vực sự nghiệp. Rà
soát các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, tập trung bố trí NSNN cho những
nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm cần ưu tiên đã được cấp có thẩm
quyền tuyển chọn và phê duyệt (trừ những nhiệm vụ khoa học và công nghệ
phải giao trực tiếp); không bố trí kinh phí cho các nhiệm vụ khoa học và công
nghệ chưa đủ thủ tục.
Thực hiện cơ chế đấu thầu tuyển chọn cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân
thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Riêng đối với
các đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được nhà nước hỗ trợ
một phần kinh phí thì thực hiện theo cơ chế khoán kinh phí đối với phần kinh
phí do NSNN cấp. Rà soát, bảo đảm các điều kiện để thực hiện các chương trình
mục tiêu theo đúng tiến độ quy định và có hiệu quả; tổ chức lồng ghép các
chương trình có cùng tính chất, thực hiện trên cùng một địa bàn; giảm chi phí
quản lý chương trình, chi phí trung gian, tập trung kinh phí chương trình cho đối
tượng được thụ hưởng theo quy định.
Trong quản lý đầu tư xây dựng, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các chủ đầu tư phải
tiến hành chống lãng phí một cách nghiêm túc và có hiệu quả. Các cơ quan, đơn
vị quản lý, phê duyệt, triển khai dự án đầu tư phải thực hiện đúng quy trình, quy
chế quản lý đầu tư hiện hành của Nhà nước, thực hiện đầu tư có tập trung, không
dàn trải để bảo đảm yêu cầu thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xác định rõ
trách nhiệm của mỗi cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân gây lãng phí trong tất cả
11
các khâu của quá trình đầu tư. Người đứng đầu cơ quan quản lý đầu tư, cơ quan
phê duyệt dự án đầu tư, đơn vị thực hiện dự án đầu tư sử dụng NSNN phải chịu
trách nhiệm trước Chính phủ, trước pháp luật về tình trạng lãng phí xảy ra đối
với công trình, dự án đầu tư do mình quản lý, phê duyệt và thực hiện.
Đất đai, trụ sở làm việc, nhà công vụ giao cho các cơ quan, đơn vị, tổ
chức phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và bảo đảm thực
hành tiết kiệm. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi quản lý của mình thực
hiện việc kiểm tra, rà soát diện tích đất đai, trụ sở làm việc, nhà công vụ đang
quản lý để bổ trí sử dụng hợp lý, đúng chế độ, tiêu chuẩn quy định để bảo đảm
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; k hông cấp thêm đất, không bố trí xây dựng
trụ sở làm việc khi chưa hoàn thành việc sắp xếp sử dụng theo đúng tiêu chuẩn,
diện tích đã có. Năm 2007, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ ban hành
quy chế quản lý nhà công vụ để áp dụng thống nhất trong cả nước. Các cơ quan,
đơn vị, tổ chức nhà nước thực hiện rà soát diện tích sử dụng đất được Nhà nước
giao không thu tiền sử dụng đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất tính vào
giá trị tài sản của đơn vị. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức có trách nhiệm
bảo toàn quỹ đất được giao, bảo đảm sử dụng đất đúng mục đích và chịu trách
nhiệm về việc quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật.
Các Bộ, ngành được giao quản lý các lĩnh vực liên quan đến tài nguyên
thiên nhiên có trách nhiệm soát xét lại quy hoạch, kế hoạch quản lý, khai thác,
sử dụng từng loại tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các tài nguyên: đất, nước,
rừng, khoáng sản để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; rà soát, ban hành các
quy chế, quy định về tái tạo, bảo vệ phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan trình
Thủ tướng Chính phủ Đề án về chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân
thực hiện tái chế, tái sử dụng tài nguyên và các nguồn năng lượng có thể tái tạo
được để thực hành tiết kiệm, bảo vệ môi trường sinh thái.
Về đào tạo, quản lý, sử dụng lao động, thời gian lao động trong khu vực
nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ
12
Nội vụ phải soát xét lại các quy định để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện; không để
xảy ra tình trạng mất cân đối giữa đào tạo với sử dụng; tuyển dụng không phù
hợp với nhu cầu sử dụng; sử dụng cán bộ, công chức, viên chức không đúng với
chuyên môn, ngành nghề được đào tạo, không phát huy hết năng lực, sở trường;
lãng phí thời gian, nguồn lực lao động.
Trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản tại công ty nhà nước, các Tổng
công ty, công ty nhà nước căn cứ Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và
các quy định của Nhà nước xây dựng, ban hành các cơ chế, quy chế, các định
mức, tiêu chuẩn, chế độ để quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực được
Nhà nước giao; thực hiện kiểm toán bắt buộc và công khai tài chính trong các
Tổng công ty, công ty nhà nước; phát hiện kịp thời, xử lý theo đúng quy định của
pháp luật đối với các hành vi gây lãng phí vốn, tài sản, lao động, tài nguyên thiên
nhiên. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ được giao tăng
cường giám sát đối với Tổng công ty, công ty nhà nước trong việc quản lý, sử
dụng các nguồn lực được Nhà nước giao; giám sát việc thực hiện trách nhiệm
của đại diện Chủ sở hữu tại Tổng công ty, công ty nhà nước trong việc quyết
định đầu tư, bảo lãnh vay, phê duyệt chủ trương mua, bán, vay, cho vay, thuê và
cho thuê theo thẩm quyền đã được quy định tại Nghị định số 132/2005/NĐ-CP
về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Chủ sở hữu nhà nước đối với công ty
nhà nước; giám sát việc ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế ký kết trong
đầu tư xây dựng, sản xuất - kinh doanh và về chi phí quản lý doanh nghiệp của
công ty nhà nước.
Đối với sản xuất và tiêu dùng của nhân dân, các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, cán
bộ, công chức, viên chức về ý thức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sản
xuất và tiêu dùng, dành nguồn lực đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Khuyến
khích nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động mua công trái xây dựng Tổ
quốc, trái phiếu xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội; các phong trào
13
đền ơn đáp nghĩa. Triển khai cuộc vận động thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
trong các đoàn thể, tổ chức quần chúng; các thôn, xóm, ấp, bản, làng, cụm dân
cư; tập trung vào việc xây dựng nếp sống mới, xoá bỏ các hủ tục lạc hậu, gây
lãng phí. Phê phán các biểu hiện xa hoa lãng phí trong xã hội; đưa kết quả thực
hành tiết kiệm chống lãng phí thành nội dung xem xét đánh giá cán bộ, công
chức, viên chức và thành viên của mỗi tổ chức.
1.4. Sự cần thiết phải thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong
hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
KTNN ra đời trên cơ sở Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính
phủ nhằm thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính công
trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi. Sự hình thành và phát triển của KTNN là
một tất yếu khách quan góp phần đảm bảo phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn
lực tài chính nhà nước và tài sản công một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả,
ngăn ngừa các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí NSNN và tài sản công.
Theo Nghị định số 70/CP, KTNN có chức năng giúp Chính phủ thực hiện
kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo
cáo quyết toán của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế
Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do
NSNN cấp. KTNN có nhiệm vụ xây dựng chương trình, kế hoạch hàng năm
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình, kế
hoạch đó; định kỳ báo cáo thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm toán lên Thủ
tướng Chính phủ. KTNN có con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do
NSNN cấp. KTNN được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất.
Sau khi được thành lập, theo Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của
Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN
và Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động của KTNN thay thế cho Nghị định số 70/CP. Theo Nghị định
93/2003/NĐ-CP, vị trí và chức năng của KTNN đã được thể hiện rõ ràng hơn:
“KTNN là Cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng kiểm toán, xác nhận
tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán NSNN các cấp, báo cáo tổng
14
quyết toán NSNN; báo cáo quyết toán, báo cáo tài chính của các cơ quan, đơn
vị tổ chức có sử dụng NSNN; kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế
trong việc quản lý, sử dụng NSNN và tài sản công theo kế hoạch kiểm toán hàng
năm được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và các nhiệm vụ kiểm toán đột xuất
do Thủ tướng Chính phủ giao hoặc do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu
cầu…”. Với sự ra đời của Nghị định 93/2003/NĐ-CP, KTNN đã xây dựng được
một hệ thống tổ chức bộ máy tương đối hoàn chỉnh từ Trung ương đến các khu
vực và từng bước được củng cố hoàn thiện để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao.
Mặc dù có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định sự ra đời và phát
triển của KTNN nhưng những quy định trong các văn bản dưới luật trên đã hạn
chế về địa vị pháp lý, tổ chức và hoạt động của KTNN và đặt ra yêu cầu cấp
bách phải ban hành một Đạo luật về KTNN. Ngày 14/6/2005, Quốc Hội đã
thông qua Luật KTNN và Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. Đây là
văn bản có giá trị pháp lý cao nhất hiện nay quy định về tổ chức và hoạt động
của KTNN, tạo cơ sở cho một giai đoạn phát triển mới của KTNN.
Theo Luật KTNN, địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và hệ thống tổ
chức của Cơ quan KTNN được xác định như sau:
Về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của KTNN, KTNN là cơ quan
chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt
động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. KTNN có chức năng kiểm toán BCTC,
kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động với mỗi cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền, tài sản Nhà nước.
KTNN có các nhiệm vụ sau: quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và
báo cáo với Quốc hội, Chính phủ trước khi thực hiện; tổ chức thực hiện kế hoạch
kiểm toán hàng năm và thực hiện nhiệm vụ kiểm toán theo yêu cầu của Quốc hội,
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; xem xét, quyết
định việc kiểm toán khi thường trực HĐND, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương có yêu cầu; trình ý kiến của KTNN để Quốc hội xem xét, quyết định
dự toán NSNN, quyết định phân bổ NSTW, quyết định dự án, công trình quan
15
- Xem thêm -