Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chuyên ngành kinh tế Tài liệu tham khảo về dịch vụ ngân hàng thương mại (2)...

Tài liệu Tài liệu tham khảo về dịch vụ ngân hàng thương mại (2)

.DOC
30
170
118

Mô tả:

Dịch vụ ngân hàng hiện đại tại Việt Nam TCKT cập nhật: 01/06/2006 1. Những yếu tố tác động ° Mức độ phát triển kinh tế xã hội (thu nhập bình quân đầu người, dân số …) ° Cơ sở pháp lý (các luật, văn bản dưới luật) về thương mại điện tử còn thiếu, một số luật hiện hành có những qui định chưa phù hợp với điều kiện ứng dụng công nghệ mới theo phương thức tự động hoá đang là những khó khăn bức xúc đói với hoạt động ngân hàng hiện nay. ° Cơ sở hạ tầng công nghệ (hạ tầng công nghệ quóc gia, trong các ngân hàng, các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế). Những năm gần đây mạng truyền thông quốc gia được đầu tư trang bị, nâng cấp lên rất nhiều. Tuy nhiên, hệ thống kênh truyền số liệu chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, chưa thành hệ thống mạng quốc gia mà đang trong tình trạng ai cần thì đầu tư, gây không ít khó khăn cho phát triển nhanh ứng dụng công nghệ thông tin. Sự phát triển công nghệ thông tin không đồng đều giữa các cơ quan, các tổ chức kinh tế xã hội, giữa các vùng kinh tế cũng là những khó khăn cho mở rộng các dịch vụ ngân hàng nói riêng và hiện đại hoá ngân hàng nói riêng. ° Tổ chức mạng lưới dịch vụ của các ngân hàng. Do qui mô và tính chất hoạt động của mỗi ngân hàng rất khác nhau, nên mỗi ngân hàng tổ chức mạng lưới riêng của mình. Có ngân hàng chỉ tổ chức với 4-5 chi nhánh ở vùng kinh tế phát triển, ngược lại có ngân hàng tổ chức mạng lưới chi nhánh khắp cả nước với hàng ngàn chi nhánh lớn nhỏ. Do vậy, mức độ sử dụng vốn đầu tư và mức độ trang bị kỹ thuật cũng rất khác nhau. Có ngân hàng đã tập trung hoá tài khoản toàn hệ thống, giao dịch theo phương thức online nhưng có ngân hàng vẫn thực hiện theo giải pháp phân tán. Công nghệ được áp dụng cũng rất khác nhau nhiều ngân hàng đã áp dụng công nghệ hiện đại như hệ điều hành UNIX, cơ sở dữ liệu thế hệ 4, nhưng nhiều ngân hàng đang phải dùng các sản phẩm phần mềm viết bằng Foxpro… ° Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng và quyết định cho mọi thành công. Trong hệ thống ngân hàng Việt nam nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin của các ngân hàng cũng rất khác nhau kể cả về số lượng và chất lượng cán bộ, kỹ sư. việc tuyển dụngvà đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ sư tin học chuyên nghiệp cho ngân hàng là một vấn đề khó khăn, tuyển vào đã khó, dữ được người làm việc càng khó hơn. Mặt khác đối với cán bộ nghiệp vụ ngân hàng cũng cần thương xuyên được nâng cao trình độ về mọi mặt mới theo kịp được trình độ phát triển của công nghệ. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng mà bất kỳ ngân hàng nào ở VN cũng phải quan tâm và tích cực thực hiện. ° Trình độ dân trí, thói quen, phong tục tập quán của dân cư. Yếu tố này cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc các ngân hàng phát triển các dịch vụ hiện đại. Trong các thói quen đặc biệt có tính phổ biến của người Việt Nam là thích dùng tiền mặt trong quan hệ mua bán. Chính yếu tố này đã tác động không nhỏ đến hoạt động ngân hàng khi đưa ra xã hội các dịch vụ hiện đại. ° Mục đích kinh doanh của mỗi ngân hàng là yếu tố quan trọng để các ngân hàng đưa ra những yêu cầu cụ thể cho đầu tư công nghệ saocho đạt hiệu quả cao nhất. 2. Thực trạng kinh tế, xã hội VN - Dân số trên 80 triệu (trong đó 80% là nông dân có thu nhập thấp). Tốc độ tăng trưởng GDP cao nhưng vẫn nằm trong số các nước nghèo. - Thu nhập bình quân đầu người 400 USD/người. - Hệ thống ngân hàng có vốn pháp định nhỏ 200-250 triêu USD. Ngân hàng có vốn pháp định lớn nhất cũng chỉ bằng vốn của một ngân hàng nhỏ trong khu vực. - Dịch vụ NH mới phát triển: Nhiều nhất 36 dịch vụ; ít nhất 3 dịch vụ. Những dịch vụ hiện đại ngân hàng VN đã áp dụng có hiệu quả. (1). Những dịch vụ hiện đại các ngân hàng đã áp dụng: - 8 NH đã có hệ thống kế toán tập trung tài khoản kết nối online. - 55 NH và 215 chi nhánh tham gia hệ thống TTĐT liên NH. - Ngân hàng đã có máy ATM:15/48. - Ngân hàng đã phát hành thẻ nội địa:17/48. - Ngân hàng đã phát hành thẻ quốc tế:5/48. - Tham gia thanh toán quốc tế: 42/48. - Thanh toán nội địa so với năm 2003 có 3/48 ngân hàng tăng từ 350-520%. - Thanh toán quốc tế so với năm 2003 có 3/48 ngân hàng tăng từ 100-134% (2). Số liệu chi tiết máy ATM, thẻ thanh toán và tài khoản cá nhân: - Máy ATM: 1.107 máy, đến tháng 12/2005 dự kiến lắp thêm: 1.830 máy và đến 2006-2010 lắp thêm khoảng 6.325 máy. Khách hàng sử dụng máy ATM tăng đáng kể, do vậy việc lắp đặt thêm máy ATM đang được thực hiện tích cực. Đi đôi với tăng cường số lượng máy ATM việc xây dựng trung tâm chuyển mạch để kết nối các máy ATM và các thiết bị đầu cuối của các ngân hàng lại với nhau cũng đang khẩn trương triển khai. - Tài khoản cá nhân đã mở tại các ngân hàng là 6.201 nghìn tài khoản. trong đó: + ngân hàng thương mại quốc doanh có: 5.399 nghìn tài khoản + ngân hàng thương mại cổ phần có: 742 nghìn tài khoản + các ngân hàng còn lại: 59 nghìn tài khoản. Đi đôi với việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng khách hàng tư nhân của các ngân hàng thương mại cũng đã quan tâm tới việc mở và sử dụng tài khoản tư nhân, trước hết là cho dịch vụ ATM. - Số lượng thẻ thanh toán: Thẻ phát hành nội địa tính đến 30.5.2005 có 1.103 nghìn chiếc; dự kiến đến tháng 12.2005 phát hành thêm 1.576 nghìn chiếc; ước tính từ 2006 đến 2010 sẽ phát hành thêm 12.117 chiếc. Thẻ quốc tế đã phát hành 122 nghìn thẻ; dự tính đến tháng 12.2005 phát hành thêm 62 nghìn thẻ; ước tính từ 2006 đến 2010 phát hành thêm 2.197 thẻ. Qua số liệu thống kê cho thấy mức độ tăng trưởng thẻ trong nước nhanh hơn thẻ quốc tế. Từ cuối năm 2004 đến đầu năm 2005 số lượng phát hành thẻ trong nước tăng đột biến. Đối tượng dùng thẻ chủ yếu là sinh viên và công nhân làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. - Tương ứng với việc phát hành và sử dụng thẻ thanh toán trong ngân hàng giá trị giao dịch bằng thẻ cũng tăng lên đáng kể. Theo số liệu thống kê số tiền giao dịch bằng thẻ đang tăng lên. Cụ thể, thẻ nội địa: Tổng số thanh toán tính đến 30.4.2005 đạt 11.480 tỷ đồng. Trong đó thanh toán bằng tiền mặt chủ yếu rút từ máy ATM là 10.459 tỷ đồng; chuyển khoản 972 tỷ đồng; các dịch vụ khác 49 tỷ đồng. Tổng doanh số thanh toán quốc tế đạt 1.597 tỷ đồng; trong đó tiền mặt là 1.527 tỷ đồng, chuyển khoản 72 tỷ đồng, không có các dịch vụ khác. Qua số liệu thống kê cho thấy doanh số thanh toán bằng thẻ tương đối lớn. Tuy nhiên chủ yếu thanh toán trong nước và bằng tiền mặt. Thanh toán nước ngoài và chuyển khoản còn rất hạn chế. - Thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng trưởng rất nhanh, nếu năm 2002 khi hệ thống mới đưa vào hoạt động, mỗi ngày hệ thống chỉ giao dịch khoảng từ 2.000 đến 4.000 món. Nhưng đến nay đã tăng lên gấp bội, bình quân 10.000-18.000 giao dịch /ngày. Đặc biệt so với thiết kế hệ thống đã chịu tải tăng gấp 7 lần. Thiết kế ban đầu dự kiến chỉ có 7 ngân hàng thương mại tham gia, nay đã lên tới 54 ngân hàng; dự kiến 100 -150 chi nhánh được kết nối nay đã có tới 215 chi nhánh đã kết nối. Một số Thành phố hệ thống đã quá tải như TP.HCM và Hà Nội. 3. Dự báo tốc độ tăng trưởng - Số món giao dịch tăng: 31% năm - Doanh số thanh toán (tiền) tăng: 24% năm Với tốc độ tăng trưởng như trên, thì sau 2,5 năm tăng trưởng 200% số món; sau 3,5 năm tăng 200% số tiền. - Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng: 20-25 ngàn giao dịch ngày, số tiền 10-15 ngàn tỷ đồng/ ngày - ATM 6,5 triệu-7 triệu chiếc - Thẻ thanh toán 13-15 triệu, số tiền thanh toán 21-25 ngàn tỷ đồng - Tổng số món thanh toán trong nền kinh tế: 8-15 triệu/ngày thay vì từ 2 đến 3 triệu giao dịch trực tuyến/ ngày tại các ngân hàng thương mại như hiện nay. - Các dịch vụ điện tử như Internet banking, Ebanking, Telbanking….sẽ phát triển nhanh và chóng trở thành những dịch vụ được khách hàng và ngân hàng chấp nhận như một giao dịch truyền thống không thể thiếu trong hoạt động ngân hàng. 4. Những tác động chính (1). Thay đổi mô hình tổ chức, phương pháp điều hành, phương thức giao dịch của NH. Cùng với việc đầu tư trang bị kỹ thuật, hiện đại hoá ngân hàng, việc tổ chức lại mô hình tổ chức cả mỗi ngân hàng là một công việc phải làm đồng bộ. Nhiều bộ phận tổ chức mới ra đời, nhưng cũng nhiều bộ phận phải giải tán cho phù hợp với một ngân hàng hiện đại. Thực sự đầu tư trang bị kỹ thuật tạo nên một cuộc cải cách về tổ chức bộ máy nghiệp vụ, điều hành của mỗi ngân hàng. Trước đây điều hành trong môi trường thiếu thông tin hoặc thông tin chậm, nay đều hành phải dựa vào thông tin đã được cập nhật tức thời trên mạng máy tính; trước đây quan hệ giữa cán bộ bị quản lý và người bị quản lý là trực tiếp, thì nay nhiều mối quan hệ được thực hiện gián tiếpthống qua mạng máy tính. Phương thức giao dịch của ngân hàng cũng đã thay đổi căn bản, nhiều dịch vụ khách hàng quan hệ với ngân hàng thông qua các máy tự động, khách hàng quan hệ giao dịch với ngân hàng theo phương thức một cửa rất thuận tiện và nhanh chóng. (2). Đơn giản hoá các thao tác nghiệp vụ. Tự động hoá hoạt động nghiệp vụ ngân hàng đã đơn giản hoá nhiều khâu trong qui trình xử lý nghiệp vụ và giao dịch với khách hàng . Thực hiện phương pháp giao dịch một cửa, khách hàng có thể giao dịch với ngân hàng ở bất kỳ địa điểm nào, bất kỳ nhân viên giao dịch nào. Trong thanh toán khách hàng cóthể yêu cầu ngân hàng chuyển tiền của mình đến bất kỳ địa điểm nào, bất kỳ ngân hàng nào với thời gian nhanh chóng chính xác mà không cần những thủ tục phiền hà như trước đây… Nhờ ứng dụng công nghệ hiện đại mà ngân hàng đã thực hiện được phong cách làm việc văn minh. (3). Đảm bảo, nhanh chóng, an toàn, chính xác trong các giao dịch. Thực hiện giao dịch online nên xử lý số liệu đảm bảo tuyệt đối an toàn chính xác. (4). Cập nhật thông tin quản lý điều hành và hoạt động kinh doanh. Hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác và cập nhật vào bất cứ thời điểm nào là một thế mạnh mà trước đây không có được. Chính có thông tin nhạy bén chính xác mà công tác quản lý ngân hàng tốt hơn, kinh doanh hiệu quả cao hơn rất nhiều so với trước đây. (5). Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ ngân hàng. Ứng dụng công nghệ mới bắt buộc phải từng bước nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng. Đây là yếu tố then chốt, quyết định thành bại của mỗi ngân hàng, nếu không được quan tâm đúng mức sẽ rât khó khăn trong hoạt động và trụ vững trong cạnh tranh. (6). Góp phần đổi mới kinh tế đất nước. Nhờ hiện đại hoá ngân hàng, đặc biệt là hiện đại hoá hệ thống thanh toán mà giải quyết một cách căn bản tình trạng ứ đọng vốn, không còn tình trạng vốn trôi nổi trên đường đi do thanh toán ách tắc trước đây. Chấm dứt tình trạng khan hiếm tiền mặt giả tạo thời kỳ những năm 80 đầu những năm 90 do ách tắc trong thanh toán. Vòng quay vốn trong toàn xã hội tăng lên, góp phần cho việc sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác. (Trích Báo cáo Chặng đường đổi mới –Hiện đại hoá ngân hàng VN , TS. Tạ Quang Tiến, Cục trưởng Cục công nghệ tin học ngân hàng – Ngân hàng Nhà nước VN). Bao thanh toán: Dịch vụ tiện ích ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp bán hàng TCKT cập nhật: 01/06/2006 “Bao thanh toán” (factoring), một khái niệm còn lạ lẫm với nhiều doanh nghiệp (DN) VN, nhưng lại là dịch vụ không thể thiếu với DN nước ngoài khi bán hàng. Đây cũng là một dịch vụ mà các NH, các tổ chức tài chính (TCTC) của VN cần mở rộng trong qúa trình hội nhập với nền tài chính quốc tế. 1. Khái niệm bao thanh toán Nói một cách nôm na, bao thanh toán là việc NH , TCTC tạm ứng trước một khoản tiền và thu nợ hộ người bán, thông qua hợp đồng BTT với một khoản phí. Các DN khi bán hàng trả chậm cho khách hàng (đặc biệt là bán hàng cho nước ngoài), nếu sợ rủi ro trong việc thu tiền trả chậm (trường hợp người mua không thanh toán cho người bán) thì sẽ yêu cầu ngân hàng BTT rủi ro này. 2. Quy trình thực hiện bao thanh toán Người bán hàng đến NH có dịch vụ BTT yêu cầu được sử dụng dịch vụ BTT cho các giao dịch bán hàng với một hoặc một số khách hàng của mình. NH xem xét các yếu tố cần thiết để quyết định có chấp nhận người bán và người mua đó hay không. Nếu chấp nhận, NH sẽ cấp hạn mức BTT cho người bán đối với từng người mua và ký hợp đồng dịch vụ BTT đối với người bán. NH sẽ lập cho người bán và người mua những tài khoản riêng để theo dõi hoạt động BTT. Hàng tháng, NH sẽ thông báo để người bán và người mua biết số dư trên các tài khoản BTT của họ. Sau đó, NH sẽ cùng ký văn bản thông báo hợp đồng BTT nói trên và gửi cho các bên mua hàng và các bên có liên quan, trong đó nêu rõ việc bên bán hàng chuyển nhượng tất cả các quyền và lợi ích liên quan đến các khoản phải thu của bên bán hàng cho NH và hướng dẫn cho các bên mua hàng thanh toán trực tiếp với NH. Để thực hiện dịch vụ này, đầu tiên người bán hàng giao hàng cho người mua. Kế đó người bán chuyển nhượng các khoản phải thu cho NH theo hợp đồng đã ký giữa hai bên. NH tạm ứng tiền hàng cho người bán và tiến hành các thủ tục đòi tiền người mua. Người mua thanh toán tiền hàng với NH. Và NH tất toán với người bán phần còn lại sau khi trừ phí BTT. 3. Những tiện ích của bao thanh toán ° Về phía người bán hàng: - Người bán có thể thu tiền ngay thay vì phải đợi tới kỳ hạn thanh toán theo hợp đồng. - Tăng lợi thế cạnh tranh khi chào hàng với các điều khoản thanh toán trả chậm mà không ảnh hưởng đến nguồn vốn kinh doanh của mình. - Được sử dụng khoản phải thu đảm bảo cho tiền ứng trước, do đó tăng được (một cách gián tiếp) nguồn vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh. - Chủ động trong việc lập kế hoạch tài chính vì dự đoán được dòng tiền vào. - Tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc theo dõi thu hồi các khoản trả chậm này. - Tiện ích của dịch vụ BTT rất quan trọng đối với nhà sản xuất, bởi hiện nay các nhà nhập khẩu qui mô, ưu thế chỉ chấp nhận hình thức trả sau và từ chối yêu cầu mở L/C của nhà xuất khẩu. Điều này sẽ khiến các DN VN dễ mất đơn hàng xuất khẩu nếu không có khả năng về vốn. Còn nếu chấp nhận hình thức trả sau, DN sẽ khó khăn trong việc quay vòng vốn, nhất là những đơn vị xuất khẩu các mặt hàng luôn biến động giá như cà phê, gạo, tiêu . . . Trong khi đó, NH cũng không dễ cho DN kéo dài thời gian thanh toán nếu thanh toán theo phương thức trả sau. Vì thế, dịch vụ BTT xuất khẩu ra đời sẽ giúp DN giải quyết được những khó khăn này. - Đa phần các DN vừa và nhỏ rất thích dịch vụ BTT, bởi thông thường những DN này có tổng tài sản không lớn nên rất khó để NH xem xét các hạn mức tín dụng. Với BTT họ dễ dàng được cấp hạn mức tín dụng hơn. - Các DN khi đã biết về dịch vụ bao thanh toán thường rất thích sử dụng vì BTT có nhiều hình thức khác nhau, rất đa dạng để phục vụ cho các DN. Các DN có thể sử dụng các hình thức như : BTT chiết khấu hóa đơn, BTT trung gian, BTT đến hạn, BTT thu hộ, BTT truy đòi, BTT miễn truy đòi. - Phạm vị hoạt động BTT cũng rất đa dạng : Về địa lý thì có BTT trong nước và BTT quốc tế; Trong hoạt động xuất nhập khẩu thì có BTT xuất khẩu và BTT nhập khẩu; Có BTT số lượng hóa đơn của người bán hoặc BTT toàn bộ hay BTT một phần; Có BTT kín và BTT công khai... Khách hàng có thể sử dụng BTT trực tiếp và BTT hệ hai đại lý, hay khách hàng cũng có thể sử dụng liên kết của các hợp đồng BTT với BTT giáp lưng. Phương thức BTT từng lần hoặc BTT theo hạn mức. ° Về phía NH - Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng - So với việc cấp hạn mức tín dụng,NH thích làm dịch vụ BTT hơn. Vì nếu cấp vốn lưu động cho DN, NH phải giám sát rất vất vả, trong khi với BTT các khoản phải thu rất rõ, việc sử dụng cũng đã rõ, các DN đã chứng minh với NH về uy tín trên thị trường khi đã bán được hàng. Có thể nói , bao thanh toán là loại dịch vụ cả hai bên cùng có lợi. Nhưng DN có lợi hơn NH. Khi cung cấp dịch vụ này NH phải gánh chịu về mình những rủi ro khi người mua mất khả năng thanh toán. Do vậy, NH phục vụ người bán, nhà xuất khẩu, nếu không chắc chắn về khả năng tài chính của người mua thường hay tư vấn cho khách hàng của mình tới NH phục vụ người mua, nhà nhập khẩu yêu cầu dịch vụ bao thanh toán. Những NH thực hiện dịch vụ BTT cần tính toán kỹ lưỡng đối với những mặt hàng nhiều rủi ro như nông sản, thực phẩm… 4. Thực trạng dịch vụ BTT ở nước ta Dịch vụ BTT đã được sử dụng từ lâu tại nhiều nước phát triển trên thế giới. Hiện nay thế giới có một hiệp hội Bao thanh toán quốc tế (FCI ) có 204 thành viên ở các nước trên thế giới (chiếm hơn 50% doanh thu BTT quốc tế trên thế giới), trong đó VN có 4 NH đã gia nhập FCI là NH Ngoại thương VN (VCB), NH TMCP Á Châu (ACB), NH TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và NH TMCP kỹ thương (Techcombank). BTT là phương thức thanh toán thuận lợi hơn so với phương thức thanh toán truyền thống (mở L/C, nhờ thu). Hiện nay ở nước ta có 11 NH (có cả NH nước ngoài tại VN) cung cấp dịch vụ BTT. Tuy nhiên, phần lớn các NH trong nước mới chỉ thực hiện dịch vụ BTT mua bán trong nước, trong khi thương mại quốc tế mới tiềm ẩn nhiều rủi ro bởi nhiều nhà nhập khẩu muốn thanh toán bằng hình thức ghi sổ (trả sau). Con số 11 NH làm dịch vụ BTT quả là quá nhỏ so với số lượng các NH hiện có và càng quá nhỏ so với 1 nước đang phát triển và chuẩn bị hội nhập như nước ta. BTT là phương thức hai bên cùng có lợi, nhưng tại sao lại chưa phát triển ở nước ta ? Thứ nhất, nước ta hiện vẫn còn nhiều hạn chế về hành lang pháp lý để thực hiện dịch vụ này. Pháp luật không thừa nhận dịch vụ BTT nếu không có sự chấp nhận bằng văn bản của khách hàng phải trả nợ. Chính điều này đã gây không ít khó khăn cho NH và DN khi thực hiện dịch vụ này. Thứ hai, nhiều DN cho rằng, hiện ở VN dịch vụ BTT của các NH vẫn chưa thật tiện lợi. Bởi NH thường đòi hỏi cao đối với khách hàng, ngoài phí dịch vụ, nhà xuất khẩu phải chứng minh với NH về uy tín của bên mua hàng hóa. Đây là khó khăn lớn cho nhà sản xuất, bởi sự hiểu biết về thị trường xuất khẩu của DN VN còn hạn chế. Thứ ba, các NH cũng chưa mặn mà với việc cung cấp dịch vụ này vì chúng ta có quá ít thông tin về tình hình tài chính của người mua, nhất là khách hàng nhập khẩu. Các thông tin nếu công bố công khai cũng không thật sự rõ ràng, minh bạch. Do đó mà khả năng rủi ro cao, các NH sẽ ngần ngại khi thực hiện dịch vụ này hoặc nếu có thì mức phí cũng không hấp dẫn khách hàng. Thứ tư, các NH khi thực hiện BTT đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro ở mức độ nào đó. Nhưng ở nước ta, rủi ro mất vốn đồng nghĩa với trách nhiệm pháp lý của NH và cá nhân người quyết định, do đó, các NH, đặc bịêt là các NHTM nhà nước không thích sử dụng dịch vụ này. Thứ năm, cũng do bản thân người cung cấp chưa mặn mà với dịch vụ này nên họ không chú trọng công tác marketing, tuyên truyền quảng bá tới khách hàng. Các khách hàng vì vậy cũng ít biết đến loại hình dịch vụ này. 5. Giải pháp để phát triển phương thức bao thanh toán ở nước ta - Tăng cường công tác mar- keting, giới thiệu những tiện ích của BTT cho các DN. - Đơn giản hoá thủ tục BTT bằng các quy định pháp lý cụ thể. - Có chính sách phí linh hoạt, phù hợp với các DN vừa và nhỏ. - NHNN làm đầu mối thành lập Hiệp hội BTT VN, khuyến khích các NH tham gia để được cung cấp thông tin, hỗ trợ công nghệ…Đây cũng là một bước hội nhập với nền tài chính quốc tế của VN. - NHNN nghiên cứu quy chế thành lập các công ty BBT độc lập. (Theo TCKTPT) Phát triển hoạt động dịch vụ ngân hàng trên địa bàn TP.HCM TCKT cập nhật: 01/06/2006 (Bài viết có 2 trang. Bạn đang xem trang 1) Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện đang là xu hướng phát triển tất yếu của thời đại và là yêu cầu khách quan đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của một nước. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực như : trao đổi hàng hóa, dịch vụ, chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia và khu vực, lưu chuyển vốn quốc tế,… tạo điều kiện cho các quốc gia có thể hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật công nghệ,… trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, nó cũng làm cho quá trình cạnh tranh ngày càng gay gắt và sâu sắt hơn, tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) được mạnh hơn, hoạt động kinh doanh có hiệu quả và lành mạnh hơn, tạo thuận lợi cho phát triển và tăng trưởng nền kinh tế. Trong lĩnh vực ngân hàng, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới của hệ thống ngân hàng VN, tạo điều kiện trao đổi kinh nghiệm về vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ, hoạch định chính sách tiền tệ,… Từ đó có giải pháp phòng ngừa hoặc giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao uy tín kinh doanh trên thị trường tài chính quốc tế . Trong xu thế đó, VN đã có những chủ động và đang từng bước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Sau gần 20 năm thực hiện mở cửa tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế đã đạt một số thành tựu đáng khích lệ, tốc độ phát triển kinh tế khá cao và ổn định, kiểm soát được lạm phát, đời sống vật chất của người dân khá ổn định. Trong lĩnh vực ngân hàng, với chức năng và vai trò là kênh huy động và cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, các NHTM đã không ngừng mở rộng quy mô hoạt động và đối tượng khách hàng thông qua các quan hệ tín dụng tiền tệ và phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng khác . Để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi các NHTM VN phải từng bước chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn, nhanh chóng tiếp cận và phát triển các hình thức dịch vụ ngân hàng hiện đại, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại. 1. Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng VN Tình hình phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung và TP.HCM nói riêng trong thời gian qua tuy gặp phải một số khó khăn nhất định như: tình hình chiến tranh ở Iraq, dịch bệnh Sars, hạn hán lũ lụt xảy ra ở nhiều nơi, dịch cúm gà đã tác động đến phát triển các hoạt động sản xuất nông nghiệp, chế biến thực phẩm, giá cả hàng hóa là nguyên liệu đầu vào tăng cao (sắt thép, nguyên liệu ngành nhựa, xăng dầu,…) đã làm ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại và dịch vụ. Tuy nhiên, nhờ sự chỉ đạo kịp thời và xử lý hiệu quả của Chính phủ, hoạt động tín dụng ngân hàng đã cung ứng lượng vốn rất lớn cho nền kinh tế trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, đưa quy mô năm 2004 so với năm 1990 về giá trị GDP lớn gấp 2,74 lần, về công nghiệp gấp 6,5 lần, về xuất khẩu gấp 10,8 lần,…Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng cũng góp phần vào chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình một nước công nghiệp: tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng ngày càng nhiều trong khi tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp – thủy sản giảm xuống . Bảng 1 : Cơ cấu kinh tế ngành qua các năm Ngành 1990 1995 2000 2004 Nông, lâm 38,7% 27,2% 24,5% 21,8% nghiệp-thủy sản Công nghiệp – xây dựng 22,7% 28,7% 36,7% 40,1% Dịch vụ 18,6% 40,3% 38,7% 32,2% (Nguồn : Kinh tế 2004-2005- VN & Thế giới, Thời báo kinh tế VN) Riêng hoạt động tín dụng trên địa bàn TP.HCM cũng đã có nhiều đóng góp vào việc phát triển nền kinh tế thành phố theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa với nhiều hình thức phong phú như: cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, cho vay trả góp,… Chúng ta có thể thấy mức tăng trưởng tín dụng qua bảng số liệu sau: Bảng 2 : Mức tăng trưởng tín dụng của hệ thống NHTM trên địa bàN TP.HCM Đơn vị tính: tỷ đồng 2000 2001 2002 2003 2004 Dư nợ 52,194 56,189 74,244 101,006 136,621 cho vay % so 20.14% 7.65% 32.13% 36.05% 35.26% với năm trước Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước TP.HCM 2000-2004 Qua bảng 2 cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống NHTM trên địa bàn TP.HCM nhìn chung tăng đều qua các năm. Tính đến 31.12.2004 tổng dư nợ cho vay toàn hệ thống NHTM trên địa bàn là 136.621 tỷ VNĐ, tăng 35,26% so với năm 2003, đã cung ứng một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế nói chung và góp phần vào việc phát triển kinh tế xã hội của TP.HCM nói riêng: - Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng 11,6% so với năm 2003, là mức tăng cao nhất từ năm 1998 . - Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,1% so với năm 2003. - Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản đạt mức tăng xấp xỉ năm 2003. - Giá trị các ngành dịch vụ tăng 11,1% so với năm 2003. - Tổng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn tăng 33,6%. - Tổng vốn đầu tư phát triển đạt 42.996 tỷ, tăng 2,4% so với kế hoạch và tăng 15,6% so với năm 2003. Có thể nói thời gian qua hệ thống ngân hàng VN đã có những cải thiện đáng kể về năng lực thể chế, tài chính, công nghệ, quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức và mạng lưới kênh phân phối góp phần vào sự cung ứng vốn cho nền kinh tế phát triển. Trong đó, hệ thống dịch vụ ngân hàng là một trong những hoạt động dịch vụ quan trọng có thể cung ứng lượng vốn lớn cho nền kinh tế cũng như nhiều tiện ích cho xã hội. Bảng 3 : Tổng hợp tình hình hoạt động dịch vụ ngân hàng trên địa bàn TP.HCM 2001 - 2004 Đơn vị tính : Tỷ VNĐ, triệu USD Dịch vụ ngân hàng 2001 2002 2003 2004 - Tổng huy động vốn 65.716 85.996 114.572 150.337 - Tốc độ tăng trưởng 16,9% 30,9% 33,2% 31,2% - Dư nợ cho vay 56.189 74.243 101.006 136.624 - Tốc độ tăng trưởng 17,5% 32,1% 36,0% 35,3% 1. Dịch vụ huy động vốn 2. Dịch vụ tín dụng 3. Dịch vụ thanh toán - Khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt 870.744 1.112.312 1.118.012 1.750.600 Trong đó : + Thanh toán thẻ (VNĐ, ngoại tệ quy VNĐ) 204 7.900 9.039 11.430 + Thanh toán Sec 2.948 4.480 5.921 9.450 + UNT 33.269 43.035 35.641 44.064 + UNC 648.244 846.509 807.072 1.170.871 + Khác 156.079 197.689 260.339 514.785 + Số lượng tài khoản cá nhân 114.000 150.000 205.000 447.845 + Số dư tiền gửi tài khoản cá nhân 1.560 2.988 3.867 8.759 - Doanh số mua ngoại tệ 6.834 7.175 9.214 13.924 - Doanh số bán ngoại tệ 6.607 7.008 8.198 13.048 4. Dịch vụ ngoại hối - Thanh toán mậu dịch + Hàng nhập 5.098 5.177 6.944 9.016 + Hàng xuất 4.487 4.335 4.999 6.199 + Thu 5.152 4.533 5.286 6.708 + Chi 3.672 2.937 3.780 5.340 - Kiều hối 829 1.057 1.690 1.891 - Thu đổi ngoại tệ 906 1.283 1.324 1.537 - Thanh toán phi mậu dịch Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước TP.Hồ Chí Minh 2001-2004 1.1. Dịch vụ huy động vốn: Các NHTM đã có nhiều hình thức huy động vốn đa dạng và phong phú, với nhiều tiện ích như: Gửi 1 nơi rút nhiều nơi, lãi suất linh hoạt và hấp dẫn, chuyển khoản dễ dàng, thủ tục nhanh gọn, thuận tiện,… thu hút ngày càng khách hàng và người dân đến gửi tiền. Năm 2004 huy động vốn của các NHTM trên địa bàn đạt 150.337 tỷ đồng, tăng 31,2% so với năm 2003 và tăng 129% so với năm 2001 . 1.2. Dịch vụ tín dụng: Các NHTM, tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng phát triển với nhiều hình thức tín dụng như: tín dụng kích cầu, tín dụng tiêu dùng, tín dụng phục vụ phát triển nông thôn; đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư với nhiều hình thức đầu tư như: cho vay trực tiếp, tài trợ dự án, góp vốn, đầu tư các loại giấy tờ có giá,… Kết quả năm 2004 hoạt động tín dụng đạt 136.624 tỷ đồng, tăng 35,3% so với năm 2003 và tăng 143% so với năm 2001 . 1.3. Dịch vụ thanh toán: Việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động thanh toán đã tạo ra khả năng thanh toán nhanh, chính xác, an toàn và bảo mật và thu hút nhiều tổ chức kinh tế, khách hàng quan hệ giao dịch và thanh toán với ngân hàng. Tổng số lượng tài khoản cá nhân năm 2004 đạt 447.845 tài khoản, tăng gần 4 lần so với năm 2001, tốc độ mở rộng và phát triển tài khoản cá nhân trên địa bàn ngày càng tăng, góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng phát triển. 1.4. Dịch vụ ngoại hối: Năm 2004, kết quả hoạt động ngoại hối như sau : - Tổng doanh số mua ngoại tệ đạt 13.924 triệu USD, tăng 47,7% so với năm 2003 và tăng 2 lần so với năm 2001. - Tổng doanh số bán ngoại tệ đạt 13.048 triệu USD, tăng 47% so với năm 2003 và tăng 97% so với năm 2001. - Thanh toán mậu dịch: Thanh toán hàng nhập đạt 9.016 triệu USD, tăng 32,4% so với năm 2003; thanh toán hàng xuất đạt 6.199 triệu USD, tăng 27,4% so với năm 2003. Bội chi thanh toán mậu dịch là : 2.817 triệu USD. - Thanh toán phi mậu dịch: Tổng thu đạt 6.708 triệu USD, tăng 19,1% so với năm 2003; tổng chi đạt 5.340 triệu USD, đạt 42,2% so với năm 2003. Bội thu thanh toán phi mậu dịch là 1.368 triệu USD. 1.5. Dịch vụ ngân quỹ: Hoạt động dịch vụ ngân quỹ của các NHTM trên địa bàn ngày càng phát triển. Các NHTM tổ chức thu, chi hộ trực tiếp tại các công ty, tổ chức kinh tế tạo điều kiện cho khách hàng tiết kiệm thời gian và an toàn hơn trong việc thu chi . 1.6. Dịch vụ khác: Dịch vụ ngân hàng điện tử (home banking, internet banking, ebanking,…), thẻ ngân hàng (ATM),… Sự phát triển các loại hình dịch vụ này sẽ tạo nhiều thuận lợi, tiện ích và an toàn cho khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy các hoạt động dịch vụ khác trong nền kinh tế phát triển như: hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh xuất nhập khẩu, du lịch dịch vụ,… 2. Hạn chế của hệ thống dịch vụ ngân hàng VN ° Hầu hết các ngân hàng thực hiện huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi và cấp tín dụng dưới hình thức cho vay. Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong phát triển sản phẩm và tính liên kết sản phẩm, dịch vụ ngân hàng còn thấp. Hệ thống dịch vụ ngân hàng còn đơn điệu, các dịch vụ ngân hàng điện tử (thẻ tín dụng, ATM, internet banking, …) chưa phát triển mạnh, vẫn còn hạn chế về chất lượng tiện ích và hiệu quả kinh tế còn thấp . ° Thị trường dịch vụ ngân hàng chưa phát triển đúng mức, một số dịch vụ ngân hàng như : dịch vụ tài khoản, séc, thẻ thanh toán, quản lý tài sản, tín dụng cầm cố,… đã triển khai thực hiện nhưng chưa phát triển mạnh và rộng rãi về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các TCTD thuộc các thành phần kinh tế khác nhau do có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình TCTD, giữa các TCTD trong nước và TCTD nước ngoài. Phương thức cạnh tranh chủ yếu là mở rộng mạng lưới, cạnh tranh giá, chưa thật sự quan tâm đến việc cạnh tranh thông qua chất lượng dịch vụ, ứng dụng công nghệ thông tin, thương hiệu của ngân hàng và các TCTD . ° Hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng và các TCTD là tín dụng (80% tổng thu nhập). Tuy nhiên, đây cũng là một trong những lĩnh vực tạo ra nhiều rủi ro nhất, đe dọa an toàn hoạt động của các ngân hàng và TCTD . 3. Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, yếu kém của hệ thống dịch vụ ngân hàng VN ° Các cơ quan quản lý nhà nước chưa đánh giá đúng và đầy đủ về những yêu cầu đối với môi trường pháp lý, điều kiện hoạt động để khuyến khích và bảo đảm cho sự phát triển an toàn, hiệu quả của hệ thống ngân hàng, do đó chưa có chiến lược và giải pháp hỗ trợ phát triển dịch vụ ngân hàng một cách có hệ thống. ° Hệ thống các văn bản pháp lý liên quan đến việc cung cấp, sử dụng các dịch vụ ứng dụng Internet như: e-banking, home banking,… còn thiếu, chậm đổi mới và hoàn thiện so với yêu cầu phát triển kỹ thuật công nghệ hiện đại và triển khai rộng rãi các dịch vụ ngân hàng hiện đại, chưa tạo cơ sở cho việc xử lý các tranh chấp, tạo ra tâm lý ngần ngại khi sử dụng và cung cấp các dịch vụ này. Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá còn bất cập, chưa khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch trên thị trường ngoại hối . ° Trình độ phát triển nền kinh tế nước ta còn thấp và môi trường kinh tế vĩ mô còn nhiều khó khăn, yếu kém làm hạn chế khả năng cung ứng và nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mặt khác, chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại lớn đòi hỏi các TCTD phải có vốn lớn, nhưng trên thực tế vốn ở các ngân hàng vẫn còn thấp, rất khó đầu tư phát triển công nghệ hiện đại . ° Thị trường thẻ VN hiện đang có tiềm năng rất lớn, thu hút được sự quan tâm của nhiều TCTD cũng như của khách hàng, nhưng do sự đầu tư không đồng bộ nên hệ thống máy ATM của nhiều ngân hàng còn ít và chưa kết nối được với nhau dẫn đến lãng phí trong đầu tư, chưa thật tiện dụng cho khách hàng . ° Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước chủ trì tạo được điều kiện rất thuận lợi trong hoạt động thanh toán và có các ưu điểm là nhanh chóng và chính xác. Tuy nhiên, hệ thống này hiện chưa kết nối trên toàn quốc đã tạo ra những hạn chế nhất định trong hoạt động thanh toán của các ngân hàng. Bên cạnh đó, việc tập trung một số lượng lớn chứng từ vào giờ cao điểm vẫn còn tồn tại làm tăng thêm áp lực cho hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng . ° Mạng lưới kênh phân phối của các TCTD chưa được phát triển hợp lý. Phát triển mạng lưới chi nhánh được xem như công cụ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường và thị phần chủ yếu của các TCTD hiện nay – Điều này có thể làm làm tăng thêm chi phí, hạn chế hiệu quả kinh tế và không phù hợp với quy hoạch phát triển mạng lưới ngân hàng theo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội . ° Trình độ cán bộ quản lý và kinh doanh của các TCTD còn hạn chế, chưa đủ khả năng tiếp cận và làm chủ được công nghệ mới, quản trị kinh doanh và quản trị rủi ro so với yêu cầu kinh doanh theo cơ chế thị trường và hiện đại hóa công nghệ trong hệ thống ngân hàng . 4. Giải pháp phát triển hoạt động dịch vụ ngân hàng của các NHTM trên địa bàn TP.HCM 4.1. Phát triển về công nghệ: Đây là yêu cầu cơ bản trong việc phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng của hệ thống NHTM. Việc ứng dụng công nghệ mới trong ngành ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho các NHTM có điều kiện phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ ngân hàng. Các NHTM cần phải: - Tăng cường liên doanh, liên kết và hợp tác giữa các ngân hàng với nhau và giữa ngân hàng các tổ chức kinh tế khác trong và ngoài nước nhằm tranh thủ sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. - Hiện đại hóa đồng bộ hạ tầng kỹ thuật công nghệ trên phạm vi toàn hệ thống ngân hàng và ngay trong từng TCTD. Thực hiện các giao dịch liên chi nhánh trong toàn hệ thống một cách nhanh chóng, không còn sự khác biệt về cách thức, tốc độ xử lý giữa giao dịch nội bộ và giao dịch liên chi nhánh. - Phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử (internet banking, home banking, mobile banking,…, các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt theo hướng giao dịch tự động nhưng vẫn đảm bảo chất lượng, an toàn và hiệu quả. 4.2. Phát triển nguồn nhân lực: Cần thiết hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và phát triển nguồn nhân lực để thu hút nhân tài, cán bộ nghiệp vụ và cán bộ quản lý có trình độ giỏi thông qua xây dựng hệ thống khuyến khích và chế độ quản lý lao động phù hợp. Bên cạnh việc đầu tư hiện đại hóa công nghệ, các NHTM cũng cần phải phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đảm bảo đội ngũ cán bộ có trình độ cao đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh trong xu thế hội nhập. Để nâng cao chất lượng và phát triển nguồn nhân lực, các ngân hàng có chiến lược chủ động đào tạo và đào tạo lại các nội dung về nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ ngân hàng có thể tiếp cận được công nghệ mới, quan tâm đến môi trường làm việc của cán bộ cũng như các chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần cho nhân viên,… 4.3. Tăng cường năng lực hoạt động và tài chính của các TCTD : các NHTM cần thiết phải xây dựng đề án tăng cường năng lực tài chính và xem đây là giải pháp giúp cho các NHTM và TCTD nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho việc phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại.Tăng cường năng lực hoạt động tài chính có thể thực hiện theo hướng: - Tăng vốn tự có bằng các hình thức huy động từ thị trường qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, Nhà nước bổ sung vốn, lợi nhuận để lại, nâng cao chất lượng tài sản có,… Việc tăng vốn tự có sẽ tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh, mở rộng thị phần, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển sản phẩm, dịch vụ mới . - Đẩy mạnh cổ phần hóa các NHTM nhằm giúp cho các ngân hàng sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn và làm tăng thêm tiềm lực tài chính cho ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. - Xử lý nợ xấu theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, giảm nợ xấu phải gắn liền với việc xây dựng cơ chế kiểm soát, giám sát hữu hiệu chất lượng tín dụng của các NHTM . 4.4. Thực hiện tốt việc phối hợp, liên kết giữa các NHTM và TCTD với nhau trong quá trình phát triển các loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng, giúp cho các NHTM và TCTD sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật, hạn chế được sự lãng phí và kém hiệu quả trong quá trình ứng dụng phát triển công nghệ hiện đại . 4.5. Chủ động xây dựng và triển khai chiến lược kinh doanh theo hướng phát triển thương hiệu và xây dựng văn hóa kinh doanh ngân hàng văn minh – hiện đại, bằng cách đẩy mạnh các hoạt động marketing, tuyên truyền, quảng cáo dịch vụ ngân hàng trên thị trường đến khách hàng . Tuy nhiên, để chiến lược phát triển kinh doanh dịch vụ ngân hàng thực hiện có hiệu quả góp phần vào sự phát triển nền kinh tế xã hội, cần thiết có sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước VN trên một số nội dung : - Bổ sung, sửa đổi Luật NHNN và Luật các TCTD, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn nhằm thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và ứng dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng; quy định rõ phạm vi hoạt động cũng như loại hình dịch vụ ngân hàng mà các TCTD được phép thực hiện và cung ứng cho nền kinh tế . - Hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa các giao dịch vãng lai và kiểm soát có chọn lọc các giao dịch về vốn. Từng bước loại bỏ những bất hợp lý về mua, bán và sử dụng ngoại tệ, cho phép các tổ chức và cá nhân tham gia rộng rãi hơn các giao dịch hối đoái. Bên cạnh đó, tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng tự do hóa có kiểm soát, từng bước giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước tiến tới hình thành tỷ giá hối đoái theo quy luật cung cầu . - Hoàn thiện các quy định về tiếp cận thị trường dịch vụ ngân hàng trong nước theo lộ trình tự do hóa thương mại dịch vụ tài chính và mở cửa thị trường tài chính. - Tiếp tục định hướng cho các TCTD phát triển các hoạt động dịch vụ, đặc biệt là phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đảm bảo cho các TCTD đầu tư đúng hướng và có hiệu quả trong kinh doanh . - Thực hiện cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt trong mọi ngành, mọi cấp của nền kinh tế chớ không chỉ thực hiện ở phạm vi ngành ngân hàng. Bên cạnh đo, Ngân hàng Nhà nước có thể hình thành trung tâm thanh toán bù trừ séc, hối phiếu nhằm tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tốc độ phát hành, lưu thông và sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế . - Xây dựng hệ thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu quốc gia hiện đại, tập trung, thống nhất. Triển khai các đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thanh tra, giám sát, quản trị, điều hành, thông tin, báo cáo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Nhà nước. Ảnh hưởng của tự do hóa tài chính đến hệ thống ngân hàng Việt Nam TCKT cập nhật: 02/06/2006 Ngày nay trong sự phát triển và hội nhập nhanh chóng nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đã cho thấy sự tăng trưởng kinh tế nhanh hay chậm hoặc suy thoái đều phụ thuộc rất nhiều vào chính sách cũng như cơ cấu của hệ thống tài chính mỗi quốc gia. Xu hướng được nhiều quốc gia trên thế giới lựa chọn thực hiện là tiến hành tự do hóa tài chính. Việc tự do hóa tài chính bao gồm các nội dung cơ bản như xóa bỏ các hạn chế, định hướng hay ràng buộc về số lượng trong quá trình cấp và phân phối tín dụng, chấm dứt các kênh cấp vốn ưu đãi, các định chế tài chính có quyền tự do xác định các lãi suất tiền gửi, cho vay và tự do sử dụng công cụ lãi suất, mở rộng cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính, chấm dứt những phân biệt đối xử về pháp lý giữa các lọai hình sở hữu và hoạt động khác nhau và tự do hóa các luồng vốn quốc tế. Khi tự do hóa tài chính các dòng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có hiệu suất sinh lợi thấp sang nơi có hiệu suất sinh lợi cao mà không bị ngăn cản bởi các qui định phi kinh tế. Trong môi trường quốc tế hóa một cách mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, VN cũng không thể đứng ngoài tiến trình toàn cầu hóa, để hội nhập vào xu hướng chung này VN cần từng bước thực hiện tự do hóa trên nhiều phương diện trong đó tự do hóa tài chính có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự phát triển của kinh tế đất nước. 1. Hệ thống ngân hàng VN trong tiến trình thực hiện chính sách tự do hóa tài chính Hệ thống ngân hàng VN là trung tâm tài chính cốt lõi của nền kinh tế quốc gia, nó là trọng tâm của việc thực thi các chính sách tài chính tiền tệ của nhà nước, nhìn vào thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng, ta có thể đánh giá được hiệu quả của hệ thống tài chính và sự phát triển của nền kinh tế đất nước. 2. Những tồn tại trong tiến trình thực hiện tự do hóa tài chính 2.1 Vấn đề lãi suất Việc áp dụng cơ chế tự do hóa lãi suất đã tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng và là bước tiến quan trọng của quá trình tự do hóa tài chính ở VN. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi tích cực thì việc thực hiện tự do hóa lãi suất trong thời gian qua cũng nảy sinh một số vấn đề bất cập trong quản lý lãi suất và khó khăn cho hệ thống ngân hàng VN như việc NHNN công bố lãi suất cơ bản nhằm định hướng lãi suất thị trường trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, các NHTM cổ phần tiềm lực về tài chính còn hạn chế phải đối mặt khi tiến hành tự do hóa lãi suất. 2.2 Hệ thống pháp lý và kế toán - kiểm toán - Hệ thống pháp lý: Tuy đã có những sửa đổi nhất định để hoàn thiện hành lang pháp lý, nhưng thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, hiệu quả kinh doanh của toàn hệ thống còn thấp, sức cạnh tranh còn khoảng cách xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới ... - Kế toán - kiểm toán: Chúng ta đã có Luật kế toán và Luật kiểm toán nhưng hoạt động kế toán, kiểm toán ở VN vẫn chưa đạt đến qui mô mà tiến trình phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi. 2.3 Điều hành tỷ giá hối đoái Xung quanh vấn đề tỷ giá ở VN hiện nay, các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng: Giá trị đồng VN đã bị đánh giá quá cao so với ngoại tệ , như vậy, trước hết nó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa VN trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu, sau đó làm NHNN khó điều hành chính sách tiền tệ. 2.4 Hệ thống ngân hàng Trong thời gian qua, Nhà nước đã có những thay đổi về chính sách giúp cho hệ thống ngân hàng VN tiến gần hơn đến điều kiện đủ cho thành công của tự do hóa tài chính. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng VN còn nhiều yếu kém trên các mặt a. Quản lý yếu kém Vấn đề điều hành, quản lý hoạt động ngân hàng từ NHNN đến các NHTM chiếm vị trí quan trọng trong việc quyết định hoạt động hiệu quả và tính lành mạnh của hệ thống, nhất là đối với NHTM trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường và chấp nhận cơ chế kinh doanh bình đẳng. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa được chú ý đúng mức ở các NHTM, trong một số ngân hàng, bộ phận kiểm soát nội bộ tồn tại mang tính hình thức, không phát hiện được những sai sót của bộ phận điều hành hoặc nếu có phát hiện ra thì cũng không xử lý được. Đây là vấn đề mà hệ thống ngân hàng VN cần có biện pháp khắc phục vì nó liên quan mật thiết đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, nhất là trong vấn đề quản lý lãi suất của hoạt động tín dụng. b. Tính cạnh tranh thấp Hiện nay, NHTMQD vẫn chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống ngân hàng mà khách hàng của khu vực này chủ yếu vẫn là các DNNN, điều này khiến cho việc cải cách hoạt động của các NHTMQD sang kinh doanh trên cơ sở thương mại thực sự và tạo môi trường kinh doanh bình đẳng trong lĩnh vực ngân hàng gặp khó khăn. Sự bảo trợ công khai hay ngấm ngầm của Nhà nước đối với các DNNN trong việc vay vốn ngân hàng vẫn còn tồn tại đồng nghĩa với việc phát huy tác dụng của các qui luật kinh tế thị trường trong lĩnh vực này bị cản trở, dẫn đến tính cạnh tranh trong khu vực NHTMQD còn thấp. 3. Giải pháp cho vấn đề tự do hóa tài chính và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng ở VN 3.1 Sử dụng công cụ lãi suất trong quản lý vĩ mô 3.1.1 Công cụ điều tiết lãi suất Lãi suất là một trong những công cụ được các chính phủ sử dụng trong quản lý vĩ mô nền kinh tế nhất là trong cơ chế thị trường, nó kích thích tập trung nguồn lực tài chính và phân bổ nguồn lực đó một cách có hiệu quả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ổn định mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. 3.1.2 Sử dụng hiệu quả công cụ lãi suất Trên sơ sở kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới về việc sử dụng công cụ lãi suất trong điều hành chính sách tài chính, tiền tệ thì việc lựa chọn lãi suất nào là cơ bản, có tính chất tác động đến lãi suất thị trường phụ thuộc vào điều kiện phát triển của thị trường tài chính tiền tệ của quốc gia. Hiện tại, việc sử dụng các loại lãi suất trên thị trường liên ngân hàng của NHNN VN mang tính chất hình thức do độ nhạy cảm của các lãi suất này đối với thị trường thấp; vấn đề được đặt ra là làm thế nào để lựa chọn lãi suất chủ đạo với điều kiện lãi suất này phản ánh đúng quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, đồng thời có tác dụng điều chỉnh lãi suất thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ. a. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng Mặc dù thị trường liên ngân hàng đã được thiết lập và hoạt động được một thời gian, nhưng đối với các NHTM thì thị trường liên ngân hàng chưa phải là nơi có thể sẵn sàng cung cấp nguồn vốn thiếu hụt, các nghiệp vụ được thực hiện trên thị trường này còn ít nên chưa hình thành được lãi suất IBOR. Đối với một thị trường liên ngân hàng phát triển, các NHTM phải tính toán kỹ lượng vốn thừa hay thiếu trong ngắn hạn để có thể xác định mức vay hoặc cho vay của mình trên thị trường liên ngân hàng một cách chính xác, và khi giao dịch trên thị trường này, bắt buộc phải theo thực hiện lãi suất mình đã công bố. Vì vậy, muốn hình thành lãi suất IBOR và nó có tác dụng trong việc điều tiết lãi suất thị trường theo đúng mục tiêu thì việc thúc đẩy hoạt động của thị trường này của NHNN là vấn đề quan trọng. b. Lãi suất trên thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở được nhiều nước trên thế giới sử dụng rất hiệu quả trong việc điều tiết thị trường tiền tệ cũng như định hướng lãi suất trên thị trường do lãi suất trên thị trường này khá sát và nhạy với với lãi suất thị trường, bên cạnh đó các nghiệp vụ trên thị trường mở dễ dàng được sửa chữa hơn nếu NHNN phát hiện sai sót so với nghiệp vụ trên thị trường liên ngân hàng, quan trọng nhất là khả năng thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường này có thê đáp ứng yêu cầu về cung ứng vốn, đủ sức điều chỉnh lãi suất trên thị trường một cách hữu hiệu, nhưng kèm theo đó là điều kiện phát triển của thị trường mở cũng như yêu cầu hoạt động thường xuyên để NHNN có thể thu thập, xử lý thông tin và thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sao cho hoạt động trên thị trường tiền tệ không vượt quá tầm kiểm soát của NHNN và đi đúng mục đích của chính sách tài chính tiền tệ. 3.2 Cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái Hiện nay, trên thế giới còn tồn tại nhiều chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau, nhưng trong điều kiện hội nhập và quốc tế hóa ngày nay, xu hướng tiến tới tự do hóa tỷ giá hối đoái đang được Chính phủ các quốc gia theo đuổi. Xét trên bình diện quản lý vĩ mô thì NHNN VN đang thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt, có sự kiểm soát của Nhà nước, đây có thể nói là một lựa chọn đúng đắn của Nhà nước trong điều kiện quá trình hội nhập của VN với thế giới còn nhiều cách biệt. Nếu lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi tự do thì điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của chúng ta chưa cho phép, còn nếu lựa chọn chính sách điều hành tỷ giá theo kiểu “an toàn” thì không thể tránh khỏi những áp đặt mang tính hành chính vào quản lý tỷ giá - điều mà chúng ta đang cố gắng thay đổi để thích ứng dần với việc điều hành nền kinh tế theo các qui luật phát triển. Điều kiện nêu trên đặt ra những yêu cầu đối với Nhà nước trong việc lựa chọn và điều hành tỷ giá phải hết sức linh hoạt, thích ứng dần với hội nhập và tạo động lực phát triển kinh tế. 3.2.1 Xác định đúng giá trị của đồng VN Từ lâu đồng tiền VN (VND) đã có quan hệ tỷ giá chính thức với đồng đôla Mỹ (USD), để ấn định tỷ giá này, NHNN căn cứ vào tỷ giá của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để công bố tỷ giá hàng ngày, đây cũng là cơ sở pháp lý để các TCTD đưa ra mức tỷ giá cụ thể trong giao dịch với khách hàng. Như vậy, tỷ giá VND chủ yếu được đánh giá thông qua sự biến động của VND so với USD, điều này phản ánh đúng thực trạng giao dịch ngoại hối của VN, các hoạt động thanh toán bằng USD chiếm tỷ trọng cao, tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào một ngoại tệ duy nhất là USD để xác định giá trị bản tệ thì quá mạo hiểm đối với việc hoạch định chính sách vĩ mô. Vì vậy, chúng ta nên xem xét lại khả năng xác định linh hoạt tỷ giá VND tương ứng với một rổ tiền tệ là các ngoại tệ mạnh có tham gia thương mại với VN, có như vậy, đồng tiền VN mới được xác định đúng giá trị và giảm thiểu tâm lý sùng bái USD, dẫn đến tình trạng đôla hóa nền kinh tế của đại bộ phận dân cư hiện nay. 3.2.2 Nới lỏng biên độ tỷ giá và tiến tới lọai bỏ các công cụ kiểm soát tỷ giá mang tính hành chính Năm 2005, NHNN vẫn qui định biên độ tỷ giá đối với các TCTD kinh doanh ngoại tệ theo hướng nới lỏng biên độ hơn, hướng đi này giống như một bước thực tập cho các NHTM làm quen dần với việc kinh doanh tiền tệ theo cơ chế cạnh tranh bình đẳng và sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, giảm thiểu tình trạng bị sốc do các biến động. Sau đó, Nhà nước sẽ tiến hành loại bỏ qui định mang tính hành chính áp đặt và đẩy mạnh việc sử dụng các công cụ quản lý gián tiếp trong điều hành tỷ giá hối đoái, các TCTD được tự do quyết định giá mua bán ngoại tệ trên cơ sở qui luật cung - cầu trên thị trường ngoại hối, các bước tiến hành như trên sẽ giúp cho các NHTM phát huy tính tự chủ và khả năng hội nhập thị trường tài chính quốc tế theo đúng tiến trình. 3.2.3 Sử dụng công cụ gián tiếp để điều chỉnh tỷ giá trên thị trường Muốn cho công cụ điều chỉnh gián tiếp của NHNN thông qua nghiệp vụ trên TTNTLNH có tác dụng, điều kiện cần là TTNTLNH phải thực sự tạo niềm tin cho các NHTM bằng cách biến đây thành chỗ dựa của họ và nhu cầu được tham gia giao dịch ngọai tệ trên thị trường trở nên không thể thiếu. Hệ thống thanh tóan liên ngân hàng cần được đầu tư đúng mức để đạt được hiệu quả nhất, tiết kiệm thời gian cũng như nhân lực, đồng thời giúp cho cả NHNN và các NHTM có thể cập nhật những thông tin thị trường và ra quyết định nhanh nhất trong giao dịch trên thị trường này. Có như vậy, các nghiệp vụ ngoại hối mới có thể được thực hiện và phát triển trên thị trường, tránh sự đơn điệu về nghiệp vụ ngọai hối hiện nay của TTNTLNH và công cụ điều chỉnh của Nhà nước thông qua thị trường này mới có tác dụng. 3.3 Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng 3.3.1 Đối với ngân hàng Nhà nước - Cấu trúc lại tổ chức của NHNN từ Trung ương xuống chi nhánh theo hướng tinh gọn, hiện đại, tránh sự can thiệp của chính quyền các cấp. - Xây dựng và từng bước hoàn thiện các khung pháp lý đảm bảo sự bình đẳng cho hoạt động của các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ VN. - Xóa bỏ cơ chế bao cấp đối với các NHTM, đặc biệt là đối với các NHTM quốc doanh, buộc các ngân hàng này phải thực sự hoạt động theo nguyên tắc thị trường, xóa bỏ dần cơ chế tín dụng chỉ định, giao nghiệp vụ tín dụng ưu đãi theo chính sách của nhà nước cho các ngân hàng chính sách. - Lãi suất và tỷ giá hối đoái được thỏa thuận theo quan hệ cung cầu trên thị trường, thực hiện kiểm soát gián tiếp thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ. - Tiêu chuẩn hóa cán bộ, công chức ngân hàng. - Xây dựng hệ thống thông tin tài chính hiện đại, đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động an toàn và hiệu quả, dễ giám sát theo thông lệ quốc tế. - Rà soát lại toàn bộ những qui định về việc thành lập, hoạt động của các tổ chức tín dụng trong nước cũng như nước ngoài . . .áp dụng linh hoạt các công cụ dự trữ bắt buộc, cho vay tái chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở. 3.3.2 Đối với các ngân hàng thương mại Yêu cầu đối với các NHTM là : - Các ngân hàng phải có qui mô đủ lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả và có sức cạnh tranh cao. - Phân bổ và huy động vốn một cách có hiệu quả. - Nâng cao năng lực quản lý và tiềm lực tài chính của các NHTM trên cơ sở cơ cấu lại tài chính bao gồm : xử lý nợ quá hạn, đẩy mạnh tái đầu tư và cơ cấu lại sở hữu nhằm tăng vốn điều lệ. - Hiện đại hóa hoạt động ngân hàng, xây dựng và áp dụng cơ chế kiểm tra kiểm soát nội bộ theo thông lệ quốc tế. - Tạo sức cạnh tranh, mở rộng thị phần trong nước và tranh thủ thời cơ mở thị trường kinh doanh ra nước ngoài. 3.4 Tiến hành cổ phần hóa NHTMQD Tiến trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và lành mạnh hóa tài chính quốc gia đòi hỏi phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, các giải pháp lớn cần tiến hành như : xử lý nợ đọng, tăng vốn điều lệ....của hệ thống ngân hàng rất cần sự trợ giúp của Chính phủ và các cơ quan chức năng, tuy nhiên, để hệ thống ngân hàng có thể giữ được sự phát triển ổn định, đủ sức cạnh tranh trong môi trường mở cửa, ngăn ngừa sự phát sinh nợ xấu thì bản thân hệ thống ngân hàng cần có những nỗ lực hơn, nhất là các NHTMQD - những ngân hàng vốn chiếm ưu thế về thị phần và lượng vốn trong hệ thống ngân hàng VN. Để thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước có thể cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của NHTMQD với lượng cổ phần tối đa không được vượt quá một tỷ lệ qui định, nhằm tránh tình trạng bị thâu tóm bởi các tập đoàn tư bản nước ngòai do chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc điều hành cũng như tổ chức hoạt động của một NHTM hiện đại. Bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngòai, phát triển về vốn hoạt động ngân hàng, chúng ta có thể thuê các tổ chức tài chính quốc tế thực hiện việc cấu trúc lại hoạt động NHTM theo tiêu chuẩn của NHTM quốc tế hiện đại. Có như vậy, NHTM của VN mới trở thành một NHTM hiện đại đích thực, có khả năng cạnh tranh và vươn ra thị trường quốc tế. Xu hướng tất yếu khách quan ngày nay là hòa nhập kinh tế toàn cầu, gắn liền với quá trình tự do hóa thương mại và dòng vốn lưu chuyển không biên giới. Nếu tách biệt ra khỏi quá trình này, một quốc gia không thể đạt được sự phát triển cao và bền vững. Đối với VN, đổi mới trong chính sách tài chính là một bộ phận cấu thành của tiến trình hòa nhập kinh tế thế giới nên thành công của việc thực hiện chính sách tài chính sẽ góp phần không nhỏ vào thành công của công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội ... có như vậy, VN mới có thể thực hiện thành công tự do hóa tài chính - một bước tiến quan trọng, một xu thế tất yếu của quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay. (Theo TCKTPT) Hiện đại hoá ngân hàng: Thách thức lớn nhất là niềm tin TCKT cập nhật: 11/06/2006 (Bài viết có 2 trang. Bạn đang xem trang 1) Quá trình hiện đại hoá ngân hàng, mới nghe qua, cứ tưởng đâu như là những vấn đề thuộc về công nghệ. Nhưng thực tế,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan