Thâm hụt ngân sách là gì?
Thâm hụt ngân sách trong kinh tế học vĩ mô và kinh tế học công cộng là tình trạng các khoản chi của ngân
sách Nhà nước (ngân sách chính phủ) lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách.
Trường hợp ngược lại, khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân sách. Thu của chính
phủ không bao gồm khoản đi vay. Đi vay chính là một cách mà chính phủ tài trợ cho thâm hụt ngân sách.
Trong lịch sử, phát hành thêm tiền đã từng là một cách tài trợ cho thâm hụt ngân sách, nhưng do hậu quả
nghiêm trọng của nó là dẫn đến lạm phát ở mức cao nên ngày nay cách này hầu như không được chính phủ của
bất cứ quốc gia nào sử dụng nữa. Do chính phủ bù đắp cho thâm hụt ngân sách bằng cách đi vay, nên lũy kế
các khoản thâm hụt ngân sách chính phủ đến một thời điểm nào đó chính là nợ chính phủ.
Thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt
chu kỳ.
Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến của chính phủ như
quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,...
Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao
hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ
dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như sau:
Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong một giai đoạn nhất định
(thường là một quý hoặc một năm).
Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức
sản lượng tiềm năng.
Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau giữa chính sách tài
chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự động.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh giá ảnh hưởng thực sự
của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm
hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong
từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế
Thâm hụt ngân sách nhà nước là:
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng khi tổng chi
tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà nước.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so
với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ
thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong
thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực.
Thâm hụt ngân sách nhà nước cần phải đặt trên cơ sở thu nhập và mức sống của người dân do thuế là 1 trong
những nguồn bù đắp ngân sách lớn nhất của ngân sách nhà nước mà việc thu thuế cần phải dựa vào mức thu
nhập của người dân, hơn nữa nhà nước có thể lựa chọn vay từ dân cư trong nước mà để định mức vay hợp lý
thì lại phải dựa trên thu nhập và mức sống của người dân
Giải pháp khắc phục: dưới đây là các biện pháp chính phủ sử dụng để bù đắp bội chi
Tăng thu, giảm chi ngân sách nhà nước;
Vay nợ trong nước và nước ngoài để bù đắp sự thâm hụt;
Tăng phát hành trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc
Phát hành tiền giấy
(Nguồn Wikipedia)
Tăng trưởng
Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia
tăng) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Đó
là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất dịch vụ của nền kinh tế tạo
ra. Do vậy, để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế người ta sử dụng mức tăng
thêm của tổng sản lượng của nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình quân
đầu người) của thời kì sau so với thời kì trước. Như vậy tăng trưởng kinh
tế được xem xét trên hai mặt biểu hiện: đó là tăng tuyệt đối hay mức tăng
phần trăm(%) hàng năm, hoặc bình quân trong một giai đoạn.Sự tăng
trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai đoạn nhất
định, sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trưởng. Đó là sự tăng thêm sản
lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc
Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế:
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, những
nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe,
hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn
nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả
tương ứng.
Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao
động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật
liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương
tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối
đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên
cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá
hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một
cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến
thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ
năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ
không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."[1]
Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên quan trọng
nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò
quan trọng để phát triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể
đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất
dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không
quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên
nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền
kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô.
Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng
những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp.
Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan
trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự
tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản
xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản
cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi
suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao
thông, mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi....
Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không phải là sự sao chép giản đơn,
là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công
nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng
cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và
ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... có những bước tiến như vũ
bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc
tìm tòi, nghiên cứu; công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ "phần
thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả
tiền một cách xứng đáng.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, thâm hụt ngân sách với lạm
phát ở Việt Nam
Tăng trưởng kinh tế
Những cải cách kinh tế quan trọng vào năm 1986 chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giúp Việt Nam đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, GDP thực tế Việt Nam tăng nhanh hơn các quốc gia khác với mức
tăng trưởng trung bình giai đoạn 1990 - 2009 là 7,32% (Bảng 1).
Vào những năm đầu thập kỷ 1990, kinh tế Việt Nam đạt được mức tăng trưởng cao, đặc biệt những năm
1992 và 1997 gần 9%. Tuy nhiên, đà tăng trưởng chậm lại vào cuối thập kỷ này do những ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Kết thúc năm 1999, tăng trưởng chỉ còn là 4,8% kèm theo hiện
tượng giảm phát những năm sau đó. Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã thực hiện chính sách nới lỏng tín
dụng và kích thích mở rộng đầu tư từ năm 2000, đồng thời ký kết quan hệ trao đổi thương mại song
phương Mỹ 7/2000. Kết quả là kinh tế đã phục hồi trên đà tăng trưởng cao, nhưng đi kèm là tỷ lệ lạm phát
tăng lên. (Bảng 1)
Hơn nữa, sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại quốc tế
(WTO) tháng 11/2006 đã mở đường cho sự tự do hóa thị trường lớn hơn và làm dấy lên làn sóng đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam, lượng ngoại tệ đầu tư trực tiếp, gián tiếp, vay nợ nước ngoài đã tăng đỉnh điểm
gấp 13 lần năm 2000. Lúc này, để duy trì khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu, ổn định tương đối tỷ giá và
hạn chế gia tăng nghĩa vụ nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp quy đổi bằng VND, Ngân hàng
Nhà nước đã cung lượng tiền VND để mua một lượng ngoại tệ vào, gây áp lực lạm phát tăng cao ở mức 2
con số vào năm 2007 (12,6%) và năm 2008 (19,89%).
Thêm vào đó, khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào năm 2008 ảnh hưởng tới sự ổn định kinh tế vĩ mô của
Việt Nam, cụ thể là bội chi ngân sách lớn, nợ công tăng cao, thâm hụt cán cân vãng lai, tốc độ tăng trưởng
chậm lại 6,78% năm 2010 và 5,9% năm 2011 mặc dù Chính phủ đã có những biện pháp kích cầu để thúc
đẩy tăng trưởng, chống suy giảm kinh tế. Đồng thời với đó là lạm phát tăng cao, kết thúc năm 2010 và
2011, lạm phát lần lượt ở mức 11,75% và 18,58%.
Năm 2012, tăng trưởng kinh tế ở mức 5,03%, đã giảm khoảng 0,87% so với năm 2011. Nguyên nhân của
tình trạng này xuất phát từ suy giảm tổng cầu do chính sách tiền tệ thắt chặt kiềm chế lạm phát của Ngân
hàng Nhà nước từ năm 2011, hàng tồn kho tăng cao đặc biệt là tồn kho bất động sản, nhiều doanh nghiệp
phá sản (theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trên 50.000 doanh nghiệp phá sản từ đầu năm 2011 đến cuối quý
I/2012), nhiều tập đoàn Nhà nước thua lỗ lớn tại Vinalines, Vinashin, EVN, Tổng công ty Xi măng Việt
Nam Vicem, tập đoàn Sông Đà,...
Ngoài ra, do đà giảm kinh tế toàn cầu khiến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm xuống (thu
hút đầu tư nước ngoài từ đầu năm 2012 đến ngày 20/4/2012 chỉ bằng 68,5% so với cùng kỳ năm trước,
vốn thực hiện giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước), xuất khẩu Việt Nam cũng giảm mạnh do nhu cầu
tiêu thụ của nước ngoài giảm, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô giảm 3,1%; cà phê giảm
7,9%; cao su giảm 8,3%; than đá giảm 12,2%; gạo giảm 27,8%...
Năm 2012, cũng là năm mà mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô được đặt lên hàng
đầu. Theo đó, Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, giảm đầu tư công, giảm bội chi
ngân sách; Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt và linh hoạt; Bộ Tài
chính tiếp tục lộ trình quản lý, điều hành giá theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ giá độc quyền,
chống bán phá giá, đảm bảo cân đối cung - cầu hàng hóa...
Kết thúc năm, chúng ta đã thành công khi giữ mức lạm phát ở mức một con số 6,81 %. Mặc dù mức tăng
trưởng thấp, nhưng theo đánh giá của Tổng cục Thống kê trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn, cả
nước tập trung thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát thì đây được xem là mức tăng hợp lý.
Mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và lạm phát
Xem xét về mặt lý thuyết, lạm phát vừa có tác động tích cực và thiếu tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Một
tỷ lệ lạm phát thấp có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng. Theo nghiên cứu của Tobin (1965), Mundell (1965)
mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là tỷ lệ thuận. Các nghiên cứu này cũng trùng với quan điểm
của trường phái Keynes và trường phái tiền tệ khi cho rằng trong ngắn hạn, các chính sách nhằm hỗ trợ
tăng trưởng của Chính phủ sẻ làm gia tăng lạm phát.
Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát cao sẽ tác động tiêu cực lên tăng trưởng. Lạm phát gây giảm sút tổng cầu, gia
tăng thất nghiệp, nó gây ra sự bất ổn cho môi trường kinh tế xã hội, làm thông tin trong nền kinh tế bị bóp
méo, khiến các quyết định đầu tư, tiêu dùng, tiết kiệm trở nên khó khăn hơn; lạm phát được xem như một
loại thuế đánh vào nền kinh tế.
Một số nghiên cúu của Rscher (1993), Barro (1995), Bruno và Easterly (1998) đều chỉ ra mối quan hệ
giữa tăng trưởng và lạm phát mang dấu âm. Còn nghiên cứu của Khan và Senhadji (2001) ở 140 nuớc giai
đoạn 1960 - 1998 đã tìm thấy “ngưỡng” lạm phát từ 11-12% đối với các nước đang phát triển và khoảng
1-3% đối với các nước công nghiệp. Nếu nền kính tế ở dưới ngưỡng này, mối quan hệ tăng trưởng - lạm
phát mang dấu dương và ngược lại.
Thực tế ở Việt Nam, mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng cũng phù hợp về mặt lý thuyết. Với mức
lạm phát cao thì lạm phát tác động tiêu cực đến tăng trưởng (giai đoạn trước 1992). Còn nền kinh tế duy
trì một tỷ lệ lạm phát thấp có tác dụng hỗ trợ tăng trưởng (giai đoạn 1992 - 2007).
Có quan điểm cho rằng để đạt được mục tiêu tăng trưởng thì chấp nhận một tỷ lệ lạm phát cao. Khi nền
kinh tế chưa đạt đến sản luợng tiềm năng, các chính sách thúc đẩy tổng cầu như gia tăng tiêu dùng, đẩy
mạnh đầu tư trong khu vực công và khu vực tư nhân, khuyến khích xuất khẩu sẽ góp phần đạt mục tiêu
tăng trưởng kinh tế và phải chấp nhận mặt bằng giá cả hàng hóa dịch vụ cao hơn.
Chính điều này làm cho các nhà hoạch định chính sách tin rằng lạm phát có lợi hơn là có hại cho nền kinh
tế (đặc biệt tỷ lệ lạm phát ở mức một con số), đó là khi lạm phát tăng khiến cácchủ thể giảm thói quen giữ
tiền mặt, thay vào đó sẽ chi tiêu, đầu tư nhiều hơn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, hỗ trợ tăng truởng
nhanh.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế đã đạt sản luợng tiềm năng, sự gia tăng tổng cầu sẽ chỉ làm giá tăng lên mà
không làm tăng sản lượng nền kinh tế. Điều này bởi vì, tỷ lệ lạm phát cao làm đình trệ sản xuất thông qua
kênh đầu tư, tín dụng, tiêu dùng, về phía người tiết kiệm không dám gửi tiền vì lãi suất thực âm, gửi tiền
kỳ hạn càng dài càng lỗ. Về phía nguời đi vay phải chịu lãi suất cao, với chi phí vốn cao họ sẽ e ngại vay
vốn, không có động lực để đầu tư, hay sản xuất kinh doanh. Kết quả là kênh tín dụng bị thu hẹp.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, mức dư nợ tín dụng 10 tháng đầu năm 2008 chỉ tăng hơn
19,6%, thấp hơn mức tăng 37,73% so vớí cùng kỳ năm 2007, tỷ lệ lạm phát cao tháng 10/2008 là 22,14%
cũng làm cho thu nhập của hộ gia đình giảm 22% so với cuối năm 2007. Thu nhập giảm dẫn tới tiêu dùng
giảm đầu tư cũng giảm vì rủi ro cao tất yếu làm chậm tăng truởng kinh tế. Như vậy, quan điểm sử dụng
lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có tác dụng giúp kinh tế tăng trưởng nhanh nhưng không
bền vững (còn gọi là giải pháp tăng trưởng "bong bóng"), gây hậu quả tiêu cực đến đời sống dân cư, đặc
biệt là tầng lớp thu nhập thấp.
Trong nhiều năm trở lại đây, lạm phát Việt Nam luôn ở mức cao, câu hỏi đặt ra là phải chăng sản lượng
nền kinh tế đã vượt mức tiềm năng, nên các chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ (gói kích cầu thứ
nhất hỗ trợ lãi suất trị giá 1 tỷ USD và gói kích cầu 2 trị giá 8 tỷ USD nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế
vào cuối năm 2008 - 2009) khiến lạm phát tăng mạnh trong khi sản lượng không đạt mục tiêu? Theo đánh
giá của IMF (2006) thì kể từ năm 2005, kinh tế Việt Nam có dấu hiệu sự gia tăng sản lượng vượt mức
tiềm năng (những năm trước đó, mối quan hệ này thể hiện không nhất quán và rõ nét).
Qua thực tế chứng minh rằng, Chính phủ muốn đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững bằng các gói
kích thích kinh tế thì yêu cầu phải dựa trên nền tảng mức lạm phát thấp, giá trị đồng nội tệ ổn định. Thật
vậy, khi lạm phát thấp các nhà đầu tư có thể dự tính được cơ hội đầu tư, mức rủi ro của dự án. Từ đó, có
các quyết định đầu tư hiệu quả, còn nguời tiêu dùng có thể yên tâm chi tiêu, không lo ngại, cân nhắc mua
các mặt hàng thay thế vì giá tăng, kỳ vọng lạm phát của dân chúng không xảy ra giúp kích thích tăng
trưởng kinh tế. Vậy mức lạm phát thấp ở đây là bao nhiêu?
Hiện nay, ở các nước phát triển, lạm phát được chọn gần 2% là ngưỡng tối ưu cho tăng trưởng, còn theo
nghiên cứu của IMF (2006) chỉ ra ngưỡng lạm phát tối ưu cho tăng trưởng ở các nước Đông Nam Á,
trong đó có Việt Nam là 3,6%. Tuy nhiên, cần phải hiểu thêm rằng, lạm phát thấp và ổn định chỉ là điều
kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện cần cho tăng trưởng phải là các chính sách, chủ trương,
định hướng của Chính phủ trong việc phát triển con người, nguồn lực tài nguyên, vốn, khoa học công
nghệ…
Như vậy, xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát giai đoạn 1990 đến 2012 có thể thấy
rằng kinh tế Việt Nam chứng kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại, đi kèm với tỷ tệ lạm
phát tăng cao vào những năm đầu và những năm gần cuối của giai đoạn này.
Ngân sách Nhà nước
Ngân sách nhà nước (NSNN) luôn trong tình trạng thâm hụt ở mức cao. Nhìn lại giai đoạn trước năm
1986, thu không đủ cho chi ngân sách, mức chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào viện trợ nước ngoài. Giai
đoạn sau đó 1986 - 1990, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã cắt dần viện trợ cho Việt Nam, bội chi
Ngân sách càng trầm trọng, nguồn thu lúc này chủ yếu dựa vào vay nợ trong nước, ngoài nước và phát
hành tiền. Đây cũng là nguyên nhân gây lạm phát cao thời kỳ này.
Bước sang giai đoạn 1991 - 1996, kinh tế đất nước có nhiều dấu hiệu tốt như siêu lạm phát được đẩy lùi
nhờ Chính phủ thắt chặt chi tiêu cùng với thay đổi cơ cấu chi ngân sách, chi tập trung vào đúng đối tượng
tạo hiệu quả phát triển kinh tế, nguồn thu đã đủ cho chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách giai đoạn trước
được bù đắp bằng vay nợ. Do vậy, thời kỳ này bội chi ngân sách đã giảm đáng kể, bội chi chỉ ở mức trung
bình 2,56 % GDP trong khi giai đoạn 1985 - 1990 bội chi khoảng 7% GDP (Bảng 2)
Giai đoạn 1997 - 2001, nguồn thu NSNN đáp ứng cho cả chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Bội
chi ở mức thấp trung bình 3,87% GDP từ năm 1996 - 2000, nợ công cũng giảm đáng kể do kết quả của cơ
cấu lại các khoản nợ công qua câu lạc bộ Paris. Vào cuối những năm 1990, ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế châu Á, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại, tốc độ tăng đầu tư của Nhà nước giảm, hiện
tượng thiểu phát xuất hiện vào năm 2000, 2001. Đây cũng là hai năm có tỷ lệ bội chi NSNN cao nhất
chiếm gần 5% GDP, nhưng điều này được xem như một tín hiệu tốt trong bối cảnh nền kỉnh tế giảm phát,
sản lượng chưa đạt đến sản lượng tiềm năng, các chính sách tăng chi tiêu của Chính phủ chẳng những sẽ
không gây ra lạm phát, mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế những năm tiếp theo.
Giai đoạn từ năm 2002 đến nay, thu và chi ngân sách đều tăng mạnh, theo thống kê giai đoạn 2002 - 2009
tốc độ tăng thu hàng năm bình quân là 20%, tốc độ tăng chi bình quân là 20,2%. Bội chi NSNN ở mức
trên dưới 5% GDP, tăng cao hơn so với các giai đoạn trước. Đây là kết quả của chính sách tài khóa nới
lỏng theo đuổi mục tiêu tăng trưởng, đặc biệt là năm 2009 với chính sách kích cầu nhằm hạn chế suy
giảm kinh tế từ ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuối năm 2008, đã làm cho bội chi ở mức cao
6,9% GDP.
Những năm tiếp theo, Chính phủ nỗ lực trong việc tăng thu ngân sách, giảm bội chi, giảm nợ công. Nghị
quyết 11/NQ-CP của Chính phủ được ban hành nhằm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tài
khóa cắt giảm chi tiêu công nhằm giảm bội chi và kiềm chế lạm phát. Nhờ đó, tình hình bội chi NSNN đã
giảm chỉ còn 5,8% GDP năm 2010, 4,9% GDP năm 2011 và 4,8% GDP năm 2012 (Biểu đồ 2).
Mối quan hệ giữa bội chi Ngân sách nhà nước và lạm phát
Bội chi NSNN ở mức cao đều có nguy cơ gây ra lạm phát. Bởi vì, khi ngân sách bị bội chi có thể được bù
đắp bằng phát hành tiền hoặc vay nợ, đều gây nên nguy cơ lạm phát tăng.
Thứ nhất, việc phát hành tiền trực tiếp làm tăng cung tiền tệ trên thị trường sẽ gây lạm phát cao, đặc biệt
khi việc tài trợ thâm hụt lớn và diễn ra liên tục thì nền kinh tế phải trải qua lạm phát cao và kéo dài như
giai đoạn 1986 - 1990. Sự gia tăng cung tiền có thể không làm tăng lạm phát nếu nền kinh tế đang đà tăng
trưởng, mức cầu tiền giao dịch tăng lên phù hợp với mức tăng của cung tiền. Tuy nhiên, trong trường hợp
khu vực tư nhân đã thỏa mãn với lượng tiền họ đang nắm giữ (mức cầu tiền tương đối ổn định) thì sự gia
tăng của cung tiền làm cho lãi suất thị trường giảm, nhu cầu tiêu dùng về hàng hóa dịch vụ, nhu cầu đầu
tư sẽ tăng lên kéo theo sự tăng của tổng cầu nền kinh tế, mặt bằng giá cả sẽ tăng lên gây áp lực lạm phát.
Người ta gọi trường hợp khi chính phủ tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách tăng cung tiền là hiện tượng
chính phủ đang thu "thuế lạm phát" từ những người đang nắm giữ tiền.
Thứ hai, bù đắp thâm hụt bằng nguồn vay nợ trong nước hoặc nước ngoài, việc vay nợ trong nước bằng
cách phát hành trái phiếu ra thị trường vốn, nếu việc phát hành diễn ra liên tục thì sẽ làm tăng lượng cầu
quỹ cho vay, do dó, làm lãi suất thị trường tăng. Để giảm lãi suất, Ngân hàng Trung ương phải can thiệp
bằng cách mua các trái phiếu đó, điều này làm tăng lượng tiền tệ gây lạm phát. Hay vay nợ nước ngoài để
bù đắp bội chi ngân sách bằng ngoại tệ, lượng ngoại tệ phải đổi ra nội tệ để chi tiêu bằng cách bán cho
Ngân hàng Trung ương, điều này làm tăng lượng tiền nội tệ trên thị trường tạo áp lực lên lạm phát.
Thực tế những năm qua, thâm hụt ngân sách Việt Nam được tài trợ phần lớn bằng cách vay nợ thông qua
phát hành trái phiếu Chính phủ. Lượng trái phiếu này có thể được mua bởi Ngân hàng Nhà nước (hình
thức cấp tín dụng trực tiếp cho Chính phủ) sẽ làm tăng lượng tiền cơ sở. Hoặc lượng trái phiếu được mua
bởi các ngân hàng thương mại, sau đó các ngân hàng thương mại đem cầm cố chúng tại Ngân hàng Nhà
nước thông qua nghiệp vụ thị trường mở hoặc nghiệp vụ tái cấp vốn (cấp tín dụng gián tiếp cho Chính
phủ). Điều này cũng làm tăng lượng tiền cơ sở và tăng cung tiền gây lạm phát. Theo thống kê của Sở
Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), khối lượng trái phiếu Chính phủ và Trái phiếu Chính phủ bảo
lãnh đang lưu hành có giá trị lên tới 336.000 tỷ đồng, tương đương hơn 13% GDP danh nghĩa và gần 12%
cung tiền M2 năm 2011. Ngoài ra, bên cạnh việc vay nợ trong nước, Việt Nam còn vay nợ nước ngoài để
tài trợ thâm hụt, sốtiền vay nợ nước ngoài chiếm 1/3 thâm hụt NSNN, tương đương 1,5 – 1,7% GDP. Đây
chính là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam trong những năm 2007 - 2008 và
2010 - 2011.
Một số gợi ý chính sách
Mộtlà, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tiếp tục theo đuổi mục tiêu kiềm chế lạm phát
đảm bảo an sinh xã hội, làm tiền đề đạt mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Qua những phân tích ở
trên thấy rằng một mức lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế (giai đoạn trước năm
1992 và giai đoạn từ năm 2007 đến nay). Trong khi đó, nền kinh tế duy trì tỷ lệ lạm phát thấp sẽ giống
như một "thứ dầu bôi trơn" hỗ trợ tăng trưởng (giai đoạn năm 1992 đến 2007). Nhưng cũng cần hiểu rằng,
điều này không có nghĩa là kìm lạm phát xuống quá thấp, bởi hệ quả của các chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa thắt chặt quá mức là đầu tư nền kinh tế giảm, không khuyến khích doanh nghiệp mở rộng
sản xuất tăng sản lượng, không kích thích tiêu dùng của dân cư…, dẫn đến tăng trưởng sẽ chậm lại.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang nghiên cứu áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu. Đây là
bước đi cần thiết nhằm kiềm chế lạm phát về mức một con số trong trung, dài hạn. Tuy nhiên, để cơ chế
này được áp dụng một cách hiệu quả cần phải lưu ý một số vấn dề sau:
Thứ nhất, Chính phủ cần tăng cường quyền hạn và tính độc lập hơn cho Ngân hàng Nhà nước trong việc
xây dựng, thực thi, điều hành chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước sẽ thiết lập và tự chịu trách nhiệm
về mức lạm phát mục tiêu trong trung hạn, chủ động sử dụng các công cụ chính sách để đạt được mục
tiêu đó.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước nên xem xét đưa ra mức lạm phát mục tiêu trong ngắn hạn hàng năm. Việc
thực hiện mức mục tiêu trong ngắn hạn sẽ tạo tiền đề để thành công chính sách lạm phát mục tiêu trong
trung hạn. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng cần đưa ra "ngưỡng" lạm phát tối ưu cho kinh tế Việt
Nam. Trong trường hợp tỷ lệ lạm phát của Việt Nam ở dưới ngưỡng này, Chính phủ có thể áp dụng các
biện pháp để tăng lạm phát đạt xấp xĩ ngưỡng lạm phát mà không sợ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Còn
nếu tỷ lệ lạm phát vượt ngưỡng này thì sẽ tác động tiêu cực (ảnh hưởng ngược chiều) đến tăng trưởng,
Chính phủ phải tìm cách giảm lạm phát để hỗ trợ tăng trưởng.
Hai là, giảm thâm hụt ngân sách để kiềm chế lạm phát và duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô. Bởi lẽ, thâm
hụt ngân sách tăng lên làm giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, gia tăng thâm hụt cán cân tài
khoản vãng lai. Đồng thời, ngân sách thâm hụt cao và kéo dài làm xói mòn niềm tin đối với năng lực điều
hành vĩ mô của chính phủ, làm tăng mức lạm phát kỳ vọng của ngưởi dân và của các nhà đầu tư vì họ cho
rằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt.
Do đó, thâm hụt ngân sách cao kéo dài sẽ đe dọa sự ổn định vĩ mô, gây lạm phát. Thực tế ở Việt Nam
cũng chứng minh điều này, thâm hụt ngân sách cao được bù đắp phát hành tiền và vay nợ khiến lạm phát
tăng cao (giai đoạn trước năm 1990). Sau đó nhờ nỗ lực của Chính phủ trong việc thắt chặt chi tiêu đã góp
phần kiềm chế lạm phát (giai đoạn 1991 - 2006), ngoại trừ giai đoạn 1999 - 2001 là thời kỳ kinh tế suy
thoái, thậm chí thiểu phát nên mức bội chi NSNN hầu như không ảnh hưởng đến lạm phát, mà còn có tác
động tích cực hỗ trợ kinh tế đi lên. Trong những năm gần đây, chính sách tài khóa nới lỏng kích cầu đầu
tư khiến tỷ lệ bội chi hàng năm khoảng 5% GDP, sức ép tăng cung tiền vào lưu thông không nhỏ đã khiến
lạm phát tăng cao trở lại (giai đoạn 2007 đến nay).
Do vậy, kiểm soát bội chi ngân sách là điều hết sức cấp thiết. Liên quan đến vấn đề này cần thực hiện một
số yêu cầu sau:
Thứ nhất, phương pháp tính, hạch toán ngân sách phải được thực hiện công khai, minh bạch theo chuẩn
mực quốc tế. Hiện nay, có nhiều khoản chi ngân sách từ nguồn trái phiếu Chính phủ tài trợ cho lĩnh vực y
tế, giáo dục, các khoản cho vay, cho vay lại của Chính phủ… để ngoại bảng cân đối ngân sách, không tính
đầy đủ vào thâm hụt ngân sách và nợ công như thông lệ quốc tế. Nhiều khoản chi vào những dự án lớn
dài hạn được phân bổ dần vào quyết toán ngân sách trong nhiều năm thay vì tính cả vào năm trái phiếu
được phát hành để vay nợ... Ngoài ra, sự không thống nhất trong cách hạch toán ngân sách khiến cho các
con số thống kê không phản ảnh chính xác thực trạng nợ công của Việt Nam, gây nhiễu loạn thông tin cho
các chủ thể nền kinh tế, và gây trở ngại cho việc so sánh, đánh giá, quản lý rủi ro nợ công giữa Việt Nam
với các quốc gia khác. Do vậy, Việt Nam phải có phương pháp tính đúng, đầy đủ ngân sách theo chuẩn
quốc tế nhằm phản ánh chính xác tình trạng tài khóa, làm cơ sở cho sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô hợp
lý nhằm giảm bội chi và kiểm soát lạm phát.
Thứ hai, cắt giảm các khoản chi tiêu công chưa thật cần thiết và kém hiệu quả bằng cách đề ra các tiêu
chí, tiêu chuẩn để cắt bỏ, đình hoãn những công trình đầu tư kém hiệu quả hoặc chưa khởi công. Tuy
nhiên, cần phải có cách đánh giá toàn diện hiệu quả chi tiêu công theo các lĩnh vực khác nhau, không nên
cắt giảm đồng loạt các chi tiêu theo một tỷ lệ cố định nào đó, thực hiện rà soát, đánh giá chuyển vốn từ
các công trình chưa khởi công, khởi công chậm, thủ tục chưa hoàn thành sang các công trình cấp bách,
hiệu quả kinh tế cao hoặc hướng tới các lĩnh vực mà khu vực tư nhân có thể tham gia cùng. Ngoài ra, các
khoản chi tiêu thường xuyên cũng cần được tra soát lại tất cả các khâu hoạt động để tổ chức lại bộ máy
cho hợp lý hơn, cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết.
Thứ ba, kiểm soát các khoản đầu tư công của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) bằng cách thành lập một
Hội đồng thẩm định đầu tư của DNNN độc lập, nhiệm vụ của Hội đồng sẽ đánh giá, thẩm định toàn diện
khách quan các dự án đầu tư của DNNN. Các kết luận của Hội đồng sau đó sẽ được công bố rộng rãi.
Đồng thời, Hội đồng cũng đánh giá hiệu quả của DNNN theo các tiêu chí về lợi nhuận, công nghệ, tạo
công ăn việc làm, đóng góp vào ngân sách... dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch các thông tin về
hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, Chính phủ cần tiếp tục cổ phần hóa, tái cấu trúc các DNNN hoạt
động trong lĩnh vực kinh doanh, và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn cho các doanh nghiệp tư
nhân trên thị truờng.
Thứ tư, cải thiện nguồn thu ngân sách một cách bền vững hiệu quả. Hiện nay, theo lộ trình cam kết WTO
Việt Nam phải cắt giảm thuế nhập khẩu với các nước trong khu vực và trên thế giới nên nguồn thu ngân
sách tập trung chủ yếu vào thuế trong nước. Tuy nhiên, nếu tăng thuế để gia tăng nguồn thu sẽ không
khuyến khích doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (nếu tăng thuế thu nhập doanh nghiệp) và không khuyến
khích tiêu dùng của cá nhân hộ gia đình (nếu tăng thuế thu nhập cá nhân), làm giảm tổng cầu và tăng
trưởng kinh tế. Hơn nữa, gánh nặng thuế cao sẽ khiến hệ thống thuế hoạt động kém hiệu quả, dẫn đến tình
trạng trốn thuế, phân bổ nguồn lực bị bóp méo.
Vì vậy, để gia tăng nguồn thu cần việc thực hiện khâu cải cách hệ thống thuế, đặc biệt thuế thu nhập cá
nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi con số này ở các nền kinh tế phát triển đều
lớn hơn 20%). Thực hiện đánh thuế vào một số nguồn thu nhập từ đầu tư như thuế thu nhập bất động sản,
thuế thu nhập vàng, thuế thu nhập chứng khoán... Đây là những nguồn thu nhập lớn, sẽ góp phần tăng
nguồn thu cho NSNN. Ngoài ra, muốn nguồn thu ngân sách tăng lên cần thực hiện triệt để nguồn thu,
chống tình trạng trốn lậu thuế, tăng cường công tác kiểm tra nhằm chống và ngăn chặn hiện tượng khai
báo thuế sai sự thật của các doanh nghiệp, cá nhân.
Theo Tạp Chí Ngân hàng
Lựa chọn mô hình tăng trưởng thời kỳ hậu khủng hoảng (Bài viết tháng 4/2014)
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội trong một thời gian nhất định, thường là
một năm. Đó cũng là sự tăng lên về quy mô GDP ở một quốc gia của năm sau so với năm trước.
Mô hình tăng trưởng kinh tế, có thể hiểu một cách nôm na, đó là cách thức tổ chức huy động và sử dụng
các nguồn lực để đảm bảo có sự tăng trưởng về kinh tế qua các năm, với một tốc độ hợp lý. “Cách thức”
nói ở đây là rất đa dạng, bao gồm cả đầu vào (là gia công, sản xuất, chế biến hay dịch vụ là chủ yếu); đầu
ra (hướng nội hay hướng ngoại là chủ yếu); phát triển các vùng, miền, các loại hình doanh nghiệp, tập
đoàn; sự phối hợp giữa Nhà nước và thị trường trên từng lĩnh vực… Lựa chọn theo cách nào, áp dụng mô
hình nào là tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm, tình hình cụ thể ở mỗi nước trong mối quan hệ với thế giới
đương đại và được quyết định bởi ý chí chủ quan của lãnh đạo mỗi nước.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra năm 2008-2009 vừa gây thiệt hại, và làm suy thoái về kinh
tế, vừa làm bộc lộ rõ những khuyết tật về mô hình tăng trưởng và về cơ cấu kinh tế của thế giới và trong
từng nước. Qua cuộc khủng hoảng này đã nổi lên nhiều ý kiến khác nhau về các mô hình tăng trưởng kinh
tế hiện hữu. Trên hết là có nhiều ý kiến phê phán mô hình tăng trưởng kinh tế theo chủ nghĩa tự do mới,
họ cho rằng không thể thiếu bàn tay hữu hình của Nhà nước và nếu phó mặc cho thị trường tự điều chỉnh
thì sớm muộn gì cũng dẫn đến tự phát và đổ vỡ. Trước những khó khăn của việc đẩy mạnh xuất khẩu,
một số nước ở châu Á đã hướng vào thị trường trong nước để duy trì tăng trưởng kinh tế, nên cũng đã có
ý kiến chỉ trích mô hình tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu. Các học thuyết về tăng trưởng kinh tế
được mang ra soi xét như một cách tìm ra lối thoát để chống suy giảm kinh tế.
Trong tình hình như vậy, một thực tế đã và đang diễn ra là cả thế giới, trước hết là các nền kinh tế lớn như
Mỹ, Nhật Bản, châu Âu đang tìm cách thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống hiện nay để
tìm đường chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, khác trước. Đặc biệt là Mỹ đã có sự thay đổi phương
châm mang tính chiến lược, từ nhập khẩu và tiêu dùng, sang xuất khẩu và tiết kiệm. Trong bối cảnh đó, rõ
ràng Việt Nam đang ở vào tình thế vừa phải thích nghi với bối cảnh thế giới mới đang cạnh tranh quyết
liệt hơn so với trước, vừa phải tự mình tìm con đường phù hợp hơn để chuyển sang một giai đoạn phát
triển mới để có thể đứng vững và tiếp tục phát triển đi lên. Vậy Việt Nam lựa chọn mô hình nào cho sự
tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới?
Trước hết cần nhìn lại chính mình trong thực tại cũng như thời gian đã qua. Những gì chúng ta đã làm
trong 25 năm đổi mới vừa qua có thể giúp ta tự đánh giá và rút ra bài học thiết thực và bổ ích. Vào những
năm chín mươi của thế kỷ trước, trong điều kiện là nước kém phát triển thu nhập đầu người chỉ ở mức
hơn 200 USD một năm, lại trong tình thế khủng hoảng của cả hệ thống, thì việc tập trung mọi nguồn lực
vào Nhà nước để tăng trưởng là đúng; việc tập trung sự tăng trưởng vào kinh tế quốc doanh là cần thiết.
Điều đó phù hợp với nguyên lý chung là những gì mà nhân dân chưa có điều kiện làm thì Nhà nước phải
làm như một sự mở đường để tạo điều kiện ban đầu cho nhân dân tự làm. Việc thu hút mạnh mẽ các lực
lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng hết sức cần thiết, vừa góp phần thúc đẩy tăng trưởng về kinh tế,
vừa góp phần củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trong cộng đồng quốc tế và từng bước hội nhập kinh
tế với các nước trong khu vực và thế giới. Rõ ràng những việc làm đúng thì bao giờ cũng mang lại kết quả
cụ thể. Cùng với việc thoát hiểm để trụ vững, nước ta đã bước lên hàng của những nước có mức thu nhập
trung bình, bình quân đầu người đạt trên 1000 USD một năm. Việt Nam
là một trong số các nước đạt kết quả cao trong xóa đói giảm nghèo và có đời sống kinh tế phát triển khá,
xã hội ổn định. Có thể thấy việc sử dụng bàn tay hữu hình của Nhà nước trong tăng trưởng kinh tế ở thời
kỳ đầu đất nước còn chưa phát triển là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thắng lợi to lớn
trong 1/4 thế kỷ đổi mới ở nước ta. Thực tế ấy cũng đã củng cố thêm niềm tin trong khá nhiều người, cho
rằng nếu không có lực lượng kinh tế quốc doanh, nếu không dựa chủ yếu vào các tập đoàn kinh tế của
Nhà nước thì làm sao có thể vượt qua khó khăn, hiểm nghèo để phát triển được như hôm nay?
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hôm nay là cần tỉnh táo để suy xét tìm ra cách thức mới cho sự tăng trưởng cao
hơn ở giai đoạn tiếp theo, phù hợp với tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi. Không nên bằng lòng với
những kết quả tăng trưởng kinh tế hiện nay; cũng không nên coi những lời khen ngợi mang nặng tính
ngoại giao đối với nước ta là những điều hoàn toàn đúng để yên tâm duy trì các cách thức tăng trưởng
như đã có. Đơn giản chỉ là những việc làm đúng với ngày hôm qua thì chưa hẳn đã đúng với ngày hôm
nay vì bối cảnh hôm nay đã khác hẳn so với hôm qua. Do đó nếu duy trì cách thức như đã làm của ngày
hôm qua thì rất có thể lại đưa đến kết quả ngược lại, không theo như mong đợi.
Những hạn chế trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay
Đi vào thực chất của vấn đề thì phải thấy rằng những gì chúng ta coi là thành tích chỉ mới là so sánh giữa
kết quả của chúng ta hôm nay với kết quả của chúng ta hôm qua và cũng chỉ trên số tương đối (% vốn chỉ
là chỉ tiêu có tính hai mặt, dễ bị cường điệu hóa). Nếu đem so sánh kết quả đạt được của chúng ta hôm
nay với các nước trong khu vực, trên cả mặt số lượng và chất lượng tăng trưởng thì sẽ thấy rõ hơn, thực
chất hơn về những nguy cơ hiện hữu và tiềm ẩn trong mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta hiện nay.
Đó là:
- Chất lượng tăng trưởng của nước ta ngày càng thấp. Chất lượng tăng trưởng thể hiện ở chỉ số ICOR và
sự gia tăng thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ở các vùng miền trong cả nước. Xét về chỉ số ICOR, nhiều
số liệu đã tính toán cho thấy: năm 2006 là khoảng 5, năm 2007 là hơn 5,2, năm 2008 là gần 7 và năm
2009 là 8, trong khi ở các nước trong khu vực, kể cả Trung Quốc, thì trong cùng thời gian chỉ số này đều
dưới 4. Những con số này cho thấy nguy cơ là tăng trưởng kinh tế ở nước ta đắt hơn nhiều lần so với các
nước và đang có xu hướng ngày càng đắt thêm lên. Như vậy làm sao có thể trụ vững trong thế giới cạnh
tranh ngày càng khốc liệt hơn. Nói nôm na là chúng ta đi buôn nhưng đều mua đắt, bán rẻ thì tất yếu dẫn
đến mất vốn, nói gì đến lãi. Xét về sự gia tăng thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ở các vùng miền trong
cả nước thì càng thấy nguy cơ về sự ổn định xã hội hiện nay là khó bền vững. Tăng trưởng kinh tế chỉ bền
vững khi nó mang lại thu nhập ổn định cho đại bộ phận dân nghèo ở khắp các vùng miền trong cả nước.
Thu nhập bình quân chung của cả nước thì có tăng qua các năm, nhưng nếu so sánh mức thu nhập của
20% số người có thu nhập cao với mức thu nhập của 20% số người có thu nhập thấp trong cả nước thì con
số này ở nước ta hiện nay không dưới 20 lần, là khá cao và đang có xu hướng tăng lên. Một thực tế nữa là
tuy đứng vào hàng đầu của các quốc gia xuất khẩu gạo, nhưng không phải ở nước ta đã không còn những
mảnh đời đói khổ do không có thu nhập. Đây là nguy cơ chính dễ dẫn đến mất ổn định nhất.
- Chất lượng cuộc sống ngày càng xuống cấp thể hiện khá rõ trên những lĩnh vực chủ yếu như giáo dục, y
tế, ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội đã đến mức báo động và đang có xu hướng tăng
cao.
- Thu chi NSNN ngày càng thâm hụt lớn. Thu chi NSNN là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh chất lượng và sự
bền vững của mô hình tăng trưởng kinh tế. Thâm hụt Ngân sách ở nước ta từ năm 2000 đến nay trung
bình là trên 5% GDP/năm, năm 2009 là gần 7% và dự kiến năm 2010 chưa xuống dưới 6,5%. Nợ Chính
phủ đã lên tới khoảng 40% GDP. Một đặc điểm nổi lên trong thu, chi NSNN là trong suốt 25 năm đổi mới
vừa qua, thu NSNN năm nào cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra, số thu năm sau đều tăng cao so
số thu năm trước, có năm tăng tới gần 30% như năm 2006, 2007. Nhưng chi ngân sách còn tăng cao hơn
nên thâm hụt ngày càng lớn và chưa có hướng bù đắp cho đủ.
- Nhập siêu ngày nghiêm trọng và chưa có dấu hiệu dừng lại. Trong suốt 25 đổi mới hầu như nước ta luôn
luôn nhập siêu. Nhập siêu giai đoạn trước năm 2005 bình quân gần 5 tỷ đô la Mỹ một năm, nhưng đến
năm 2007 đã tăng gấp hơn 2 lần, với mức trên 12 tỷ USD, năm 2008 nhập siêu gần 20 tỷ USD. Trong đó
nhập siêu lớn nhất lại từ các nước Châu Á, là các nước có công nghệ thấp.
- Với mô hình hiện nay thì càng tăng trưởng thì lại càng có nhiều ách tắc và mất cân đối lớn. Những ách
tắc lớn nhất mà ở tầm quốc gia chúng ta đã nhận xét, đánh giá là: hạ tầng cơ sở yếu kém chưa tạo thuận
lợi cho đầu tư phát triển, kể cả ở thành thị, nông thôn và miền núi, nguồn nhân lực đông đảo nhưng kỹ
năng, tay nghề kém, không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển trước mắt và lâu dài; thể chế kinh tế
còn nhiều yếu kém, chưa tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư. Với những ách tắc cơ bản đó, nhiều nguy
cơ đã được cảnh báo từ trước chẳng những không được đẩy lùi mà còn có xu hướng gia tăng, như nguy cơ
chệch hướng, tụt hậu, tham nhũng lãng phí và diễn biến hòa bình
Khắc phục những khiếm khuyết của mô hình tăng trưởng kinh tế hiện nay như thế nào?
Phân tích trên cho thấy trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay có nhiều khiếm khuyết
mang tính hệ thống. Theo chúng tôi, để khắc phục nhưng hạn chế này cầntập trung vào mấy điểm chính
sau đây:
+ Phải thực sự cởi trói, mở cửa, phát huy mọi nguồn lực của đất nước cho đầu tư phát triển, chấn hưng đất
nước. Muốn vậy, có hai điểm quan trọng, một là trong mọi chủ trương phát triển kinh tế - xã hội phải đặt
tiêu chí năng suất, chất lượng, hiệu quả lên trên hết. Ai xin làm cũng được, miễn là phải năng suất, chất
lượng, hiệu quả thì mới mang lại tăng trưởng thực sự. Ngay cả với những lĩnh vực mà trước đây hay đề
cao vai trò của hiệu quả xã hội, như giáo dục, y tế, văn hóa, kể cả từ thiện… cũng phải coi trọng hiệu quả
về kinh tế thì mới có hiệu quả xã hội thực sự. Hai là chủ trương nói trên phải được thể chế hóa thành pháp
luật cụ thể thì mới vận hành được trong cơ chế thị trường.
+ Phải cải cách một cách căn bản lĩnh vực thu – chi NSNN. Thu NSNN không nên vượt quá chỉ tiêu mà
các Đại hội Đảng đã rất cân nhắc và quyết định là vào khoảng 21-22% GDP. Với số dân ngày một tăng
lên và mức thu nhập còn thấp so với các nước, mức động viên vào NSNN không thể tới 1/4 số GDP làm
ra hàng năm. Có như vậy mới khuyến khích tinh thần hăng say lao động và mới tạo điều kiện cho nhân
dân tiết kiệm để đầu tư. Chi NSNN trước hết tập trung vào vấn đề an sinh xã hội để khắc phục kịp thời
mặt trái của kinh tế thị trường đang trực tiếp tác động tới phần lớn nhân dân có thu nhập thấp đang dễ bị
tổn thương, nhất là ô nhiễm môi trường nặng như hiện nay. Một phần quan trọng của chi NSNN là khẩn
trương cải cách chế độ tiền lương để tạo tiền đề cho cải cách hành chính; để tạo điều kiện cho việc khôi
phục lại lòng tự trọng, tính nhân văn và tinh thần trách nhiệm, ý chí cách mạng trong số đông cán bộ, bộ
đội, công nhân, trí thức và người lao động trên mặt trận đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Hạn chế đến mức
thấp nhất việc lấy NSNN để cấp vốn cho doanh nghiệp, để đầu tư phát triển kinh tế.
+ Phải tập trung sức và đổi mới lĩnh vực thể chế đường lối phát triển kinh tế ở nước ta. Chủ trương đường
lối nhất quán của Đảng ta là “ dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh: và Nhà nước
ta là “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” cho nên nhiệm vụ cốt yếu của bộ máy nhà nước của nước ta
trong thời gian tới là đổi mới cách thức ban hành một hệ thống luật pháp phù hợp với tình hình mới, nhằm
vào việc thực hiện các mục tiêu nói trên. Trong đó chú trọng vấn đề đồng bộ, kịp thời, nhất quán và nhằm
vào khắc phục những khiếm khuyết của thời gian qua như vấn đề sở hữu, vấn đề thành phần kinh tế, vấn
đề đầu tư và thu hút đầu tư, vấn đề đất đai, tài nguyên, vấn đề lao động và việc làm. Đây là vấn đề hết sức
quan trọng nhằm biến thách thức thành cơ hội, phát huy lợi thế của nước đi sau là tranh thủ tận dụng
những thành quả của nhân loại về mọi mặt, trong đó có khoa học và công nghệ. Rõ ràng ai cũng thấy yếu
tố quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia trong thời đại ngày nay không phụ thuộc nhiều vào
những gì đã có, mà phụ thuộc chủ yếu vào cách thức lựa chọn mô hình tăng trưởng phù hợp với lợi thế
riêng có để vươn lên khỏi cái bẫy thu nhập trung bình như đã thấy ở nhiều nước.
Với những phân tích trên, chúng tôi tin rằng thể chế kinh tế thị trường có chất lượng cao sẽ là mô hình lựa
chọn cho tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong các thập niên sắp tới./.
PGS., TS. Quách Đức Pháp
Thâm hụt ngân sách, lạm phát và mất cân đối vĩ mô
Nhìn vào những nước đã từng trải qua lạm phát cao sẽ thấy rằng, lạm phát ở những nước này thường là hệ
quả của việc in tiền nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Như vậy, thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất
yếu dẫn tới việc nhà nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều này đến lượt nó dẫn
tới lạm phát.
Từ góc độ này nhìn lại nền kinh tế Việt Nam, mặc dù Luật Ngân sách 1993 không cho phép nhà nước in
tiền để tài trợ thâm hụt ngân sách, nhưng với lượng tiền đồng trong lưu thông lớn như hiện nay (khoảng
16% GDP) thì chỉ cần duy trì tốc độ in thêm tiền đúng bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế (giả sử là 8%) thì
nhà nước cũng đã có thêm được 1,3% GDP để tài trợ cho thâm hụt ngân sách (chưa kể đến “thuế lạm
phát” cao ở Việt Nam trong mấy năm qua).
Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan khác, thì lạm phát ở Việt Nam còn do đầu tư công và nền hành
chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính sự kém hiệu quả này, đến lượt mình, lại
làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng, và “vòng xoáy đi xuống” của kinh tế vĩ
mô sẽ lại tiếp diễn. Cũng cần nhấn mạnh thêm là “dòng xoáy đi xuống” này một khi đã được khởi động
thì rất khó dừng lại chứ đừng nói tới khả năng đổi chiều. Vì vậy, nhóm giải pháp thứ hai của Thủ tướng
yêu cầu “cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát
chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách” cần phải được
thực hiện một cách triệt để và nhất quán. Nếu không giảm được thâm hụt ngân sách thì nhóm giải pháp
thứ nhất - thắt chặt tiền tệ - sẽ bị vô hiệu hóa đáng kể, và vì vậy không thể đạt được mục tiêu mong muốn
là kiềm chế lạm phát.
Bài viết này sẽ thảo luận thêm một số vấn đề liên quan đến tình trạng thâm hụt ngân sách ở Việt Nam, sau
đó bình luận một số biện pháp nhằm thắt chặt chi tiêu công của Chính phủ, và cuối cùng trình bày một số
khuyến nghị về chính sách.
Tại sao cần giảm thâm hụt ngân sách?
Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay đã tới mức đáng báo động. Theo số liệu chính thức, thâm hụt
ngân sách của nước ta hiện nay là 5% GDP (bao gồm cả tiền trả nợ gốc và không bao gồm các khoản chi
ngoài dự toán). Thế nhưng theo ước tính của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) thì thâm hụt ngân sách
của Việt Nam - theo cách tính quốc tế, không bao gồm tiền trả nợ gốc nhưng bao gồm các khoản chi
ngoài dự toán - lên tới 7% GDP (Hình 1). Không những thế, thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong mấy
năm trở lại đây luôn được duy trì ở mức cao, và đặc biệt tăng mạnh trong năm 2007.
Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia
tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Ở Việt Nam, mặc dù thâm hụt ngân sách tăng đột biến trong
năm 2007chưa làm suy giảm tiết kiệm nội địa và đầu tư tư nhân nhưng nó đã làm tăng mức thâm hụt tài
khoản vãng lai, từ -0,5% năm 2006 lên tới -8% năm 2007. Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm
xói mòn niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát kỳ
vọng của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền
để tài trợ thâm hụt. Tóm lại, thâm hụt ngân sách cao kéo dài sẽ đe dọa sự ổn định vĩ mô, và do vậy, khả
năng duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.
Các biện pháp giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ dealers_license_2.gif
Vì được đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách ngân sách (hay chính sách tài khóa) của Chính
phủ trong thời gian qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công (gồm đầu tư công và chi thường
xuyên) và qua đó giảm tổng cầu. Cụ thể là Chính phủ chỉ thị: (i) Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và
tín dụng nhà nước; (ii) Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước
(DNNN); (iii) Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp.
Tổng đầu tư của Nhà nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước và thông qua DNNN) luôn chiếm trên dưới
50% tổng đầu tư của toàn xã hội (Hình 2). Vì vậy, không nghi ngờ gì, nếu Nhà nước có thể cắt giảm một
số khoản đầu tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn sẽ nhẹ đi.
Cũng tương tự như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các cơ quan nhà nước có thể cắt giảm
chi thường xuyên (chiếm 56% tổng chi ngân sách năm 2007).
Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu công là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu lực của những biện pháp cụ
thể đến đâu thì còn chưa chắc chắn vì ít nhất có bốn lý do.
Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng, nhất là khi những dự án này
đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyết định; đã được đưa vào quy hoạch của các bộ, ngành, địa
phương; đã được triển khai; và nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết thân của những cơ quan liên quan
đến dự án.
Thứ hai, Nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các DNNN, một mặt là do chính
sách phân cấp trong quản lý đầu tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã tự thành lập ngân hàng
riêng.
Thứ ba, với tốc độ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng mức đầu tư công theo đúng dự toán
cũng đã được coi là một thành tích đáng kể.
Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng vì việc giảm chi thường xuyên rất khó khăn nên đây thường là
hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm. Hơn thế, với thực tế ở Việt Nam thì phạm vi chi
thường xuyên có thể cắt giảm không nhiều. Đầu tiên là phải trừ đi quỹ lương (chiếm khoảng 2/3 tổng chi
thường xuyên), sau đó phải trừ đi các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi chính sách chế độ, tiền đóng
niêm liễn cho các tổ chức quốc tế, các khoản chi thường xuyên đã được thực hiện v.v… Theo ước lượng
của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì nếu làm thật quyết liệt thì sẽ giảm được khoảng 3.000 tỉ đồng
chi hội họp và mua sắm xe - tức là giảm được khoảng 0,8% tổng chi ngân sách.
Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư công
Chính sách giảm tổng cầu thông qua thắt chặt chi tiêu công là đúng đắn, cần thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực
giảm chi tiêu công của Chính phủ chỉ thực sự có hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có cơ chế để đảm
bảo những khoản đầu tư còn lại có hiệu quả. Đầu tiên là phải có cơ chế quản lý đầu tư công sao cho
những dự án kém hiệu quả (như chương trình 5 triệu tấn đường hay đánh bắt xa bờ) bị loại bỏ ngay từ
đầu. Sau đó, phải đảm bảo dự án được tiến hành đúng tiến độ và không bị thất thoát, lãng phí (như dự án
112 và các dự án đầu tư xây dựng cơ bản - được ước lượng là thất thoát trung bình 30%).
Một trong những biện pháp có thể được sử dụng để cải thiện cơ chế quản lý đầu tư công là thành lập một
hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng thất thoát, lãng phí
trong đầu tư công là do quá trình ra quyết định đầu tư của chính quyền địa phương và các bộ ngành chủ
quản chịu ảnh hưởng của các nhóm lợi ích và do vậy thiếu khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của ủy ban độc
lập này là đánh giá, thẩm định một cách toàn diện và khách quan các dự án có quy mô vượt quá một quy
mô đầu tư nhất định nào đó. Kết luận của Hội đồng thẩm định này sau đó được công bố rộng rãi. Tương
tự như vậy, báo cáo kiểm toán các DNNN và dự án đầu tư công lớn cũng phải được công khai.
Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu, Chính phủ cũng cần cải thiện các
nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều (tới hơn 40%) vào các nguồn thu
không bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá
nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi con số này ở các nền kinh tế hiện đại đều
lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Thật bất công và kém hiệu quả khi nhiều người sau một đêm trở
thành triệu phú nhờ vào việc Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng (CSHT) tại nơi họ có bất động sản, trong khi
lại không phải đóng góp gì cho ngân sách nhà nước. Áp dụng thuế bất động sản đúng đắn là một cách
đảm bảo sự bền vững cho ngân sách nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện được các chương trình
đầu tư CSHT vì quốc kế dân sinh.
Những khó khăn hiện tại của nền kinh tế Việt Nam bắt nguồn từ những bất cập trong chính sách phát triển
dài hạn. Chủ trương tăng trưởng nhờ vào số lượng thông qua đầu tư ồ ạt, dựa vào khu vực nhà nước vốn
kém hiệu quả, đồng thời thiếu sự phối hợp đồng bộ trong điều hành vĩ mô đã đưa nền kinh tế Việt Nam từ
bối cảnh sau khi gia nhập WTO vô cùng thuận lợi đến tình trạng lạm phát và bất ổn vĩ mô như hiện nay.
Vẫn còn may là những khó khăn của Việt Nam hiện nay hoàn toàn có thể giải quyết được nếu Chính phủ
có quyết tâm mạnh mẽ và chính sách đúng đắn, trong đó kỷ luật tài khóa là điều kiện quan trọng nhất.
Thắt chặt và nâng cao hiệu quả của chi tiêu công, đặc biệt là áp đặt kỷ luật nghiêm ngặt đối với hoạt động
đầu tư của các tập đoàn nhà nước là điều kiện tiên quyết để có thể khôi phục lại cân bằng vĩ mô và gia
tăng hiệu quả, tính ổn định và đà tăng trưởng cho nền kinh tế.
Nguồn: GSO, MOF, MPI
Thâm hụt ngân sách nhà nước.
Do quy mô vay nợ ngày càng tăng lên và nhiều khoản vay đã bắt đầu đến kỳ hạn trả nợ nên trong cơ cấu
chi NSNN thì chi trả nợ (cả lãi và gốc) đang bắt đầu tăng nhanh.
Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2014 với các chủ đề về kinh tế vĩ mô đang diễn ra tại Hạ Long trong 2 ngày,
từ 28/04 đến 29/04.
Tham luận của Tiến sỹ Vũ Chí Cường (Học viên tài chính) với chủ đề: “Chính sách tài khóa năm 2014 và
trong trung hạn: Những thuận lợi và khó khăn” đánh giá:
“Chính sách tài khóa trong ngắn hạn vẫn tiếp tục đứng trước những khó khăn rất lớn mà nếu không có
những cải cách triệt để thì có thể lại ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế vĩ mô trong tương lai”
Những khó khăn rất lớn
Theo dự toán NSNN năm 2014 đã được Quốc hội phê chuẩn thì số thu ngân sách được dự báo là 782.700
tỷ đồng, số chi là 1.006.700 tỷ đồng và bội chi dự kiến là 224.000 tỷ đồng- tương đương 5,3% GDP.
Tiến sỹ Vũ Chí Cường nhận xét, ngân sách nhà nước (NSNN) đang đứng trước những thách thức đối với
sự bền vững. Đến năm 2013, cơ cấu thu NSNN vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào các nguồn thu có tính ổn
định không cao và không bền vững như thu từ dầu thô, thu từ tiền sử dụng đất, thu từ hải quan.
Về nguồn thu từ thuế, trong ngắn hạn, nguồn thu NSNN có thể giảm do thay đổi chính sách thuế. Theo
Luật thuế TNDN đã được Quốc hội thông qua, từ 1/1/2014 thuế suất thuế TNDN sẽ chỉ còn 22% so với
25% trong các năm trước. Thu thuế xuất nhập khẩu cũng có thể giảm đi khi Việt Nam tiếp tục cắt giảm
thuế suất theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và cam kết theo Hiệp định thương mại hàng
hóa ASEAN giai đoạn 2012-2014.
Khi đó, quy mô thu ngân sách giảm nhanh “nếu không đi kèm với việc giảm quy mô chi tiêu tương ứng
thì sẽ có nguy cơ làm tăng thâm hụt ngân sách và nợ công”.
- Xem thêm -