Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Thao luan ngan hang thuong mai

.DOC
7
37
66

Mô tả:

1)Ngành ngân hàng trong năm 2008 Ngành ngân hàng trong năm 2008 đã trãi qua nhiều biến động khó khăn. Lạm phát: Đầu năm phải đối mặt với lạm phát tăng cao (theo tính tóan sơ bộ lạm phát năm nay của Việt Nam là 24%) do đó việc thắt chặt tiền tệ đã gây khó khăn không nhỏ cho ngân hàng. Thứ nhất: họ phải tăng lãi suất vay vì thế cho nên phải tăng lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay quá cao khiến càng ít doanh nghiệp vay vốn, làm cản trở đến việc kinh doanh của ngân hàng. Thứ hai: Do lãi suất cao nên khả năng hoàn trả của các con nợ bị giảm sút, việc thu hồi nợ khó khăn hơn, các khoản nợ xấu gia tăng, làm tăng khả năng rủi ro của các ngân hàng. Thứ ba: Do lý do thứ hai nên các ngân hàng trở nên dè dặt trong việc cho vay vốn, tiền không được mang ra sử dụng lưu thông trở thành những khoản tiền vô ích, làm tăng chí phí cho ngân hàng. Cơn bão tài chính Mỹ: Gần cuối năm, ngành tài chính ngân hàng phải đón nhận tin cơn bão tài chính ở Mỹ. Nhưng có lẽ nó có ít tác động đến ngành ngân hàng Việt Nam mà nhiều khi còn là tin tốt. Tin tốt là vì: Khi nhìn thấy sự khủng hoảng của ngành ngân hàng tại Mỹ, các ngân hàng Việt Nam sẽ suy xét và nhìn nhận lại cách làm ăn của mình. Họ sẽ thận trọng hơn với các khoản cho vay của mình; họ sẽ tìm cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; họ sẽ đề phòng và miễn dịch với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là cao; họ sẽ tập trung vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có sự phát triển trong tương lai. Cạnh tranh giữa các ngân hàng: Đầu tiên là sự cạnh tranh các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài. Càng ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Lợi thế của họ là có nhiều vốn, có tiềm lực tài chính và quản lý. HSBC là ngân hàng nước ngoài tích cực nhất hiện nay. HSBC vừa được Ngân hàng Nhà nước chính thức cho phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Việc thành lập ngân hàng con sẽ cho phép HSBC mở rộng mạng lưới phân phối rộng hơn, tới các khách hàng hiện tại cũng như khách hàng mới. HSBC trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong nước sau khi nâng cổ phần sở hữu tại Techcombank từ 14,4% lên 20%. Điều này cho phép HSBC mở rộng sức ảnh hưởng và gia tăng tầm hoạt động của mình. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng đối với các ngân hàng nội. Cạnh tranh với ngân hàng trong nước: Điều này là hiển nhiên nhưng có xu thế mới đó là việc hợp tác của các ngân hàng nội. Việc rõ ràng nhất là “liên minh ATM”. Cầm thẻ ATM của ngân hàng Techcombank nhưng khi đến trạm rút tiền của ngân hàng Vietcombank bạn vẫn có thể rút tiền được. Điều này làm gia tăng tầm hoạt động, khả năng cạnh tranh, sức thu hút khách hàng hơn là những ngân hàng không nằm trong liên minh. Nhưng sự cạnh tranh dù là giữa nội – ngoại hay nội – nội vẫn là cần thiết. Vì như thế các ngân hàng sẽ không ngừng cải thiện, không ngừng gia tăng chất lượng dịch vụ, luôn luôn sáng tạo để làm thỏa mãn những đòi hỏi của đất nước, của người dân và các doanh nghiệp. Cạnh tranh với thị trường chứng khoán: Càng ngày chứng khoán càng trở nên lộ diện là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng về mặt huy động vốn trong dân. Trước kia chưa có chứng khoán thì người dân sẽ gửi tiền nhàn rỗi của mình vào các ngân hàng nhằm kiếm các khoản lợi tức. Nhưng nay, chứng khoán đã làm giảm lượng huy động vốn nhàn rỗi của các ngân hàng. Những người dân có tiền nhàn rỗi họ sẵn sàng lao vào đầu tư chứng khoán với hi vọng kiếm lời cao hơn là gửi tiền vào ngân hàng (tuy có rủi ro cao hơn). Bên cạnh đó, các doanh ngiệp ngoài kênh huy động vốn là vay mượn các ngân hàng họ còn có cách là phát hành cổ phiếu ra thị trường. Đấy cũng là một cách tốt để huy động vốn. Nói đến khó khăn thì cũng cần nhắc đến những thành tựu hay dấu hiệu khả quan mà ngành ngân hàng đã làm được trong năm nay. Trong năm nay, ngành ngân hàng phải chống chọi với lạm phát và cơn bão khủng hoảng tín dụng của Mỹ nên chưa có những bước phát triển như mong muốn. Dấu hiệu khả quan có thể nhận thấy ngay là góp phần cùng với ngân hàng trung ương hạn chế lạm phát một cách tích cực và hiệu quả. Những điểm cần khắc phục Cần mở rộng hơn nữa các chi nhánh ngân hàng. Hiện nay mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn. Tầm hoạt động còn hẹp. Điểm cần khắc phục ngay là hệ thống ATM. Còn quá ít các điểm rút tiền tự động, mỗi lần rút là cả một sự chờ đợi. Ngày nay, việc trả lương cho công nhân viên qua hệ thống ATM cho nên cần khắc phục chất lượng của hệ thống ATM, tránh sự chờ đợi và hết tiền trong lúc chờ đợi rút tiền. Phải có liên mình ATM rộng rãi hơn nữa. Có lẽ các ngân hàng trong nước cần hợp tác với nhau về vấn đề này nhiều hơn. Cần có cơ chế quản lý rủi ro. Bài học từ tài chính Mỹ có lẽ bài học đắt giá cho ngành ngân hàng. Lợi nhuận cao luôn đi kèm với rủi ro cao, bài học ngàn năm muôn thuở. Ngày nay, ngân hàng cũng tham gia vào thị trường bất động sản, chứng khoán và thị trường vàng. Quả thực đây là các thị trường có khả năng sinh lợi cao và thật khó mà bỏ qua nhưng đấy cũng là điểm cần quan tâm. Có lẽ cần có cơ chế quản lý hay giảm thiểu rủi ro. Các trường đại học về kinh tế chỉ mới có môn học về quản lý rủi ro nhưng vẫn chưa có một chuyên ngành về quản lý, hạn chế rủi ro. Có lẽ cũng cần suy xét về vấn đề này. Nếu ngành ngân hàng và các trường đại học tham gia cùng huấn luyện hay đào tạo sinh viên về quản lý và hạn chế rủi ro thì là tốt nhất. Các sinh viên này sau khi ra trường có thể làm việc tại ngân hàng nơi mà họ được chính các ngân hàng nay tham gia đào tạo. Dự báo cho ngành ngân hàng trong năm 2009 Động thái đầu tiên mà ngân hàng sẽ làm là giảm lãi suất cho vay, nới lỏng tiền tệ. Mà bằng chứng là các ngân hàng đang rục rịch giảm lãi suất khi lãi suất cơ bản giảm còn 13%. Với động thái này các doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiếp cận với vốn vay ngân hàng. Nhưng bên cạnh đó, các khoản vay sẽ được giám sát kỹ hơn do di chứng và bài học từ khủng hoảng Mỹ để lại. Qua cơn bão tài chính Mỹ vừa qua và các chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ và ngân hàng trung ương làm các ngân hàng nhỏ điêu đứng và sang năm 2009 này các ngân hàng nhỏ, lẻ, yếu kém sẽ bị sáp nhập. Sự sáp nhập này có các điều lợi sau:    Thứ nhất: Củng cố hệ thống ngân hàng trong nước. Thứ hai: Việc quản lý vĩ mô của chính phủ qua các ngân hàng sẽ dễ dàng hơn vì có ít các ngân hàng để quản lý hơn. Thứ ba: Tạo sức mạnh mới cho các ngân hàng sáp nhập, mở rộng về quy mô và tầm hoạt động. Các dịch vụ ngân hàng sẽ được củng cố, các ngân hàng sẽ chú trọng đến mảng bán lẻ hơn. Trong số đó, các dịch vụ cho vay chứng khoán, mua vàng, hay mua bất động sản sẽ được chú trọng và phát triển nhiều hơn. Bên cạnh đó sẽ có các dịch vụ chăm sóc khách hàng cá nhân tốt hơn. Mảng bán lẽ này sang năm 2009 sẽ là mảng đấu tranh quyết liệt nhất giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Sẽ có hàng loạt các dịch vụ mới được tung ra khi các mảng đầu tư lớn đang ẩn chứa nhiều rủi ro cao. Sang năm 2009 có thể các ngân hàng thương mại sẽ cùng ngân hàng trung ương tham gia vào việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Hiện nay, đồng USD đang lên giá so với đồng nội tệ (tức là 1 USD có thể đổi lấy nhiều VND hơn trước) mà như thế sẽ tác động đến xuất khẩu (1USD đổi lấy nhiều VND hơn vì thế người ta sẽ muốn xuất khẩu nhiều hơn để lấy ngoại tệ và khi quy đổi ra nội tệ để sử dụng thì sẽ có lợi hơn). Lúc này sẽ có nhiều ngoại tệ hơn trong lưu thông và do đó tỷ giá hối đoái sẽ giảm, lúc này cũng sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu. Vì vậy, ngân hàng trung ương cùng với ngân hàng thương mại sẽ góp tay vào việc bình ổn tỷ giá hối đoái trên thị trường. Lúc đầu sẽ có sự chênh vênh về tỷ giá hối đoái nhưng sau đó nó sẽ được bình ổn dần. Đối với những người muốn đầu cơ đồng USD thì có lẽ đây là thời điểm tốt. Năm 2009 là năm dè chừng các khoản cho vay của ngân hàng. Các ngân hàng sẽ không dễ dãi cho vay mà sẽ suy xét cẩn thận hơn. Chính điều này sẽ làm các ngân hàng thêm vững, đầu tư sẽ không dàn trãi mà tập trung, do đó khả năng lợi nhuận cũng khả quan, bên cạnh đó tránh những rủi ro không cần thiết. Năm 2009, giá xăng sẽ còn giảm nhẹ, sau đó thì bình ổn một thời gian dài. Đây là thời điểm tốt để các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển. Khi nói đến đầu tư thì người ta nghĩ ngay đến ngân hàng với các khoản vốn cho vay. Thời gian sắp tới các ngân hàng sẽ bận rộn với việc xem xét các khoản cho vay của mình và lợi nhuận sắp tới của ngân hàng sẽ được tăng cao. Có lẽ không rực rỡ nhưng khả năng thu hồi vốn sẽ cao và đồng tiền sẽ trở nên lỏng hơn. 2) Tính đến thời điểm này, hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có 30 ngân hàng, hình thành nên 36 chi nhánh cấp 1, 13 chi nhánh cấp 2, 86 phòng giao dịch, 8 Quỹ tiết kiệm; tổng cộng có 143 đầu mối TCTD và 28 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Các con số này phần nào cho thấy sự phát triển và không khí cạnh tranh khá sôi động của ngành ngân hàng. Tuy nhiên, năm vừa qua, ngành ngân hàng trên địa bàn tỉnh đã đối mặt với rất nhiều thách thức do khủng hoảng kinh tế tài chính trong nước lẫn trên thế giới. Một năm đầy khó khăn của ngành ngân hàng Doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng Năm 2008 được đánh giá là một năm đầy khó khăn và với ngành ngân hàng. Từ đầu năm đến nay, sự biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Việc tiếp cận được vốn tín dụng từ ngân hàng của các doanh nghiệp trở nên khó khăn hơn dẫn đến tâm lý không muốn trả các khoản nợ đến hạn từ phía khách hàng. Từ những khó khăn trên, làm cho dự nợ trên địa bàn có xu hướng giảm nhưng nhưng nợ xấu lại có dấu hiệu gia tăng. Cụ thể, dư nợ tăng cao trong 5 tháng đầu năm (đến 31/5/08 tăng 14,32% so với đầu năm), từ tháng 6 dư nợ có chiều hướng giảm dần. Tiến trình giải ngân vốn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân cơ bản là do tình hình kinh tế có nhiều biến động, hàng hóa tiêu thụ chậm, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế yếu. Do đó tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng trong năm 2008 thấp nhất trong vòng 5 năm qua, chỉ tăng 14,32% so với năm 2007 (Mục tiêu năm 2008 tăng 25-27%). Tỷ lệ dư nợ của khối TCTD quốc doanh là 49,91%, các ngân hàng cổ phần là 40,99%, ngân hàng liên doanh là 4,49%, ngân hàng chính sách xã hội là 2,89% và quỹ tín dụng nhân dân là 1,72%. Về chất lượng tín dụng, nợ quá hạn tính đến tháng 12 năm 2008 là 2.497 tỷ đồng, chiếm 9,06%, trong đó, nhóm nợ xấu là 886 tỷ đồng chiếm 3,14%, nhóm nợ có khả năng mất vốn là 231 tỷ đồng chiếm 0,85%. Nguyên nhân của việc nợ xấu tăng cao là do chủ trương thắt chặt tín dụng chống lạm phát, các ngân hàng đã cắt giảm hạn mức tín dụng. Đồng thời lãi suất tín dụng tăng cao, tình hình vay vốn của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn dẫn tới chi phí giá thành sản phẩm cao, lợi nhuận giảm, kèm theo đó là năng lực tài chính suy giảm, vốn luân chuyển chậm, không thực hiện đúng kế hoạch trả nợ ngân hàng dẫn tới nợ quá hạn tăng đột biến. Các doanh nghiệp khó khăn về tài chính đều gặp phải trở ngại trong việc thanh toán tiền hàng, việc thu tiền bán hàng chậm, doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn dẫn đến các ngân hàng phải điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ và chuyển nợ quá hạn vào các nhóm nợ thích hợp. Một số tổ chức tín dụng cho vay chưa khảo sát kỹ khách hàng, phương án khả thi, cho vay vốn sai mục đích, khách hàng kinh doanh không hiệu quả, có nguy cơ phá sản, ngân hàng khó thu hồi hoặc không thể thu hồi được vốn và lãi vay. Vượt qua khó khăn, giữ vững chỉ tiêu phát triển Tuy gặp rất nhiều khó khăn do các điều kiện khách quan, hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai vẫn phát triển, đặc biệt là trong các hoạt động dịch vụ. Dịch vụ thanh toán trên địa bàn phát triển nhanh với trên 400 ngàn tài khoản tiền gởi thanh toán của các TCKT và cá nhân. Bên cạnh các hình thức thanh toán truyền thống, dịch vụ thanh toán điện tử đã và đang phát triển mạnh, trở nên phổ biến hơn với các tiện ích nhanh chóng, chính xác, an toàn và bảo mật, đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong các quan hệ thương mại, thanh toán trong và ngoài nước. Dù gặp nhiều khó khăn, nhưng ngành ngân hàng trên địa bàn tỉnh vẫn phát triển tốt Các hệ thống thanh toán của ngành ngân hàng tiếp tục được ứng dụng công nghệ hiện đại hóa, tiên tiến theo hướng tự động hóa, mở rộng dịch vụ, phạm vi áp dụng và tăng nhanh tốc độ xử lý. Cuối tháng 11 năm 2008, hệ thống thanh toán liên ngân hàng giai đoạn 2 đã được vận hành chính thức, góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán, chu chuyển vốn trên địa bàn. Đến nay, toàn tỉnh có 35 ngân hàng mở tài khoản tại NHNN, trong đó 33 ngân hàng tham gia thanh toán bù trừ điện tử, 2 ngân hàng tham gia thanh toán tập trung. Trong năm 2008, hệ thống thanh toán đã thực hiện được 8.596 món chuyển tiền điện tử với số tiền là 1.634.834.572 tỷ đồng; 396.228 món thanh toán bù trừ với số tiền 570.552.390 tỷ đồng; 482 món thanh toán tập trung với số tiền 389.012.993 tỷ đồng. Đến cuối tháng 12 năm 2008, trên địa bàn tỉnh đã phát hành trên 18 ngàn thẻ cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước với tổng số thẻ phát hành đạt trên 481 ngàn thẻ, lắp đặt và đi vào hoạt động 191 máy ATM, 87 máy POS để thanh toán tiền mua hàng tại các siêu thị, nhà hàng. Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh trong năm đạt 2.750 triệu USD, lượng kiều hối chuyển về địa bàn Đồng Nai là 28.145 món với số tiền 103 triệu USD. Hoạt động ngân quỹ thu tiền mặt từ lưu thông đạt 182.368 tỷ đồng, tăng 80,37% so với năm 2007. Tổng lượng tiền mặt chi ra lưu thông đạt 178.075 tỷ đồng, tăng 75,45% so với năm 2007, bội thu 4.293 tỷ đồng. Kết quả, năm 2008, tổng lợi nhuận trước thuế của các tổ chức tín dụng trên địa bàn đạt 733 tỷ đồng, tăng so với năm 2007 là 12,77%, trong đó lợi nhuận từ dịch vụ là 212 tỷ đồng, tăng 52,52%.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan