Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chuyên ngành kinh tế Thảo luận ngân hàng thương mại ngân hàng việt nam nên chuẩn bị gì cho hội nhập (...

Tài liệu Thảo luận ngân hàng thương mại ngân hàng việt nam nên chuẩn bị gì cho hội nhập (2)

.DOC
15
34
119

Mô tả:

Thảo luận Ngân Hàng Thương Mại Nhóm 1 – ca 2  • • • • • • Cao Xuân Tuấn © Phạm Thị Tuyết Đỗ Nam Phan Tuấn Nam Trịnh Bảo Ngọc Vương Thị Hồng Thuỷ  • Ngô Thị Ngân • Lê Anh Quỳnh • Nguyễn Thị Quỳnh Trang • Lê Thị Thanh Nhàn • Nguyễn Hoàng Minh • Nguyễn Việt Tiến 1. Ngân hàng Việt Nam nên chuẩn bị gì cho hội nhập ? Bài Làm 1 *Hội nhập kinh tế quốc tế: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam Ngày nay, toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Đại diện cho xu thế toàn cầu hóa này là sự ra đời và phát triển của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việt Nam là quan sát viên của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại) và chính thức nộp đơn gia nhập WTO ngày 4/1/1995. Ngày 22/8/1996, Việt Nam đã gửi Bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam tới WTO. Tháng 7/1998, Việt Nam tiến hành phiên họp đa phương đầu tiên tới Nhóm công tác về minh bạch hóa các chính sách kinh tế thương mại. Cho tới nay, Việt Nam đã thực sự hoàn tất về cơ bản giai đoạn minh bạch hóa chính sách và đang ở giai đoạn đàm phán rất quan trọng về mở cửa thị trường một cách toàn diện. Gia nhập WTO đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho Việt Nam, điều này được thể hiện ở các điểm sau đây: Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế. Ví dụ như sự đối xử tối huệ quốc (MFN) không điều kiện, thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy việc thâm nhập thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các nước, sự đối xử theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và củng cố cải cách kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, các Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay đã đem lại cho Việt Nam các lợi ích như: Đẩy mạnh thương mại và quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO và đảm bảo nâng cao vai trò quan trọng của Việt Nam trong các hoạt động kinh tế và chính trị toàn cầu như là một thành viên của WTO. Thứ hai, gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Việc bãi bỏ Hiệp định đa biên (MFA) về hàng dệt sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Các nhà xuất khẩu Dệt -May Việt Nam sẽ được đảm bảo trong vòng 10 năm sau khi trở thành thành viên của WTO, đồng thời, các nước nhập khẩu sẽ không có các hạn chế MFA đối với hàng dệt may của Việt Nam. 2 Đối với các mặt hàng nông sản, là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu mặt hàng này hơn vì hạn ngạch nhập khẩu gạo và các nông sản khác sẽ được thay thế bằng thuế và thuế sẽ phải được cắt giảm theo Lộ trình quy định của WTO. Việt Nam có lợi nhiều khi các thị trường gạo mở cửa, đặc biệt là các thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. So với các nước đang phát triển khác, Việt Nam sẽ có lợi hơn từ các Hiệp định của Vòng Uruguay vì theo quy định của WTO, hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển sang các nước phát triển thường không phải chịu thuế hoặc thuế thấp. Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế, sẽ rất có lợi từ quy định này. Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa trong nước, Việt Nam còn tận dụng được cơ hội từ nhập khẩu như lựa chọn nhập các loại hàng hóa có kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến để nhanh chóng phát triển các ngành có công nghệ cao, ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới. Thứ ba, Việt Nam sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận các quy tắc công bằng và hiệu quả để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng sẽ có lợi vì sẽ nhận được một số ưu đãi đặc biệt như được miễn trừ sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng hóa thuộc loại cạnh tranh, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm. Thứ tư, Việt Nam sẽ có lợi gián tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách thương mại và các bộ luật của Việt Nam cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế. Các quy định của WTO sẽ loại bỏ dần những bất hợp lý thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Thứ năm, Việt Nam sẽ có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới… của nước ngoài. Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động tích cực như: tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản 3 xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, phục vụ khách hàng… Thứ sáu là, nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tự do hóa thương mại của WTO sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của các nước thành viên dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Điều này gây sức ép buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận mức độ cạnh tranh khốc liệt, làm cho họ trở nên năng động hơn trong việc tạo sản phẩm mới, cải tiến các dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm… Bên cạnh những cơ hội đó, Việt Nam đồng thời cũng phải đương đầu với các thách thức sau khi gia nhập WTO. Bởi lẽ, so với thế giới, Việt Nam còn là một trong những nước nghèo với mức GDP đạt 372 USD/người/năm, hệ thống chính sách kinh tế-xã hội đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý… có sự chênh lệch lớn so với các nước phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam còn phải thực thi đầy đủ các cam kết của mình, đặc biệt là các cam kết trong một số lĩnh vực như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, các biện pháp đảm bảo thương mại công bằng, an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tễ, kiểm dịch động thực vật và hàng rào kỹ thuật thương mại…, nên việc thực thi sẽ rất khó khăn. Điều này không chỉ yêu cầu Việt Nam phải thông qua các luật lệ, quy định phù hợp với WTO và nền kinh tế thị trường, mà còn đòi hỏi tình hình thực tiễn phải đáp ứng được các yêu cầu của WTO. Cụ thể, Việt Nam phải nâng cao đáng kể năng lực cho các cơ quan có liên quan cũng như thay đổi cơ bản về quản lý và tổ chức, đầu tư đáng kể cho nguồn nhân lực, hợp lý hóa công tác tổ chức thương mại và phân bổ ngân sách. Nếu không, sẽ phát sinh hai vấn đề: Thứ nhất, Việt Nam không thể thực hiện các nghĩa vụ WTO của mình và thứ hai là Việt Nam không thể tận dụng được hết các cơ hội khi gia nhập WTO, từ đó sẽ dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng, có thể gây tổn hại cho nền kinh tế. Để sớm đạt mục tiêu gia nhập WTO nhằm mở rộng thị trường cho hàng hóa, doanh nghiệp Việt Nam được đối xử bình đẳng, thu hút vốn và công nghệ, đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ đồng bộ của tất cả các bộ, các ngành từ khâu chuẩn bị đàm phán và đổi mới cơ chế chính sách cho phù hợp với các cam kết quốc tế, đến sự chuẩn bị cho nền kinh tế sẵn sàng đương đầu với các thách thức, sự vươn lên vượt bậc của các doanh nghiệp với sự hỗ trợ của Nhà nước và sự tranh thủ thái độ thiện chí của các nước thành viên WTO để đưa ra những yêu cầu hợp lý phù hợp với điều kiện Việt Nam. 4 * Theo các cam kết, khi gia nhập WTO, lĩnh vực ngân hàng sẽ được mở cửa dần theo lộ trình 7 năm. Ngành ngân hàng sẽ có những thay đổi cơ bản khi các tổ chức tài chính nước ngoài có thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng Việt Nam. Đặc biệt, việc xuất hiện các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam sẽ làm thay đổi mạnh cơ cấu thị phần. Không phải chờ đến khi trở thành thành viên WTO, ngay từ 2006, trong lĩnh vực ngân hàng, Việt Nam phải gỡ bỏ dần các hạn chế về tỷ lệ tham gia cổ phần của các định chế tài chính nước ngoài theo cam kết trong Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ. Đến năm 2008, Việt Nam sẽ phải “mở” toàn bộ các quy định về việc khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các ngân hàng nước ngoài theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác thương mại dịch vụ (AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN. Tất cả những điều này đang gây nên một sức ép lớn đối với hệ thống ngân hàng trong nước, buộc các Ngân hàng phải tăng tốc thực hiện các kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh để ngân hàng có thể đối mặt với những thách thức sống còn. => Giải pháp quan trọng nhất để các ngân hàng Việt Nam hội nhập thành công là đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá. Đây là một định hướng rất rõ ràng và cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Trên bình diện chung, việc gia nhập WTO chắc chắn sẽ có những khó khăn nhưng các ngân hàng Việt Nam có thể chịu đựng được vì trong một thời gian dài, hệ thống ngân hàng (NH) Việt Nam cũng đã được Chính phủ thực hiện cải cách, tăng cường năng lực tài chính, xây dựng các cơ sở pháp lý cho ngân hàng phát triển. Đó là sự chuẩn bị cho giai đoạn hậu WTO. Đồng thời, cũng phải thấy rằng hệ thống NH hiện nay so với thời kỳ đầu đổi mới có bước tiến khá dài. Hiện nay, hệ thống NH thương mại cổ phần (TMCP) đã được sắp xếp lại, NH yếu cho sáp nhập - giải thể, còn lại những ngân hàng đáp ứng đủ yêu cầu. Hệ thống NH thương mại quốc doanh cũng được tạo điều kiện phát triển. Bên cạnh đó, chúng ta có một điều kiện thuận lợi khách quan là "chiến đấu trên sân nhà", NH Việt Nam của người Việt Nam. Sau những khó khăn ban đầu, các NH sẽ có những biện pháp thích nghi sớm. + Điều lo lắng nhất của các NH Việt Nam khi bước vào hội nhập là xuất phát điểm thấp, nhất là quy mô tài chính nhỏ bé trung bình chỉ khoảng 20 - 250 triệu USD. Vậy các NH làm sao đề khắc phục được điểm yếu này? Quy mô nhỏ đúng là một khó khăn nhưng chúng ta đã có biện pháp. Với những biện pháp của Chính phủ như cổ phần hoá (CPH) thì năng lực tài chính NH sẽ tăng lên. Hiện nay, như chúng ta thấy, cổ phiếu của NH rất đắt hàng và có giá khá cao, điều này cho thấy người ta sẵn sàng bỏ tiền vào đầu tư cho ngân hàng và như thế việc nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng thì đã có giải pháp, có hướng đi. Cái quan trọng là tổ chức thực hiện để phương án đó sớm thành hiện thực thì vấn đề năng lực tài chính sẽ được giải quyết. 5 Điều chúng ta lo nhất là không có hướng đi, lo nhất là trông chờ vào ngân sách nhưng bây giờ hướng đi rất rõ ràng. Hướng đi này cách đây 5 năm không ai dám nghĩ đến, nhưng bây giờ đã được khẳng định và đang được đẩy mạnh thực hiện. Bước đầu việc CPH ngân hàng tại Vietcombank tốc độ chậm, một phần là do đây là bước đi đầu tiên còn gặp nhiều khó khăn nhưng chắc chắn trong thời gian tới Nhà nước sẽ có những biện pháp để khẩn trương CPH các NH. Ngoài hai ngân hàng được chọn CPH thí điểm, các NH khác rất ủng hộ và rất mong muốn CPH như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) cũng đã có những bước chuẩn bị rất chủ động. + Chất lượng hoạt động của NH Việt Nam hiện nay cũng là một điểm yếu. Điều này sẽ là một thách thức lớn khi thời điểm các ngân hàng nước ngoài được tự do kinh doanh tại Việt Nam đã đến gần? Hệ thống các NH thương mại Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn dựa vào tín dụng mà đây lại là hoạt động nhiều rủi ro. Trong khi đó, hoạt động dịch vụ tỷ trọng còn thấp, nếu so với ngân hàng nước ngoài thì yếu hơn mà chúng ta biết kinh doanh dịch vụ thì rủi ro rất ít thậm chí là không có. Đây thực sự là một điểm yếu mà NH Việt Nam phải cải tiến. Vì vậy, các NH Việt Nam phải nâng tỷ lệ dịch vụ của mình lên cao hơn nữa để giảm rủi ro, hơn nữa khi dịch vụ ngân hàng càng phát triển thì các NH càng có điều kiện thu hút vốn hậu thuẫn cho hoạt động tín dụng. Công bằng mà nói thì so với thời kỳ đầu đổi mới thì dịch vụ ngân hàng Việt Nam cũng đã phát triển khá rồi nhưng so với yêu cầu thì còn non yếu. Tuy nhiên, để dịch vụ ngân hàng phát triển thì cần có một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh. Bởi vì không thể cứ mở dịch vụ thoải mái được. Ví dụ, ở nước ngoài, dịch vụ séc người ta có hẳn Luật séc để quản lý. Nói như thế để thấy, để phát triển cần tạo ra một nền tảng pháp lý cho NH Việt Nam cho mở rộng các dịch vụ. Bên cạnh đó cần đáp ứng các điều kiện về khoa học kỹ thuật, lực lượng cán bộ và trình độ quản lý. + Nói về công nghệ NH, cũng còn nhiều vấn đề. Chỉ riêng chuyện hệ thống ATM các mạnh phát triển dịch ngân hàng đến nay vẫn chưa Đẩy NH nước ngoài ngay vụ để cạnh tranh với các trên sân nhà. (ảnh minh họa: Mekong Housing Bank) kết nối được với nhau cũng cho thấy có nhiều cản trở khi áp dụng công nghệ? 6 Việc hệ thống ATM các NH mãi không kết nối được với nhau cũng hơi ấu trĩ về mặt nhận thức. Hiện nay, chúng ta thấy, có một chỗ đặt mấy máy ATM của các ngân hàng khác nhau nhưng thẻ ngân hàng nào chỉ dùng cho ngân hàng ấy, tại sao không liên kết, thay vì một chỗ đặt nhiều máy thì chỉ cần một máy nhưng chấp nhận nhiều thẻ của các NH khác nhau thì sẽ rất tiện lợi và tiết kiệm. Các NH ra sức mở rộng mạng lưới của mình mà không liên kết là một sự lãng phí và nảy sinh nhiều vấn đề như đẩy giá thuê mặt bằng lên cao, mỗi NH một hệ thống rất lãng phí. Các NH hàng phải liên kết lại, trong đó cần vai trò một "nhạc trưởng" đó chính là NHNN và Hiệp hội NH. Tuy nhiên đầu tư cho công nghệ NH cũng có cái khó, bởi vì để có công nghệ tốt thì phải đầu tư, đầu tư thì phải đòi hỏi năng lực tài chính tốt và đây chính là cái khó của NH. * NGÂN HÀNG VIỆT NAM VỚI TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. 1. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế - xu thế tất yếu. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, các mối quan hệ kinh tế – xã hội giữa các quốc gia và khu vực từng bước được hình thành. Những mối quan hệ kinh tế – xã hội này ngày càng phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa, thể hiện ở sự gia tăng về qui mô trao đổi hàng hóa, dịch vụ, lưu chuyển vốn và chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia và khu vực, dẫn đến phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế thế giới. Trong quá trình toàn cầu hóa, các tổ chức khu vực và toàn cầu đã từng bước được hình thành và củng cố, đưa ra những qui chuẩn nhằm điều phối các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nhiều lĩnh vực khác, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực; đồng thời đề ra những biện pháp phòng ngừa và giải quyết khó khăn trong trường hợp cần thiết, giữ sự ổn định tương đối của quá trình toàn cầu hóa. Nguyên nhân chủ yếu của xu thế toàn cầu hóa là sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm tăng các mối liên kết sản xuất, kinh doanh, trao đổi công nghệ giữa các quốc gia và doanh nghiệp trên phạm vi toàn cầu. Ngược lại, toàn cầu hóa cũng là điều kiện cần thiết để triển khai những tiến bộ về công nghệ, kỹ thuật, đặc biệt những ngành cần sự phối hợp của nhiều quốc gia nhằm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Việc gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế sẽ giúp các quốc gia thành viên tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ và những ưu đãi để phát triển kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và tránh được những khó khăn thách thức trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, toàn cầu hóa kinh tế cũng sẽ làm nóng lên bầu không khí cạnh tranh quốc tế giữa các quốc gia và giữa các doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng bất ổn về việc làm của người lao động, đôi khi gây tổn thất lớn về tài chính – tiền tệ mà hậu quả tiếp theo có thể là những biến động về chính trị – xã hội. Đây chính là nguyên nhân của làn sóng phản đối toàn cầu hóa tại các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển. 7 Để tránh những ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa, mỗi quốc gia phải đổi mới quan điểm phát triển, phải thay đổi cơ chế chính sách và những biện pháp điều tiết vĩ mô theo hướng vừa đảm bảo lợi ích và mục tiêu của các quốc gia có liên quan vừa đảm bảo yêu cầu tự vệ của mình. Chính sách này cũng phải được thay đổi theo thời gian và tình hình thực tế ở trong và ngoài nước. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của các quốc gia thành viên là phải thực hiện cải cách nhằm xây dựng một hệ thống quản lý kinh tế và cơ chế phòng ngừa rủi ro tài chính, công khai và minh bạch trong hoạt động tài chính – ngân hàng. 2. Ngành ngân hàng Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ý thức được những cơ hội và thách thức trong xu thế toàn cầu hóa, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tích cực tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động đối phó với những bất ổn về kinh tế – chính trị bên ngoài, thực hiện thắng lợi đường lối công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trong lĩnh vực Ngân hàng, các hoạt động trong thời gian qua đã thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ về hội nhập kinh tế mà trọng tâm là chủ động đàm phán để mở rộng các mối quan hệ quốc tế, cải tiến môi trường pháp lý theo lộ trình phù hợp với các cam kết song phương và đa phương, khắc phục những điểm yếu so với thông lệ quốc tế. 2.1. Thúc đẩy các mối quan hệ quốc tế về lĩnh vực ngân hàng. Với chức năng là cơ quan đại diện của Chính phủ Việt Nam tại các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế và là đầu mối quan hệ với Ngân hàng trung ương các nước, NHNN đã phối hợp với các bộ, ngành hữu quan trong việc xúc tiến đàm phán và đã ký kết được nhiều chương trình hỗ trợ tài chính từ các tổ chức quốc tế. Quan hệ song phương giữa NHNN với các cơ quan, tổ chức của nhiều nước đạt kết quả tích cực, trong đó có sự giúp đỡ tận tình của các tổ chức như Cơ quan phát triển Đức (GTZ), Cơ quan phát triển Pháp (AFD), Cơ quan phát triển quốc tế Thụy điển (SIDA), Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA), Cơ quan chuyển giao công nghệ tài chính Luxembourg (ATIF)... NHNN đã tích cực tham gia các hoạt động nhằm thúc đẩy và mở rộng hợp tác tài chính – ngân hàng với các tổ chức tài chính đa phương như ASEAN, APEC và đàm phán gia nhập WTO; chủ động thực hiện các các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng, đồng thời củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác song phương trên cơ sở các nghị định thư liên chính phủ, các hiệp định và thỏa ước hợp tác. a) Đàm phán gia nhập WTO Nhằm chủ động trong quá trình gia nhập WTO, NHNN đã xây dựng bản chào và phương án đàm phán đa phương cũng như song phương về dịch vụ ngân hàng, trả lời các câu hỏi liên quan đến lĩnh vực ngân hàng do các nước thành viên đưa ra để phục vụ cho việc cập nhật thông tin về chính sách thương mại dịch vụ của Việt Nam, làm cơ sở cho các phiên đàm phán . Đồng thời, NHNN đã xây dựng kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế của ngành ngân hàng với lộ trình phù hợp với các cam kết song phương và đa phương. Cho tới nay, phương án đàm phán cuối cùng về dịch vụ ngân hàng trong đàm phán gia nhập WTO đã được hoàn tất và nhiều vòng đàm phán song phương đã kết thúc, tạo cơ sở cho Việt Nam chủ động trong những vòng đàm phán tiếp theo. 8 b) Hợp tác ASEAN NHNN đã phối hợp với NHTW các nước ASEAN nghiên cứu xây dựng và tham gia Thoả thuận hoán đổi mới của ASEAN nhằm thúc đẩy hợp tác tiền tệ và hình thành cơ chế hỗ trợ lẫn nhau giữa các nước thành viên ASEAN khi gặp khó khăn về cán cân thanh toán; chủ trì và phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng cơ chế điều hành trong nước thực hiện thoả thuận hoán đổi này. NHNN cũng đã tiếp nhận các hỗ trợ kỹ thuật của ASEAN dưới hình thức đào tạo cán bộ và tư vấn về phát triển thị trường vốn, giám sát luồng vốn ngắn hạn, thống kê kinh tế vĩ mô, chống rửa tiền, chống tài trợ cho khủng bố, cơ chế cảnh báo sớm, v.v. NHNN đã thực hiện việc tổng hợp, cung cấp số liệu kinh tế, tiền tệ, cán cân thanh toán và xây dựng báo cáo tình hình kinh tế, hoạt động ngân hàng hàng năm cho Báo cáo Giám sát ASEAN. c) Hợp tác APEC Trong khuôn khổ hợp tác APEC, NHNN đã và tiếp tục xây dựng “chương trình hành động quốc gia” theo hướng rà soát, sửa đổi, xây dựng văn bản mới phù hợp với các cam kết quốc tế, xác định mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mở cửa đầu tư và thương mại của Việt Nam. Tại hội nghị Bộ trưởng tài chính lần thứ 10 tổ chức tại Thái Lan từ 3-5/9/2003, NHNN đã giới thiệu Ngân hàng Công thương Việt Nam tham gia ký kết “bản ghi nhớ giữa các tổ chức tài chính trực tiếp giao dịch với doanh nghiệp vừa và nhỏ về hợp tác tài chính và kỹ thuật” nhằm thúc đẩy liên kết và hợp tác tài chính APEC. NHNN cũng đã hoàn thành việc xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia năm 2004 về lĩnh vực ngân hàng trong khuôn khổ hợp tác APEC. d) Hợp tác ASEM Trong năm 2003, NHNN đã làm đầu mối tiếp đoàn chuyên gia tư vấn ASEM, UNDP vào làm việc với các vụ, cục của NHNN và các bộ, ngành liên quan về chống rửa tiền và tham gia góp ý cho Dự thảo báo cáo của các chuyên gia về “phân tích nhu cầu đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật trong khuôn khổ dự án chống rửa tiền của ASEM/ADB.” 2.2. Xây dựng và điều chỉnh các văn bản pháp lý về ngân hàng Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 5069/VPCP-TCQT ngày 21/11/2000 của Văn phòng chính phủ, NHNN đã tiến hành rà soát các văn bản pháp luật về lĩnh vực ngân hàng và đối chiếu với nội dung cam kết trong Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Trên cơ sở đó, trình Chính phủ kiến nghị Quốc hội đưa nội dung về xây dựng mới các văn bản qui phạm pháp luật phục vụ cho việc thực thi Hiệp định; sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh và bãi bỏ những văn bản pháp qui, cơ chế chính sách không phù hợp với các cam kết hội nhập; từng bước hoàn thiện khung pháp lý ngân hàng phù hợp với các cam kết song phương và đa phương, tạo điều kiện cho các NHTM Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng sức cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trên thị trường tài chính trong nước và ngoài nước. 9 2.3. Khắc phục những điểm yếu so với thông lệ quốc tế của khu vực ngân hàng trong nước Trong quá trình hội nhập và thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường trong nước, nhu cầu vốn đầu tư tăng mạnh. Do đó, gánh nặng tín dụng đổ dồn lên các NHTM, cả cho vay ngắn hạn và dài hạn, trong khi phần lớn nguồn vốn huy động chỉ có kỳ hạn dưới 1 năm. Nguyên nhân là do thị trường tài chính tại Việt Nam còn non trẻ, vai trò của các bộ phận thị trường và mối quan hệ giữa chúng còn mờ nhạt, nhất là thị trường chứng khoán. Điều này đòi hỏi phải có biện pháp nâng cao hiệu lực của các công cụ chính sách tài khoá đối với sự phát triển của thị trường tài chính, đảm bảo cho mỗi phân đoạn thị trường thực hiện chức năng riêng đặc thù của mình và cùng chia sẻ rủi ro, tăng dần hiệu quả và tính an toàn của hệ thống tài chính. Theo đó, thị trường chứng khoán đảm nhận chức năng đầu tư dài hạn dưới dạng phát hành trực tiếp các loại giấy tờ có giá ra công chúng; các NHTM thực hiện chức năng cho vay ngắn hạn với những món vay không lớn và thực hiện chức năng của ngân hàng đa năng trên thị trường tiền tệ. Cần phải tăng cường vai trò của NHNN trong việc dự báo trạng thái vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng, tăng cường sự phối hợp giữa NHNN và Bộ Tài chính trong việc điều hành thị trường tài chính nhằm đảm bảo chất lượng và chủng loại của các loại chứng khoán phát hành theo đúng những qui chuẩn của thị trường tài chính quốc tế. Đồng thời, giảm dần sự can thiệp của Chính phủ thông qua tín dụng chỉ định, qua đó giảm thiểu gánh nặng lên ngân sách nhà nước cả đối với các NHTM và DNNN. Hoàn thiện cơ chế chính sách đối với hoạt động thanh tra ngân hàng, làm cơ sở để đổi mới căn bản công tác thanh tra, giám sát, nâng cao năng lực giám sát vĩ mô và vi mô của của NHNN. Theo đó, thanh tra NHNN chủ yếu thanh tra, giám sát các NHTM tại Hội sở chính, chỉ trong trường hợp đặc biệt mới thanh tra tại một số chi nhánh; thực hiện thanh tra pháp nhân đối với các TCTD; tăng cường thanh tra chất lượng tín dụng, bảo lãnh, chất lượng quản lý, điều hành và hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ của các TCTD; phối hợp chặt chẽ giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, từng bước đưa hoạt động giám sát từ xa trở thành nội dung chính trong hoạt động thanh tra, giám sát đối với các TCTD. Từng bước thực hiện phân loại tín dụng, trích dự phòng rủi ro, hạch toán kế toán ... theo các chuẩn mực quốc tế để đảm bảo an toàn hoạt động cho từng TCTD và cả hệ thống. Trên cơ sở đó minh bạch hóa hoạt động tiền tệ – tín dụng – ngân hàng, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho tất cả các các tổ chức tín dụng thuộc mọi loại hình sở hữu. Đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại các TCTD theo hướng tiếp tục xử lý nợ tồn đọng theo chương trình của Chính phủ về tái cơ cấu các TCTD, thực hiện những biện pháp thích hợp về tăng vốn điều lệ của các TCTD nhằm nâng cao năng lực tài chính và đảm bảo tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% theo chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, nâng cao năng lực quản 10 lý điều hành của các TCTD, bố trí lại tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ tại các TCTD, đảm bảo cho các tổ chức này chịu sự điều hành trực tiếp của cấp quản lý cao nhất nhằm phát huy tính độc lập và trách nhiệm trong kiểm tra, kiểm toán các lĩnh vực hoạt động của TCTD; chủ động nâng cao chất lượng và loại hình dịch vụ, tìm kiếm khách hàng, thực hiện tốt chức năng phân bổ các nguồn lực tài chính (từ trong nước và từ nước ngoài) cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn, hiệu quả cho toàn hệ thống ngân hàng. Việc khắc phục những điểm yếu kém cơ bản nêu trên cùng với việc triển khai các cải cách về mặt chính sách sẽ tạo điều kiện cho hệ thống Ngân hàng Việt Nam hội nhập một cách nhanh chóng và vững chắc vào tiến trình kinh tế quốc tế. Các giải pháp đẩy mạnh hội nhập quốc tế NH tại Việt Nam Để thực hiện cam kết theo Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đề ra, từng bước đàm phán song phương đàm phán gia nhập WTO, hội nhập quốc tế của ngành NH đặt ra những yêu cầu thách thức để thực hiện chính sách mở cửa lĩnh vực dịch vụ NH song song với quá trình tăng cường cải cách hệ thống NH nhằm giải quyết nhu cầu về vốn cho nền kinh tế cần phải tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản sau: Thứ nhất, nhanh chóng xây dựng chiến lược, chiến thuật thích hợp để đảm bảo cho quá trình hội nhập ngân hàng thành công, mang lại lợi ích thật sự cho nền kinh tế Việt Nam. Thứ hai, xây dựng môi trường pháp lý ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế Việt Nam và hệ thống NH phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế. - Tiến hành bước đầu rà soát, đối chiếu các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam để xây dựng văn bản pháp luật cho phù hợp với các quy định cam kết theo yêu cầu thực hiện Hiệp định thương mại Việt Mỹ và các cam kết quốc tế của WTO. - Từng bước xoá bỏ các cơ chế bao cấp, bảo hộ đối với các NHTM Việt Nam đồng thời nới rộng dần các hạn chế đối với NH nước ngoài đi đôi với củng cố, lành mạnh hoá các NHTM Việt Nam chính sách hiện hành - Xây dựng các khung pháp lý đảm bảo sân chơi bình đẳng, an toàn cho các loại hình NHTM trên lĩnh vực tín dụng, dịch vụ ngân hàng, đầu tư và các nghiệp vụ tài chính khác trong trong giai đoạn 2001-2004. Từ năm 2004 đến 2005, tiến hành nới lỏng thủ tục cấp giấy phép cho các NH nước ngoài mở chi nhánh và hoạt động tại Việt Nam giảm bớt các hạn chế về hoạt động NH nước ngoài trên thị trường trong nước như bổ sung khung pháp lý về hoạt động của NH nước ngoài tại Việt Nam được cầm cố thế chấp bất động sản, được phép huy động tiền gởi, và thực hiện các dịch vụ NH. 11 -Từng bước thiết lập và áp dụng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về an toàn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ- NH như: chuẩn mực về tỉ lệ an toàn trong hoạt động NH, phân loại, trích lập và sử dụng dự phòng bù đắp rủi ro, bảo hiểm tiền gửi, phá sản TCTD... thông qua việc tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản để môi trường pháp lý về hoạt động NH phù hợp với thông lệ quốc tế. Thứ ba, nâng cao vai trò của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ. - Hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp quá sâu của chính phủ các cơ quan, tổ chức đối với các hoạt động của NHNN. - Tiếp tục hoàn thiện các công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chuyển từ kiểm soát trực tiếp sang gián tiếp. -Đẩy mạnh và phát triển thị trường liên NH : Từng bước hoàn thiện hệ thống thị trường tiền tệ thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên NH về nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các công cụ tài chính của thị trường này, đặc biệt là các công cụ phái sinh như: forward, swap, option, các giao dịch phòng tránh rủi ro về tỷ giá, lãi suất; tập trung xây dựng và hoàn thiện các quy chế cho thị trường tiền tệ. Mở rộng thành viên tham gia giao dịch trên thị trường cho tất cả các TCTD kể cả các chi nhánh lớn của các NHTM quốc doanh, NHCP, NHLD chi nhánh NH nước ngoài đều có thể tham gia bình đẳng trên thị trường liên NH. Bổ sung và đa dạng hóa các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường như tín phiếu kho bạc nhà nước, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu nhằm từng bước tạo tiền đề thuận lợi cho các NHTM khai thác vốn trên thị trường tiền tệ nhanh chóng và hiệu quả giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn nhằm đáp ứng nhu cầu cân đối nguồn vốn để cho vay. Thứ tư, tiếp tục cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. - Các NH tiếp tục đẩy mạnh việc chấn chỉnh củng cố hệ thống ngân hàng, kiện toàn các NHTM NN, sắp xếp lại các NHTMCP theo đề án của Chính phủ và NHNN Việt Nam đã đưa ra trong giai đoạn 2001-2005. Tiến hành giải thể hoặc sáp nhập các NH yếu kém, mất khả năng thanh toán, chất lượng tín dụng thấp, khả năng sinh lời thấp và trình độ quản lý không đảm bảo yêu cầu an toàn và phát triển, tiến hành giám sát đặc biệt đối với các NH có tình trạng nợ xấu nghiêm trọng. Từ năm 2001 đến năm 2005, hệ thống NHTMCP sẽ được sắp xếp lại đảm bảo vững mạnh, an toàn, hiệu quả với số lượng các NHTMCP sẽ giảm xuống còn khoảng 25 NHTMCP chủ yếu tăng về năng lục tài chính và quy mô. - Tăng vốn điều lệ NHTM nhằm nâng cao năng lực tài chính ngân hàng nhằm đạt tỷ lệ an toàn trên vốn là 8% theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nếu không đạt tỷ lệ an toàn 8% thì các NHTM đó sẽ bị đưa vào diện “kiểm soát đặt biệt ” sẽ gây bất lợi cho các NH, cụ thể là: + Trong điều kiện ngân sách hạn chế, để tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN, ngoài việc Chính phủ xem xét cân đối Ngân sách cấp vốn bổ sung cho các NHTMNN, giải pháp trước mắt cho phép phát hành thêm cổ phiếu huy động vốn từ nội bộ nhân viên nhưng tối 12 đa không vượt quá 15% vốn điều lệ của NH. Phương án này có ưu điểm là tạo ra nguồn vốn kinh doanh mới khá nhanh chóng và giúp cho nhân viên NH gắn bó với NH hơn. + Cho phép các NHTMNN đánh giá lại tài sản theo đúng giá trị thực bởi vì khối lượng tài sản của NHTMNN rất lớn nhất là các NHTM tọa lạc những vị trí thuận lợi, với cách này sẽ làm tăng đáng kể vốn điều lệ của NHTMNN. + Việc trích lập các quỹ bổ sung (quỹ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính…) nên được trích lập trước khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp để các NHTM có điều kiện nâng vốn tự có nhanh hơn. + Khi các điều kiện kinh tế, xã hội thuận lợi, Chính phủ nên cho phép cổ phần hóa một số NHTM quốc doanh nhằm tăng vốn điều lệ, đồng thời góp phần cung cấp và đa dạng hàng hoá trên thị trường tài chính. Trong thời gian trước mắt để nắm vai trò chủ đạo ổn định tình hình tiền tệ Nhà nước nên nắm giữ cổ phần khá cao ở mức trên 40% và càng về sau khi hệ thống NHTM vững mạnh và thị trường tài chính ổn định thì Nhà nước chỉ cần nắm giữ khoảng trên 20% cổ phiếu, đảm bào Nhà nước vẫn có thể giữ vững được ổn định tiền tệ và điều tiết vốn trên thị trường. + Còn đối với các NHCP thì cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua với tỷ lệ tối đa không quá 15% vốn điều lệ của NH đó, mà vừa qua NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín và Đông A đã làm theo cách này và chủ trương nên được triển khai sang các NH khác. + Nghiên cứu nâng dần quy định về vốn pháp định đối với NHTM cổ phần và cho phép các NHTM có hoạt động kinh doanh tốt được phát hành thêm cổ phiếu mới và đưa cổ phiếu NH lên sàn giao dịch thị trường chứng khoán. - Tách bạch hoạt động tín dụng chính sách khỏi các NHTMNN, trên cơ sở thành lập NH chính sách để cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, tạo điều kiện cho các NHTMNN thực sự hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. - Thực hiện sắp xếp cơ cấu lại mô hình tổ chức, bộ máy quản lý, tiếp tục lành mạnh hóa tài chính của các NHTMNN, xử lý dứt điểm các khoản nợ đọng, nợ khoanh từ thời bao cấp. Cơ cấu lại các khoản nợ với sự hỗ trợ thêm kinh phí của Chính phủ, các tổ chức tài chính nước ngoài, làm sạch bảng cân đối tài sản từ đây dứt điểm đến năm 2005, hạn chế ngăn ngừa nợ xấu phát sinh khai thông vốn cho hệ thống ngân hàng. Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, giám sát từ xa và công tác kiểm toán nội bộ trên cơ sở hiện đại hoá hệ thống thông tin, chế độ báo cáo thống kê, triển khai mô hình cung cấp và dự báo thông tin. Thứ sáu, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn của NHTM kết hợp với đổi mới công nghệ thanh toán với những dịch vụ mới như Internet banking, phone banking... ,cải tiến chính sách lãi suất đa dạng tương ứng với những hình thức huy động, cho phép chuyển đổi dễ dàng giữa những hình thức huy động. Nâng cao chất lượng huy động vốn bằng cách cải tiến cung cách phục vụ khác hàng niềm nở đón tiếp khách hàng, bố trí thực hiện 13 thêm giờ hành chính đề thuận tiện cho khách hàng giao dịch với NH. Đẩy mạnh công tác Marketing nhằm nắm giữ khách hàng cũ và khéo léo thu hút khách hàng mới đến với NH bằng chất lượng dịch vụ không ngừng gia tăng. Thứ bảy, xây dựng thí điểm và đưa vào áp dụng mô hình tổ chức NHTM hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế. Tiến hành cơ cấu tổ chức lại và quản lý các NHTM theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ của một NH đa năng, thay thế dần cho việc quản lý theo chức năng và nghiệp vụ hiện nay, đồng thời nâng cao trình độ quản lý rủi ro, quản lý tài sản Nợ - tài sản có, và kiểm soát nội bộ, nhằm để tạo tiền đề xây dựng một số tập đoàn tài chính mạnh, có khả năng hoạt động như một NH quốc tế. Hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy hệ thống NH Việt Nam từng bước cải cách năng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới . Một hệ thống NH hữu hiệu trở thành kênh dẫn nhập vốn quan trọng và hàng đầu sẽ đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm cho nền kinh tế để đạt đến thành công của công nghiệp hoá và hiện đại hóa. * Hệ thống NHVN và các cam kết WTO: Đánh giá và triển vọng Ngày 13/5/2008, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Hệ thống Ngân hàng Việt Nam và các cam kết WTO: Đánh giá và triển vọng”. Tham dự Hội thảo có đại diện lãnh đạo một số Vụ, cục thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM), các Bộ, ngành và Viện Nghiên cứu hàng đầu trong nước. Hội thảo tập trung vào 6 nội dung chính là: Đánh giá tổng quan hệ thống Ngân hàng Việt Nam sau 1 năm gia nhập WTO; Tác động của việc gia nhập WTO đối với hệ thống ngân hàng và nền kinh tế Việt Nam; Kinh nghiệm quốc tế trong việc thực hiện các cam kết WTO; Kết quả thực hiện các cam kết WTO của hệ thống ngân hàng Việt Nam; Triển vọng của Hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong quá trình hội nhập và thực hiện các cam kết WTO; Đề xuất giải pháp nhằm thực hiện tốt các cam kết WTO. Sau hơn một năm gia nhập WTO, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đổi mới mạnh mẽ và sôi động. Thực hiện các cam kết WTO và đưa hệ thống ngân hàng Việt Nam hội nhập, NHNN đã không ngừng hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động ngân hàng; nhiều hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động ngân hàng đã được ban hành một cách đồng bộ; các cơ chế, chính sách về hoạt động ngân hàng ngày một hoàn chỉnh và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Việc điều hành chính sách tiền tệ đã được đổi mới linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Các công cụ gián tiếp điều hành chính sách tiền tệ đã được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái đã được áp dụng linh hoạt theo cơ chế thị trường. Hệ thống các NHTM Việt Nam cũng có bước phát triển mạnh mẽ cả về quy mô lẫn chất lượng dịch vụ, các sản phẩm, dịch vụ và công nghệ ngân hàng không ngừng được nâng cao. Điều này cho thấy định hướng phát triển kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng đang đi đúng hướng, phù hợp với các quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường. 14 Các ý kiến cũng nhận định triển vọng và tiềm năng phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam là rất khả quan. Mặc dù chịu những diễn biến bất lợi từ thị trường tài chính quốc tế, nhưng hệ thống ngân hàng Việt Nam về cơ bản vẫn phát triển an toàn, lành mạnh để đóng góp quan trọng vào thành tích tăng trưởng chung của nền kinh tế. Do đó, năm 2008 cũng là năm hứa hẹn nhiều cơ hội cho ngành ngân hàng tiếp tục gặt hái được nhiều thành công trong quá trình hội nhập WTO. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh cùng với sự cạnh tranh ngày một gay gắt hơn cũng tiềm ẩn những rủi ro mà hệ thống ngân hàng cần có những giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn. Để thực hiện tốt các cam kết WTO và tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng hội nhập thành công, NHNN cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của tổ chức tín dụng; quản lý chặt chẽ hơn hoạt động của các NHTM đảm bảo tính an toàn của hệ thống. Về phía các NHTM cần có các giải pháp cải thiện quy mô vốn, nâng cao chất lượng tín dụng, dịch vụ, công nghệ ngân hàng; các giải pháp về quản trị điều hành, quản trị rủi ro; các giải pháp đầu tư, xây dựng thương hiệu và mô hình tổ chức mạng lưới,... 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan