Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chuyên ngành kinh tế Thảo luận môn phân tích thị trường tài chính phân tích các yếu tố tác động đến t...

Tài liệu Thảo luận môn phân tích thị trường tài chính phân tích các yếu tố tác động đến thị trường vốn (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ)

.DOC
35
130
96

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP BÀI THẢO LUẬN Phân tích thị trường tài chính NHÓM 1 & 2 CA 1 Danh sách nhóm 1: STT Họ và tên 1 Trịnh Thị Phương Anh 2 3 4 5 6 7 8 9 STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Nguyễn Hải Hà Nguyễn Thanh Hương Nguyễn Xuân Hiệp Phùng Thị Mai Huyền Hà Bảo Khánh Đoàn Việt Linh Lê Thị Ngọc Mai Phạm Trần Việt Linh Ghi chú Tổng hợp và làm pp Trái phiếu Trái phiếu Trái phiếu Cổ phiếu Cổ phiếu Trái phiếu Trái phiếu Trái phiếu Danh sách nhóm 2: Họ và tên Ghi chú Nguyễn Thị Hoàn Cổ phiếu Nguyễn Thị Châm Cổ phiếu NguyễnNgọc Khiêm Cổ phiếu Phí Thị Nam Cổ phiếu Lê Văn Chính CC quĩ Nguyễn Văn Định CC quĩ Nguyễn Thị Hoan CC quĩ Nguyễn Ngọc Hải CC quĩ Nguyễn Thị MinhHương CC quĩ Đặng Thị Lĩnh CC quĩ Lê Thị Sao Mai CC quĩ Đặng Viết Hưng CC quĩ Hoàn thành 9/10 9/10 9/10 6/10 9/10 9/10 6/10 8/10 9/10 Hoàn thành 1 Câu hỏi thảo luận Phân tích các yếu tố tác động đến thị trường vốn (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ) Nội dung thảo luận: A.Phân tích các yếu tố tác động đến thị trường cổ phiếu B. Phân tích các yếu tố tác động đến thị trường trái phiếu C. Phân tích các yếu tố tác động đến chứng chỉ quĩ. A.Các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường cổ phiếu Có rất nhiều yếu tố tác động đến thị trường chứng khoán nói chung và thị trường cổ phiếu nói riêng, nhưng vế cơ bản có thể chia chúng thành hai nhóm yếu tố là yếu tố kinh tế và yếu tố phi kinh tế: I. Các yếu tố kinh tế 1) Tăng trưởng kinh tế Khi nền kinh tế tăng trưởng thì hầu như các ngành các lĩnh vực đều bị ảnh hưởng. Và thị trường cổ phiếu cũng nằm trong số đó. Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển. Bởi khi đó, khả năng về kinh doanh có triển vọng tốt đẹp, nguồn lực tài chính tăng lên, nhu cầu cho đầu tư lớn hơn nhiều so với nhu cầu tích lũy, và như vậy, nhiều người sẽ đầu tư vào cổ phiếu. Ngược lại, khi nền kinh tế có xu hướng yếu đi thì giá cổ phiếu có xu hướng giảm. Tuy nhiên không phải thị trường cổ phiếu nào cũng tăng mà nó còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nữa. Việc giữ vững tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế trong nhiều năm liền có tác dụng giữ cho thị trường vốn ổn định, tăng cường niềm tin của nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, để có thể trông chờ vào một sự khởi sắc của thị trường thì chỉ có thể vào cuối năm khi các nhà đầu tư có thể dự đoán kết quả kinh doanh của từng doanh nghiệp. VD rõ nét là khi nền kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng năm 2008 giá cổ phiếu của hầu hết các TTCK trên thế giới đều giảm mạnh xuống đáy. Các chuyên gia kinh tế cho rằng TTCK thường diễn biến tăng giảm trước nền kinh tế khủng hoảng chừng vài tháng 2 2) Quan hệ cung cầu Trong kinh doanh, quy luật cung cầu luôn có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản phẩm, và đầu tư chứng khoán cũng không phải là một ngoại lệ. Thị trường cổ phiếu cũng chịu tác động từ quy luật cung cầu. William J. Oneil – một nhà đầu tư chứng khoán thành công tại Mỹ, là cha đẻ của phương pháp phân tích và lựa chọn cổ phiếu hiệu quả CAN SLIM, cho rằng cổ phiếu của các công ty đại chúng, có quy mô lớn, sản phẩm chất lượng không phải lúc nào cũng đáng để mua, bởi lượng cầu của những cổ phiếu này khá lớn, trong khi nguồn cung lại ít nên giá thường bị đẩy lên cao giả tạo, không phản ánh đúng giá trị thực tế của cổ phiếu cũng như rất khó sinh lợi nhuận lớn.Chính những cổ phiếu có số lượng lưu hành thấp trên thị trường mới có nhiều triển vọng và có khả năng tăng giá hơn so với các cổ phiếu có số lượng lưu hành lớn. Từ đó suy ra, cổ phiếu được các nhà quản trị hàng đầu nắm giữ với tỷ lệ lớn thường là những cổ phiếu có độ an toàn cao. Các nhà đầu tư nên so sánh tỷ số này ở công ty mình dự định đầu tư với tỷ số nợ bình quân ở các công ty trong cùng ngành, đồng thời phân tích thêm khả năng thanh toán để có đánh giá xác thực hơn về mức độ nợ của công ty. Về nguồn cung, thị trường cổ phiếu có thể bị ảnh hưởng bởi những yếu tố sau: Thị trường tập trung ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng từ việc phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (các đợt IPO). Các nhà đầu tư có nhiều cơ hội để lựa chọn những cổ phiếu tốt, các blue- chips trên sàn niêm yết không còn là yếu tố lựa chọn duy nhất. Thị trường cổ phiếu có thể sẽ có nhiều biến động. Cổ phiếu doanh nghiệp nhỏ sẽ có sự phân loại, chỉ có doanh nghiệp nào có kết quả kinh doanh tốt mới được quan tâm. Về phía cầu, thị trường cổ phiếu sẽ bị ảnh hưởng bởi một số nhân tố sau: Sự "ấm" lên của thị trường bất động sản đã làm giảm lượng vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán và thậm chí nó còn hút một phần vốn từ thị trường chứng khoán chuyển sang. Các nhà đầu tư có nhiều cơ hội để lựa chọn giữa hai thị trường này. Diễn biến thị trường cổ phiếu hiện bị tác động chủ yếu bởi quy luật cung cầu. Tuy nhiên, cầu cũng có loại thật và ảo. Cầu ảo dễ dàng được tạo ra bởi những nhà đầu tư nắm trong tay khối lượng cổ phiếu lớn hoặc tài khoản đầy tiền. Cầu ảo được tạo ra bằng những lệnh mua mà người đặt biết chắc chắn rằng lệnh đó không được khớp hoặc có khớp thì cũng chỉ được một khối lượng rất thấp. Với quy trình khớp lệnh định kỳ, lệnh nhập phải thông qua công đoạn thủ công tại sàn và trình tự ưu tiên khớp theo thời gian đặt lệnh. Nhà đầu tư có ý định tạo cầu ảo căn cứ vào diễn biến giao dịch để đặt lệnh sát giờ khớp, thường là trong đợt giao dịch thứ ba, đủ để lệnh được vào hệ thống nhưng không được khớp. Như vậy, khối lượng này sẽ trở thành dư mua nhưng lại không phản ánh đúng nhu cầu thị trường mà mang tính chất đổ thêm dầu vào lửa. Nhà đầu tư ít kinh nghiệm chỉ biết căn cứ vào khối lượng dư mua thông báo lên tới hàng trăm ngàn cổ phiếu để cho rằng cầu đang rất lớn nghĩa là giá sẽ còn tăng. Mánh này đặc biệt phát huy tác dụng trong thời điểm lượng bán quá ít và giá liên tục khớp mức trần."Anh ơi bao nhiêu thì mua được"? Đó là câu hỏi rất thường thấy tại các sàn 3 giao dịch vì phần đông nhà đầu tư mới tham gia rất ít kinh nghiệm, thậm chí còn chưa đọc thông bảng giao dịch điện tử. Kỹ thuật “rải đinh" tung hoả mù trên bảng giao dịch đã được nhiều nhà đầu tư lão luyện "bật mí" từ lâu và không còn là bí mật, thậm chí người nước ngoài cũng học được và sử dụng. Điểm cân bằng của thị trường sẽ phụ thuộc nhiều vào cung cầu. Cung hiện ra sao? Nguồn cung đang tăng lên (IPO các doanh nghiệp tầm cỡ), nhưng điểm rơi của nguồn cung dường như chưa đúng lúc. 3) Hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập của các doanh nghiệp Thị trường cổ phiếu phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh hay sức khỏe của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp hoạt động ổn định mà không gặp phải những biến cố bất ngờ dẫn đến phải thanh lý hay phá sản thì dòng tiền mà người nắm giữ cổ phiếu nhận được là cổ tức được chia hàng năm. Con số này có sự dao động và đôi khi cũng có những khoản bất thường nào đó, nhưng nhìn chung bình quân trong dài hạn nó chính là lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về bản chất, giá cổ phiếu do dòng tiền này và sự biến động của nó quyết định và sự nóng lên của thị trường là do sự tăng giá của các cổ phiếu gây ra. Thông thường nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì giá cổ phiếu tăng, và ngược lại, nếu làm ăn không hiệu quả, gặp thua lỗ thì cầu về cổ phiếu của doanh nghiệp giảm, và vì thế giá cổ phiếu giảm. tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập. có những thời điểm giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập, có những thời điểm nó lại bị tụt sau thu nhập 4) Cổ tức Mua cổ phiếu cũng chính là một cách đầu tư. Mục đích cuối cùng là nhằm thu được lợi nhuận cao. Cổ đông sẽ được hưởng cổ tức và phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua cổ phiếu. Họ mong đợi vào mức chênh lệch hơn là cổ tức được hưởng. Tuy nhiên, cổ tức cũng được đánh giá là nhân tố cơ bản tác động đến giá cổ phiếu. Trong tất cả các nhân tố sử dụng để giải thích về sự biến động hàng ngày của từng cổ phiếu, các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở vị trí quan trọng gần đầu. Cổ tức là khoản tiền mà các công ty trích ra từ lợi nhuận để trả cho cổ đông. Người ta thường tính cổ tức trên một cổ phiếu. Khi mua cổ phiếu, các nhà đầu tư thường chọn mua cổ phiếu có cổ tức cao hơn. Các tổ chức phát hành vẫn giữ lại được nguồn vốn bên trong để đầu tư phát triển, đồng thời tăng thêm cổ phiếu cho các cổ đông, nguồn cung cấp cổ phiếu cho thị trường tăng, do đó làm giảm biến động giá cả thị trường, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư. 5) lạm phát kết quả nghiên cứu thực chứng cho thấy mức độ lạm phát có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với hệ số định gía cổ phiếu 4 lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ không bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp bị hạ thấp khiến giá cổ phiếu giảm. lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng cổ phiếu sẽ tăng giá và ngược lại vì : Lãi suất có xu hướng giảm khi lạm phát giảm và lạm phát giảm khiến giá cổ phiếu tăng cao hơn. Ngược lại, lạm phát tăng cùng với lãi suất, giá cổ phiếu sẽ giảm. 6) Lãi suất Mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Lãi suất tăng sẽ rất có khả năng làm giảm giá các loại cổ phiếu trên thị trường. Người mua cổ phiếu của công ty mới niêm yết thường trông chờ cổ tức thấp thôi. Nhưng đổi lại, họ mong giá cổ phiếu sẽ tăng trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, khi lãi suất tăng kéo theo lãi suất trái phiếu tăng chắc chắn người ta sẽ trông đợi lợi nhuận có được từ việc mua cổ phiếu sẽ phải cao hơn đề bù vào những rủi ro của cổ phiếu so với trái phiếu. Trước mắt giá cổ phiếu phải giảm để nâng mức lợi nhuận này. Để giải thích rõ chiều hưởng ảnh hưởng của lãi suất tới thị trường cổ phiếu cần phải xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau: ♦ Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng làm cho chi phí đầu tư vào và giá cả hàng hóa bán ra đều tăng nên thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức. Khi đó thị trường cổ phiếu khá ổn định. Nhưng nếu do tăng giá hàng bán dẫn đến thu nhập của công ty tăng cao hơn chi phí đầu vào sẽ làm tăng lợi nhuận cho công ty và giá cổ phiếu lại tăng lên ♦ Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi rất ít do công ty không có khả năng tăng giá để phù hợp với chi phí tăng. Do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không đổi, nên mức chênh lệch giữa hai nhân tố này càng lớn.Thị trường cổ phiếu sẽ đi xuống. ♦ Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây tác động xấu tới thu nhập của công ty. Cụ thể là khi xảy ra lạm phát thì chi phí sản xuất tăng, nhưng nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn tới biên độ lợi nhuận giảm. Tác động của một loạt các sự kiện này là rất xấu đến giá cổ phiếu. Trong những trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất lợi nhuận giảm khi cổ tức giảm, dẫn tới chênh lệch giữa lãi suất và giá cổ phiếu càng lớn. 5 Ngược lại, lãi suất giảm có tác động tốt cho doanh nghiệp vì chi phí cho vay mượn xuống thấp, và giá cổ phiếu thường tăng lên… Một lý do nữa là khi lãi suất tăng, giá trái phiếu giảm thì người đầu tư có xu hướng chuyển từ đầu từ cổ phiếu sang trái phiếu khiến cho giá cổ phiếu giảm và ngược lại. Mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn đề đòi hỏi phải có kinh nghiệm vì ảnh hưởng của chúng thay đổi theo từng thời kỳ. Do vậy, mặc dù mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và thu nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Hơn nữa, ngay cả khi điều này là đúng trên toàn bộ thị trường, thì vẫn tồn tại một số ngành nhất định có thể có thu nhập và cổ tức tạo ảnh hưởng tích cực từ những biến động về lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lái suất. 7) tỷ giá hối đoái khi NĐT nhận định rằng đồng nội tệ có thể bị phá giá trong thời gian tới thì NĐT đó sẽ quyết định không đầu tư vào cổ phiếu hoặc sẽ tìm cách thay thế cổ phiếu bằng tài sản ngoại tệ vì cổ phiếu chính là tiền, nếu tiền mất giá trị thì giá trị cổ phiếu sẽ bị giảm khi NHNN tăng tỷ giá việc này sẽ tác động đến tâm lý nhà đầu tư khi dấy lên những lo ngại về dự trữ ngoại hối của Việt Nam và những vấn đề liên quan như “nhập khẩu” lạm phát, nợ quốc gia. Trong trung hạn, đây vẫn là yếu tố có thể tác động mạnh đến diễn biến thị trường cổ phiếu, đặc biệt là trong những tháng cuối năm khi sức ép tỷ giá tăng lên theo tính mùa vụ. Tuy nhiên, khi tìm hiểu tác động của việc thay đổi về tỷ giá đối với thị trường cổ phiếu thì cần phải đặt trong một bức tranh tổng thể bao gồm các yếu tố kinh tế vĩ mô khác. Nếu chủ trương điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất được thực hiện có hiệu quả, lạm phát được kiểm soát tốt thì những tác động của việc điều chỉnh giảm giá VND mang tính chủ động nhằm cân bằng cung cầu ngoại tệ và thu hẹp khoảng cách giữa thị trường ngoại hối chính thức và thị trường tự do - sẽ được giảm thiểu Về lý thuyết, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ được hưởng lợi. Những ảnh hưởng tích cực ở đây không chỉ được nhìn nhận theo chiều hướng làm tăng giá giao dịch của cổ phiếu trên thị trường mà có thể chỉ là giúp giá cổ phiếu không bị điều chỉnh sâu trong một chu kỳ giảm chung của thị trường. Ngược lại, những doanh nghiệp nhập khẩu nhìn chung sẽ chịu thiệt thòi. Những doanh nghiệp nhập khẩu để phục vụ tái xuất khẩu hoặc những doanh nghiệp có khả năng điều chỉnh giá sản phẩm đầu ra để bù cho phần trội thêm của chi phí đầu vào sẽ có thể giảm thiểu những tác động tiêu cực. Như vậy, diễn biến giá cổ phiếu của những doanh nghiệp này cũng sẽ tùy thuộc vào các đặc điểm riêng 6 8) Giá vàng và cổ phiếu Giá vàng tăng sẽ thu hút dòng tiền đầu tư sang vàng tăng giảm dòng tiền đầu tư vào chứng khoán. Và ngược lại khi giá vàng giảm sẽ làm tăng dòng tiền đầu tư vào chứng khoán Giá vàng làm áp lực của lạm phát tăng lên và gây tác động xấu tới TTCK nói chung và cổ phiếu nói riêng 9) chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán nếu khoản thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán tăng lên sẽ làm cho số người đầu tư giảm xuống. từ đó, làm cho giá chứng khoán giảm 10) thâm hụt ngân sách bất kì sự thâm hụt ngân sách nào đều phải được bù đắp bằng các khoản vay của Chính phủ. Giá trị của các khoản vay của Chính phủ càng lớn sẽ càng có tác động để làm tăng lãi suất chuẩn. các khoản vay của chính phủ quá lớn sẽ cản trở việc vay nợ và đầu tư của cá nhân do tăng lãi suất và bóp nghẹt việc đầu tư kinh doanh. 11) Các cơ hội đầu tư thay thế: Các công ty phải cạnh tranh tìm kiếm sự đầu tư tiền vào cổ phiếu công ty mình với các lớp tài sản khác trong bối cảnh đầu tư tòan cầu. Các cơ hội đầu tư thay thế như trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ, bất động sản, cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngòai… có thể là một nguyên nhân gây nên sự thay đổi trong cung- cầu đối với cổ phiếu trong nước. do đó dẫn tới sự thay đổi về giá cổ phiếu 12) Những giao dịch phát sinh Những giao dịch phát sinh là những giao dịch mua bán cổ phiếu với động lực là một lý do nào đó nằm ngòai yếu tố giá trị nội tại của cổ phiếu. Một ví dụ khác là các nhà đầu tư có tổ chức mua hoặc bán chứng khoán nhằm phòng ngừa rủi ro cho các khoản đầu tư khác. Mặc dù những giao dịch này không chính thức nói lên việc” ủng hộ” hay “ chống lại” cổ phiếu, nhưng chúng cũng đã thật sự ảnh hưởng đến mức cung và cầu và do đó có thể ảnh hưởng đến sự di chuyển giá của cổ phiếu. 7 II. Yếu tố phi kinh tế 1) Yếu tố chính trị Kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị. Điều kiện chính trị là một trong những yếu tố vĩ mô quan trọng, làm nền tảng cho sự biến động của thị trường chứng khoán nói riêng. Do đó, khi đề cập đến các nhân tố tác động tới xu thế của thị trường chứng khoán, chúng ta không thể bỏ qua những yếu tố trong môi trường chính trị hay sự biến động của tình hình chính trị. Lấy ví dụ như, sau vụ bắn thử tên lửa của cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên vào giữa năm 2006, do quan ngại về những bất ổn chính trị và sự giảm sút lòng tin của giới đầu tư, thị trường tài chính tiền tệ châu Á đã trải qua nhiều biến động lớn: giá cổ phiếu và tiền tệ giảm mạnh trong khi giá trái phiếu và vàng bạc tăng vọt. Cụ thể, chỉ số chứng khoán Nikkei trung bình giảm 0,6% xuống còn 15,546.78, chỉ số chứng khoán KOSPI của Hàn Quốc giảm tới 2%, chỉ số chuẩn của Đài Loan (TWII) giảm 0,4%. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu bởi các nhà đầu tư đều thấy rõ mối nguy hiểm với tài sản tích trữ trong bối cảnh xáo trộn hay bất ổn chính trị. Tuy nhiên, trong điều kiện chính trị ổn định hiện nay của Việt Nam (không có chiến tranh, không có các thay đổi chế độ chính trị…) đồng thời vào thời điểm này khi thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam chưa thực sự hoà nhập với biến động của thị trường chứng khoán thế giới, yếu tố này hầu như tác động rất ít tới sự biến động thị trường vốn. 2) Yếu tố văn hoá Nhắc đến văn hoá ở đây không có nghĩa chỉ là văn hoá xã hội truyền thống hay yếu tố dân gian, dân tộc. Mỗi một lĩnh vực từ đời sống, xã hội hay kinh tế, kĩ thuật đều tồn tại một thứ văn hoá của riêng lĩnh vực ấy, ví như văn hoá công ty, văn hoá ngành… Cũng như vậy, thị trường cổ phiếu cũng có những nét văn hoá riêng đặc trưng, phần nào tác động tới xu thế thị trường vốn. Mặt khác, sự thay đổi về công nghệ, sự khác nhau trong phương thức giao dịch, hệ thống giao dịch cũng gây ảnh hưởng tới giá chứng khoán. Gần đây có hiện tượng một số cổ phiếu khi chuyển sàn lại tăng giá mạnh. 3) Yếu tố thị trường a) yếu tố tâm lý nhà đầu tư Những người theo thuyết lòng tin cho rằng thị trường không thể nào phản ứng với những dữ liệu thống kê và kinh tế với một độ chính xác cao. Khi có một nhóm người (vừa đủ) lạc quan về thị trường họ sẽ mua cổ phiếu khiến giá cổ phiếu được đẩy lên cao. Ngược lại, khi họ bắt đầu bi quan thì họ sẽ bán ra, bất chấp những điều kiện cơ bản lúc đó thế nào. Lúc đó, họ có thể làm cho giá cổ phiếu đi xuống. Vào bất cứ thời điểm nào, trên thị trường cũng xuất hiện hai nhóm người. Số lượng giữa hai bên hiếm khi cân bằng. Khi số tiền do người lạc quan về thị trường đầu tư 8 chiếm nhiều hơn, thị trường sẽ tăng giá, và khi số tiền bán ra của người bi quan về thị trường nhiều hơn, thị trường sẽ hạ giá. Tỷ lệ giữa hai nhóm người này sẽ thay đổi tuỳ theo cách diễn giải của họ về thông tin, cả về chính trị lẫn kinh doanh, cũng như những đánh giá của họ về nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Chính vì thế, cùng một loại chứng khoán, có người cho rằng xấu quá cần phải bán đi, nhưng ngược lại có người cho rằng tương lai của nó rất sáng lạn cần phải mua vào. Do đó, thị trường chứng khoán lúc nào cũng có người mua, người bán. Như vậy, nếu một cổ phiếu nào đó được xem như hấp dẫn ở một mức giá đặc biệt nào đó, nhu cầu mua có thể vượt xa số cung của những người muốn bán. Kết quả là giá sẽ tăng cho đến khi các cổ đông hiện hữu, trong số họ có nhiều hơn, bị cám dỗ muốn bán cổ phần và sẽ có giao dịch đồng đều hơn giữa người mua và người bán. Điều ngược lại sẽ xảy ra nếu một loại cổ phiếu được xem như quá “đắt đỏ” ở một mức giá đặc biệt nào đó và người bán sẽ là đa số, buộc giá rớt cho đến khi có người mua xuất hiện. Thời điểm giá cổ phiếu bắt đầu tăng lên, có nhiều người mua hơn số người bán và ngày càng có nhiều người chú ý và cũng mua theo. >> tạo ra một giá cao hơn, cho đến lúc một số người nắm giữ cổ phiếu đó nghĩ rằng nó không thể tiếp tục tăng nữa và quyết định bán ra (nhiều người cũng sẽ nghĩ như vậy và bán ra theo). Cuối cùng số lượng người bán tăng lên làm giá cổ phiếu đổi hướng và bắt đầu giảm. Và rồi chu kỳ lại lặp lại khi một số người bắt đầu nghĩ rằng tình trạng sụt giá đã đến lúc chấm dứt và bắt đầu mua vào. b. các yếu tố về nhân khẩu học : một vài nghiên cứu cho thấy : trong khi các nhà đầu tư trẻ đến trung niên là những nhà đầu tư rất háo hức kiếm tiền, họ có khuynh hướng thích đầu tư vào cổ phiếu bởi vì đây được xem là mảnh đất màu mỡ thì các nhà đầu tư lớn tuổi hơn lại có khuynh hướng rút khỏi thị trường cổ phiếu, tìm kiếm những cơ hội đầu tư an toàn hơn nhằm phục vụ cho kế hoạch hưu trí. Lý thuyết trên cũng cho biết khi tỷ lệ các nhà đầu tư trẻ đến trung niên chiếm tỷ lệ lớn hơn trong dân chúng đầu tư thì mức cầu cổ phiếu cũng gia tăng và hệ số nhân giá trị cũng cao hơn c.đường xu hướng của ngành thông thường các cổ phiếu sẽ di chuyển theo đường xu hướng ngắn hạn. . Cổ phiếu các công ty có khuynh hướng đi cùng với thị trường và cùng với các doanh nghiệp ngang sức với nó. Khi hàng loạt các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường bị mất giá, thì giá cổ phiếu của công ty mà bạn lựa chọn chắc chắn cũng sẽ sụt giảm theo. Ngược lại, nếu giá cổ phiếu 9 của các công ty này tăng theo sự phát triển của thị trường thì cổ phiếu bạn mua vào cũng được “ăn theo” những chỉ số tích cực đó. Do đó, chúng ta nên để ý đến tầm quan trọng của việc nghiên cứu, xử lý các đồ thị biến động giá cổ phiếu theo ngày, theo tuần và theo tháng trước mỗi quyết định đầu tư cổ phiếu. Điều đáng nói là những xu thế này chỉ trở nên rõ ràng khi nhìn lại những gì dã qua, còn trên thực tế khó có thể xác định được những xu thế đó Ngoài ra còn có các yếu tố khác như : VD : thay đổi thời tiết, tiến bộ về khoa học công nghệ, các hành động lũng đoạn, tung tin đồn nhảm, các biện pháp kỹ thuật của nhà điều hành thị trường, ý kiến của các nhà phân tích... cũng có thể khiến thị giá cổ phiếu biến động. Hay những yếu tố nội tại gắn liền với nhà phát hành như : Yếu tố về kỹ thuật sản xuất bao gồm : trang thiết bị máy móc, công nghệ, tiềm năng nghiên cứu phát triển… Yếu tố về thị trường tiêu thụ : khả năng về cạnh tranh và mở rộng thị trường… Yếu tố về con người : chất lượng ban lãnh đạo , trình độ nghề nghiệp của công nhân… Các yếu tố tác động đến thị trường trái phiếu? Đưa ví dụ thực tiễn? Đưa ra các yếu tố quyết định nếu các bạn có tiền thì các bạn sẽ đầu tư thị trường nào? 10 B. Các yếu tố tác động đến Thị trường Trái phiếu 1. Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. 2. Đặc điểm a. Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính + Mệnh giá. + Lãi suất định kỳ (coupon). + Thời hạn. b. Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và người đầu tư Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành. c. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố: + Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó. + Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao. + Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao. 3. Phân loại trái phiếu 3.1. Căn cứ vào việc có ghi danh hay không - Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay. 11 - Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính. 3.2. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu - Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn. - Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành. - Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn. Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau: Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản vay. Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau: + Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể. + Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những 12 trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm, nhưng trước cổ động. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định. Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên nào đó. Cụ thể là: + Trái phiếu có thể mua lại cho phép người phát hành mua lại chứng khoán trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn. + Trái phiếu có thể bán lại cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn. + Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng hoá chứng khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đây. Thị trường trái phiếu như thế nào? Thị trường trái phiếu (còn được gọi là tín dụng, thị trường thu nhập cố định) là một thị trường tài chính mà những người tham gia có thể phát hành nợ mới, được gọi là thị trường cơ sở, hoặc mua và bán chứng khoán nợ, được biết đến là thị trường thứ cấp, thường là dưới hình thức trái phiếu . Mục tiêu chính của thị trường trái phiếu là để cung cấp một cơ chế tài trợ lâu dài của chi tiêu công và tư nhân. Với những thay đổi về kinh tế như hiện nay, thì thị trường trái phiếu phải chịu rất nhiều các tác động từ các nhân tố bên ngoài. Các nhân tố này ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ lên trái phiếu, làm cho thị trường trái phiếu biến động không ngừng. Cụ thể: 13 Các yếu tố tác động đến thị trường trái phiếu?  Lạm Phát Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế trong một thời kỳ. Khi giá tăng, mỗi đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn; do đó, tỷ lệ lạm phát hàng năm làm giảm sức mua của đồng tiền – sự giảm giá trị thực tế của vật trung gian để trao đổi trong nội địa và đơn vị tính toán trong nền kinh tế. Một phương pháp chính để xác định lạm phát giá cả là tỷ lệ lạm phát, sự thay đổi tỷ lệ % hàng năm trong chỉ số giả cả chung (thường là Chỉ số giá tiêu dùng) theo thời gian. Lạm phát là một trong những chỉ báo kinh tế vĩ mô quan trọng nhất và thường xuyên được sử dụng trong phân tích kinh tế. Tác động của lạm phát diễn ra rất rộng đối với nhiều lĩnh vực và thị trường trái phiếu cũng không phải là ngoại lệ. Lạm phát là kẻ thù của nhà đầu tư trái phiếu bởi nó ăn mòn giá trị đồng tiền. Lạm phát càng cao, lãi suất thực của trái phiếu (bằng lãi suất danh nghĩa của trái phiếu trừ lạm phát) càng giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. Nếu một trái phiếu trả lãi 7%/năm, lạm phát bình quân 5% thì lãi suất thực của trái phiếu là 2%. Nếu lạm phát giảm xuống còn 3% thì lãi suất thực sẽ là 4% Khi lạm phát tăng có mức độ trong bối cảnh cung tiền tăng mạnh và mở rộng chi tiêu Chính phủ thì thị trường chứng khoán tăng trưởng nóng; khi lạm phát tăng quá cao vượt quá tầm kiểm soát trong bối cảnh thắt chặt tiền tệ thì thị trường trái phiếu suy giảm nhanh. Ở trạng thái ngược lại, khi lạm phát giảm trong bối cảnh thực thi chính sách tiền tệ và tài khoá nới lỏng thì thị trường chứng khoán tăng trưởng trở lại. Cuối cùng, ở trạng thái trung tính, khi lạm phát tăng có mức độ nhưng không đến mức quá cao và trong môi trường thu hẹp tiền tệ thì thị trường trái phiếu sẽ “lưỡng lự” và cũng trong xu thế thu hẹp. Thật vậy, phân tích chứng khoán nói chung không thể thiếu những phân tích về ảnh hưởng của lạm phát đến cung - cầu phát hành và giao dịch chứng khoán, nhất là chứng khoán có thu nhập cố định. Đồng thời, giá trị các khoản đầu tư chứng khoán luôn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi diễn biến của lạm phát và đây là một trong những rủi ro cơ bản trong đầu tư chứng khoán nói chung. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết – xương sống của thị trường chứng khoán – cũng chịu tác động trực tiếp và gián tiếp ở các mức độ khác nhau bởi lạm phát; và điều này đến lượt nó sẽ gây ra biến động giá trái phiếu trên thị trường. Có 3 cơ chế khiến cho lạm phát có thể ảnh hưởng mạnh đến cung cầu và hành vi giao dịch chứng khoán trên thị trường: 14 _Thứ nhất, lạm phát ảnh hưởng gián tiếp đến thị trường chứng khoán thông qua tác động đến tình hình sản xuất hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp niêm yết nói riêng. Ví dụ, lạm phát khiến chi phí lãi vay của doanh nghiệp đắt đỏ hơn bởi vì các tổ chức cho vay như ngân hàng thương mại đã phải nâng lãi suất huy động lên để đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền. Khi chi phí sản xuất tăng cao, giá thành các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sẽ phải tăng theo để đảm bảo sản xuất – kinh doanh hoặc có lợi nhuận. Tuy nhiên, sức tiêu thụ sản phẩm-dịch vụ của doanh nghiệp sẽ sụt giảm do giá bán cao, đặc biệt trong ngắn hạn và khi người tiêu dùng tìm tới các sản phẩm thay thế. Điều này khiến cho lợi nhuận mục tiêu của doanh nghiệp khó được đảm bảo và thậm chí sụt giảm, dẫn tới lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp trong tương lai bị định giá thấp. Kết quả là giá cổ phiếu của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường bị ảnh hưởng theo hướng suy giảm với các mức độ khác nhau. Nếu lạm phát càng tăng mạnh thì hệ quả này diễn ra càng nhanh và giá cổ phiếu càng bị ảnh hưởng mạnh. _Thứ hai, lạm phát có thể tác động trực tiếp đến tâm lý nhà đầu tư và giá trị của các khoản đầu tư trên thị trường chứng khoán. Lạm phát tăng là một trong những biểu hiện bất ổn của nền kinh tế. Do vậy, lạm phát tăng cao có thể dẫn tới nguy cơ khủng hoảng niềm tin vào nền kinh tế, nhất là khi Chính phủ tỏ ra bất lực trong việc kiềm chế lạm phát leo thang. Do vậy mà, các nhà đầu tư cũng thận trọng hơn trong việc đầu tư vào thị trường trái phiếu. _Thứ ba, lạm phát tăng cao sẽ ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán thông qua con đường thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát. Khi cơ quan quản lý triển khai chính sách tiền tệ thắt chặt trong môi trường lạm phát, mức lãi suất chung trên thị trường có xu hướng tăng. Điều này dẫn tới yêu cầu và thực tế lợi suất khi đáo hạn (YTM) của trái phiếu tăng theo. Do quan hệ nghịch biến giữa giá và lợi suất trái phiếu, giá trái phiếu trên thị trường sẽ giảm xuống và để tránh rủi ro này, nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu có xu hướng bán ra trái phiếu hoặc cơ cấu lại danh mục đầu tư. Hệ quả là thị trường trái phiếu diễn ra tình trạng bán tháo trái phiếu và gây ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường đấu thầu và huy động vốn trái phiếu.  Như vậy thị trường trái phiếu. Để có thể xác định được một cách chính xác nhất ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán như thế nào, cần phải có những nghiên cứu nhằm xây dựng các mô hình kinh tế lượng để có thể đo lường mức độ ảnh hưởng của lạm phát cùng với các biến số độc lập khác đến giao dịch chứng khoán trên thị trường.  Lãi suất 15 _Mối đe dọa kinh tế lớn nhất đối với thị trường trái phiếu là sự gia tăng lãi suất. Nếu bạn sở hữu một trái phiếu và lãi suất tăng lên, giá trị trái phiếu trên thị trường mở sẽ đi xuống. _Tất nhiên, nếu bạn có kế hoạch để giữ trái phiếu đến ngày đáo hạn giá trị của trái phiếu của bạn không thay đổi bởi nếu lãi suất thay đổi. Bạn vẫn sẽ nhận được số tiền lời hứa khi bạn mua trái phiếu. _Tuy nhiên, nếu bạn có kế hoạch sở hữu trái phiếu cho các mục đích đầu tư - có nghĩa là bạn mua và bán trái phiếu theo bạn sẽ cổ phiếu - sau đó lãi suất là rất quan trọng. _Trên thị trường trái phiếu hay, Giá trái phiếu chuyển nghịch lãi suất. Khi lãi suất tăng lên, giá trái phiếu đi xuống và khi lãi suất đi xuống, giá trái phiếu đi lên. Thông thường, có hai cách để giải thích mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu. Cách thứ nhất, dựa trên nguyên lý định giá trái phiếu. Giá trái phiếu được tính bằng tổng giá trị hiện tại của các khoản tiền thanh toán cho người sở hữu trái phiếu. Để xác định được giá trái phiếu chúng ta phải chiết khấu toàn bộ dòng tiền sẽ thanh toán cho người sở hữu trái phiếu tại thời điểm định giá. Giả sử một trái phiếu được phát hành với thời gian đáo hạn là N năm và các khoản tiền được thanh toán bao gồm tiền lãi (R) định kỳ hàng năm và tiền gốc (FV) ở thời điểm đáo hạn. Với lãi suất bình quân thị trường là i, khi đó giá trị hiện tại của tổng dòng tiền thanh toán trong tương lai (hay giá của trái phiếu) được xác định như sau: Từ công thức trên ta thấy khi lãi suất thị trường tăng lên thì giá trái phiếu sẽ giảm xuống. Ví dụ, doanh nghiệp A phát hành trái phiếu mệnh giá 1.000 đồng với thơi hạn một năm, lãi suất trái phiếu là 10%/năm và trong điều kiện lãi suất thị trường là 11%/năm. Giá trái phiếu được tính như sau: 16 Như vậy, trái phiếu của doanh nghiệp A sẽ được bán tại thời điểm hiện tại với giá 991 đồng. Nếu lãi suất thị trường tăng lên 12%/năm thì giá của trái phiếu được xác định lại như sau: So với thời điểm lãi suất thị trường là 11%/năm thì giá trái phiếu của doanh nghiệp A đã giảm xuống còn 982 đồng. _Các nhà đầu tư thì luôn quan tâm đến lãi suất của trái phiếu, họ sẽ đầu tư vào loại trái phiếu có mức lãi suất hấp dẫn _Biến động của lãi suất trên thị trường tiền tệ tuy có tác động gián tiếp nhưng rất nhạy cảm đến thị trường chứng khoán. Lãi suất tăng sẽ thu hút nhu cầu gửi tiền vào hệ thống ngân hàng vì mức sinh lời khi gửi tiền tăng, khiến cho dòng tiền đổ vào thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng. Lãi suất tăng cũng khiến cho lợi suất kỳ vọng trên thị trường chứng khoán phải tăng (nhà đầu tư đòi hỏi lợi suất đầu tư chứng khoán cao hơn). Trong bối cảnh này, giá thị trường của trái phiếu sẽ bị sụt giảm. _Trong tháng 3/2011 có 3 đợt phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) thì cả 3 đợt đều không thành công. Đợt 1 bán được 145/6.000 tỷ đồng, đợt 2 được 139/6.000 tỷ đồng, đợt 3 được 30/3.000 tỷ đồng. Số trái phiếu ít ỏi bán được trong đợt 3 thuộc kỳ hạn 10 năm, lãi suất 11,5%/năm (mức trần cao nhất của trái phiếu được Bộ Tài chính ấn định trong suốt 18 tháng qua). Những đợt phát hành không thành công TPCP gần đây là điều các thành viên thị trường đã dự đoán trước. Nguyên nhân chính từ phía nguồn cung là do Bộ Tài chính không chịu áp lực phát hành khi đã phát hành thành công hơn 40% kế hoạch của năm 2011 chỉ trong 2 tháng đầu năm, nên Bộ này đã không tăng lãi suất trần. Về phía cầu, thanh khoản của hệ thống ngân hàng tương đối tốt, các ngân hàng lớn, dồi dào vốn đã bắt đầu cân nhắc việc mua vào trái phiếu khi mặt bằng lợi suất đang ở mức cao và hy vọng có thể thu lời trong trung hạn khi lợi suất dự đoán sẽ giảm theo tốc độ giảm của CPI trong quý III. Trong đợt phát hành hồi trung tuần tháng 3, các ngân hàng đã đặt thầu với số lượng khá lớn, đặc biệt với trái phiếu kỳ hạn 3 - 5 năm; tỷ lệ đặt thầu cho trái phiếu ở 2 kỳ hạn trên lần lượt là 65% và 42%. Tuy nhiên, do lãi suất trần không như kỳ vọng của NĐT nên đợt đấu thầu 17 TPCP thất bại. Lãi suất đặt thầu đối với trái phiếu kỳ hạn 5 năm nằm trong khoảng 12,5 - 13%/năm, cao hơn ít nhất 110 điểm cơ bản (1,1%) so với lãi suất trần. Dự báo về các phiên đấu thầu TPCP sắp tới, Bản tin thị trường trái phiếu số 11 của CTCK Bảo Việt cho rằng, thị trường sơ cấp sẽ tiếp tục ảm đạm như thời gian qua. Trên thị trường thứ cấp cũng không sáng sủa hơn khi thanh khoản của hệ thống ngân hàng đã ít nhiều được cải thiện. Các ngân hàng có nhu cầu đầu tư trái phiếu trong thời điểm này ưa thích giao dịch trên thị trường thứ cấp hơn, do lãi suất trên thị trường sơ cấp thấp hơn. Tuy nhiên, lợi suất trên thị trường thứ cấp vẫn thấp hơn kỳ vọng của NĐT, nên rất ít giao dịch outright (mua đứt bán đoạn, phân biệt với repo - giao dịch có kỳ hạn) được thực hiện.  Như vậy, lãi suất tác động khá mạnh mẽ tới thị trường trái phiếu, bởi lãi suất và giá trái phiếu chuyển nghịch lẫn nhau. Hơn nữa lãi suất cũng giống như lạm phát, nó có tác động lơn đối với các nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu.  Tâm lý nhà đầu tư . _Lợi nhuận so sánh thường là mục tiêu số một khi NĐT đưa ra quyết định giải ngân vào bất kỳ thị trường trái phiếu nào. Ngoài yếu tố này, điều NĐT quan tâm và so sánh khi lựa chọn thị trường đầu tư là mức độ an toàn xét trên góc độ xếp hạng tín nhiệm, mức độ phát triển của thị trường về quy mô giao dịch, khả năng thanh khoản, cơ sở hạ tầng giao dịch, hệ thống pháp lý và chi phí kinh doanh có cạnh tranh không… Vì vậy, muốn tăng khả năng cạnh tranh để thu hút NĐT thì cùng với nỗ lực thực hiện các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, đưa nền kinh tế phát triển đi vào chiều sâu, chúng ta cần nghiên cứu xây dựng một chiến lược phát triển thị trường trái phiếu tổng thể với lộ trình và mục tiêu ưu tiên cụ thể trên các mặt vừa nêu.  Do đó, yêu tố tâm lý của các nhà đầu tư có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn các danh mục đầu tư trong thị trường trái phiếu.Làm tăng sự thành công trong thị trường này.  Khủng hoảng kinh tế 18 _Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các ngân hàng (Libor và Sibor, tức London Inter Bank offer rate, Singapore Inter Bank Offer rate, thường được dùng làm lãi suất cơ sở để cho các xí nghiệp và ngân hàng Việt Nam vay). _Ngoài ra đầu tư trực tiếp (FDI) của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng vì FDI vào Việt Nam phần lớn là vốn vay chứ không phải vốn tự có, nên nếu các nhà đầu tư không dàn xếp được khoản vay sẽ khó giải ngân được. Do vậy mà, đối với thị trường chứng khoán, có khả năng nhà đầu tư nước ngoài phải thu hồi nguồn vốn và bán chứng khoán. Điều này tác động đến thị trường trái phiêu và giá cả của trái phiếu trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư nước ngoài bán ra nhiều hơn mua vào sẽ làm giảm giá chứng khoán của Việt Nam. _Khủng hoảng kinh tế xảy ra, khiến cho các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài, gặp khó khăn rất lớn trong việc huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu, điều này khiến cho không khí trên thị trường trái phiếu trở nên rất ảm đạm.  Thời tiết Động đất ở Nhật Bản dẫn đến nước này có ít nhu cầu về trái phiếu chính phủ Mỹ? Nếu là một ngày bình thường, thì thảm kịch ở Nhật Bản sẽ làm các nhà đầu tư toàn cầu tìm đến sự an toàn trong trái phiếu chính phủ Mỹ. Tuy nhiên, lãi suất trái phiếu này lại tăng lên vào ngày thứ Sáu, và dù có rất nhiều lời giải thích, thì một vài người vẫn lo lắng rằng Nhật Bản và Trung Quốc có lẽ sẽ không có nhiều tiền để mua trái phiếu chính phủ Mỹ nữa. Ông Quincy Krosby – nhà chiến lược thị trường tại Prudential Financial, Newark, New Jersey cho biết: “Câu hỏi đang được đặt ra bây giờ là liệu Nhật Bản có thể tiếp tục mua trái phiếu chính phủ Mỹ hay không.Vì họ còn phải dùng tiền của mình để tái thiết đất nước nữa”. Tính đến cuối năm 2010, Nhật Bản nắm giữ 882 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ - con số này đã tăng đều đặn kể từ tháng 6/2010. Trung Quốc vẫn dẫn đầu danh sách chủ nợ của Mỹ với 1,16 nghìn tỷ USD trong ngân khố C.CHỨNG CHỈ QUỸ ĐẦU TƯ 19 I. Tìm hiểu chung - Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp trong quỹ đại chúng. - Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đa dạng hóa đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. - Khi muốn thành lập quỹ thì các công ty quản lý quỹ phải phát hành chứng chỉ quỹ, nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ tức là đã xác nhận sự góp vốn của mình vào quỹ chung đó. Về bản chất chứng khoán quỹ cũng giống như cổ phiếu của một công ty: là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu, hưởng lợi nhuận trên phần vốn góp, và đặc biệt được niêm yết trên thị trường chứng khoán để mua bán giữa các nhà đầu tư. Tuy nhiên có ba điểm khác nhau giữa chúng: cổ phiếu là phương tiện huy động vốn của một công ty kinh doanh một vài ngành nghề cụ thể còn chứng chỉ quỹ là phương tiện để thành lập quỹ của một quỹ đầu tư chứng khoán mà ngành nghề hoạt động chính là "chơi chứng khoán". Thứ hai, nếu người sở hữu cổ phiếu phổ thông có quyền biểu quyết hay quản lý công ty thì nhà đầu tư sở hữu chứng khoán quỹ không có quyền tương tự, mọi quyền hành đều do công ty quản lý quỹ quyết định. + Đặc điểm của quỹ đầu tư chứng khoán: Thứ nhất, quỹ đầu tư chứng khoán luôn dành đa số vốn đầu tư của Quỹ để đầu tư vào chứng khoán. Đặc điểm này phân biệt quỹ đầu tư chứng khoán với các loại quỹ đầu tư khác. Quỹ có thể xây dựng danh mục đầu tư đa dạng và hợp lý theo quyết định của các nhà đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Ngoài việc chủ yếu đầu tư vào chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán cũng có thể tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực khác như góp vốn, kinh doanh bất động sản v.v.. +Thứ hai, quỹ đầu tư chứng khoán được quản lý và đầu tư một cách chuyên nghiệp bởi công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Nói một cách khác, các nhà đầu tư đã uỷ thác cho công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán việc quản lý quỹ và tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ số vốn của quỹ. Công ty quản lý quỹ có thể cử ra một cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện việc quản lý quỹ gọi là nhà quản trị quỹ. Nhà quản trị được chọn thường phải là người có thành tích và được sự ủng hộ của đa số nhà đầu tư. Để đảm bảo công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán tiến hành hoạt động đúng như mong muốn của các nhà đầu tư, quỹ đầu tư chứng khoán cần phải có một ngân hàng giám sát. Ngân hàng này sẽ thay mặt các nhà đầu tư để giám sát cũng như giúp đỡ quỹ đầu tư chứng khoán hoạt động đúng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan