Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Tài chính công vn

.DOC
24
55
119

Mô tả:

Câu 1: Thực trạng nợ công của Việt Nam hiện nay, nợ công có thực sự đáng lo ngại? Trả lời Về vấn đề nợ công Theo công bố mới đây của Bộ Tài chính, tổng nợ nước ngoài của Việt Nam đến năm 2010 là 32,5 tỉ USD, tăng 4,5 tỉ USD so với mức 27,9 tỉ USD năm 2009. Đáng chú ý là nợ của Chính phủ tăng dần trong giai đoạn 2006 - 2010, với con số tương đương là 27,8 tỉ USD (2010) so với 14,6 tỉ USD (2006). Đồng thời nợ do Chính phủ bảo lãnh cũng có cùng xu hướng tăng, với 4,6 tỉ USD (2010), cao hơn mức 1 tỉ USD năm 2006. Năm 2010, Việt Nam mới trả nợ được 1,6 tỉ USD. Những con số trên một lần nữa lại làm dấy lên nỗi lo lắng của dư luận, đặc biệt là sự quan ngại đối với vấn đề nợ công và hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay. Xét theo một khía cạnh nào đấy thì sự quan ngại trên không phải là không có cơ sở. Muốn hiểu rõ về khái niệm nợ công, trước hết ta phải tìm hiểu rõ khái niệm khu vực công. Khu vực công là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ khu vực nhà nước (gồm cả trung ương, địa phương) và doanh nghiệp Nhà nước (trong đó bao gồm cả phần vốn đóng góp theo tỷ lệ chi phối, hoặc không chi phối của Nhà nước tại doanh nghiệp), chịu áp lực chính trị cũng như phải chịu trách nhiệm về nợ nần chung. Nợ là một phần của tổng tiêu sản mà người mượn phải trả, hoặc là trả vốn hoặc trả cả vốn và lãi, hoặc bằng hàng hóa và dịch vụ cho người cho mượn ở một hay nhiều thời điểm trong tương lai. Nợ như vậy sẽ bao gồm: nợ vay như nợ ngân hàng, nợ qua việc bán trái phiếu, tiền trả trước của khách hàng, bổn phận phải chi trả khác (ví dụ nhà nước nợ công chức tiền hưu trí hứa hẹn sau khi về hưu). Nợ như vậy không bao gồm cổ phiếu hay phần hùn, thí dụ cổ phiếu hoặc phần hùn do công ty phát hành không phải là nợ của công ty đó với người sở hữu cổ phiếu hoặc phần hùn. Trong trường hợp chính phủ bảo lãnh nợ, thì chỉ ghi thành nợ chính phủ khi chính phủ phải thực hiện việc trả nợ. Nợ công theo định nghĩa như trên là rộng hơn so với nợ nhà nước. Các tổ chức quốc tế hiện nay khuyến khích các nước tính toán và theo dõi nợ công, chứ không chỉ nợ nhà nước. Lý do là vì nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam), có khu vực quốc doanh lớn (xuất phát từ chính sách định hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo). Về nguyên tắc luật pháp, trong trường hợp quốc doanh hay tư doanh đã được chấp nhận là công ty trách nhiệm hữu hạn, thì khi phá sản, người chủ sở hữu không chịu trách nhiệm gì về nợ nần của các công ty này ngoài tài sản đã góp. Tuy nhiên trên thực tế thì khác hẳn. Thứ nhất, nhiều công ty quốc doanh không phải là công ty trách nhiệm hữu hạn. Thứ hai, dù là công ty trách nhiệm hữu hạn, về mặt chính trị, nhà nước không thể thoái thác trách nhiệm nợ của họ. Qua đó cho thấy, số liệu nợ mà Bộ Tài chính Việt Nam phổ biến hiện nay là nợ nhà nước chứ không phải là nợ công. Nợ công thực tế chắc sẽ lớn hơn nhiều. Thống kê tài chính Việt Nam hiện nay vẫn chỉ tập trung vào nợ nhà nước, nên cũng khó lòng cho thấy toàn cảnh vấn đề tài chính công vì khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn và nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm nợ nần với khu vực này. Đây không phải là vấn đề của nhiều nước châu Á khác, do đó việc so sánh giữa Việt Nam với Thái Lan hoặc Malaysia chẳng hạn là không đúng trên thực tế về mặt nợ công. Giới hạn chỉ số nợ công nào là an toàn cho Việt Nam? Đưa ra một chỉ số giới hạn an toàn cho vấn đề nợ công của một quốc gia là rất khó khăn và nhiều khi không thực hiện được. Mỗi quốc gia có một đặc thù kinh tế cho riêng mình. Nếu chỉ xét chỉ tiêu tỷ lệ nợ công tính trên GDP để xác định mức độ an toàn là chưa đủ và chưa phản ánh đúng thực chất vấn đề. Khi nhìn vào Bảng cân đối tài khoản của một quốc gia thì các chuyên gia kinh tế thường nhìn cả 2 vế: Tài sản lẫn Nguồn vốn. Nợ công và tỷ lệ nợ công tính trên GDP của Việt Nam không phải là cao. Nếu nói về khả năng trả nợ thì hàng năm Việt nam chỉ phải trả nợ nước ngoài cả gốc lẫn lãi khoảng 1 tỷ USD, đây là số tiền không lớn để chúng ta trả nợ nước ngoài (chỉ tính riêng việc chúng ta xuất khẩu dầu thô đủ khả năng để trả nợ gốc và lãi nợ nước ngoài hàng năm). Các món vay nợ nước ngoài của Việt Nam phần lớn là vay nợ dài hạn. STT 1 2 3 4 5 6 Quốc gia Tổng nợ công Tỉ lệ nợ (USD) công/GDP Mỹ 7.581.480.000.000 53.7 % Nhật 9.613.320.000.000 191.9 % Tây Ban 887.312.000.000 62.1 % Nha Đức 2.507.240.000.000 79.6 % Hi Lạp 362.838.000.000 99.6 % Việt 49.302.700.000 51.7 % Nam (Nguồn: The Economist, năm 2010) Qua bảng số liệu trên sẽ thấy Mỹ và Đức có nợ công khá lớn, còn nếu nhìn vào tỷ lệ nợ công tính trên GDP thì Nhật bản là nước có tỷ lệ cao nhất. Tuy nhiên, tại sao các tổ chức và chính phủ các nước không lo ngại nợ công tại Đức mà lại rất lo ngại nợ công tại Hy Lạp và Tây Ban Nha? Cũng giống như một doanh nghiệp khi họ dùng tiền đi vay để kinh doanh, nếu họ vay 100 đồng và tài sản của họ sau khi vay nợ để kinh doanh lên tới 200 đồng, doanh nghiệp đó có khả năng trả nợ lãi và nợ gốc thường xuyên cho người cho vay thì chúng ta thấy họ là đối tượng đáng tin hơn là một doanh nghiệp chỉ vay 10 đồng để kinh doanh và họ không có tài sản gì để trả nợ chúng ta. Nợ công của một quốc gia cũng vậy. Việc nợ công cao cũng như tỷ lệ nợ công trên GDP cao chưa phải là đáng lo ngại mà điều chúng ta cần quan tâm là nợ công đó được đầu tư như thế nào, khả năng trả nợ của chính phủ đó ra sao? Nếu số tiền đó được đầu tư hiệu quả thì càng cần phải khuyến khích vay nợ thêm để chính phủ có thể tạo ra nhiều tài sản và lợi ích cho xã hội hơn, đồng thời số tiền thu được từ nguồn lợi đầu tư của Chính phủ có thể trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn trong tương lai. Ngược lại nếu nợ công không được Chính phủ đầu tư hiệu quả và bị thất thoát thì nó sẽ trở thành "quả bom hẹn giờ" luôn treo lơ lửng bên cạnh nền kinh tế, nó sẵn sàng bị nổ phá nát nền kinh tế bất cứ lúc nào. Câu 2: Các giải pháp và đề xuất trong quản lý nợ công của Việt Nam hiện nay? Trả lời Teo báo cáo của Bộ Tài chính tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, ước tính đến ngày 31.12.2010 nợ công sẽ là 56,7% GDP; nợ chính phủ là 44,5% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia là 42,2% GDP. Nhìn vào những con số trên, trong bối cảnh khủng hoảng nợ công đang có nguy cơ lan rộng ở châu Âu, đã có nhiều nhận định cho rằng, kinh tế Việt Nam đang đứng trước những rủi ro lớn. Tuy nhiên, mặc dù nợ công đang ở mức cao nhưng với các khoản vay nước ngoài phần lớn đều là vay dài hạn, với lãi suất ưu đãi, hiện tại nợ công không gây sức ép cho ngân sách nhà nước về nghĩa vụ trả nợ đến hạn. Theo Bộ Tài chính hiện các chỉ số nợ của Việt Nam đang ở mức an toàn và nợ công đang được quản lý chặt chẽ theo quy định của Luật Quản lý nợ công, các khoản nợ trong nước và nước ngoài đều được thanh toán đầy đủ, không có nợ xấu. Hàng năm ngân sách nhà nước bố trí trả nợ từ 14 -16% tổng số thu ngân sách (giới hạn cảnh báo là dưới 30%), bằng khoảng 4,5% xuất khẩu (giới hạn cảnh báo là dưới 15%). Đây là chỉ tiêu an toàn, so với các nước đang phát triển có cùng hệ số tín nhiệm thì chỉ số nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam ở mức trung bình. Thực tế cho thấy, trong những năm qua nợ công đã góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế- xã hội. Những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam luôn có tốc độ tăng trưởng khá, ngay cả năm 2009 khi kinh tế thế giới đang ở đà suy thoái, nhiều nền kinh tế lớn tăng trưởng âm thì tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn đạt 5,3%. Đạt được kết quả đó có phần đóng góp quan trọng của nguồn vốn vay nợ. Những năm tới, trong điều kiện của một nước đang phát triển, nền kinh tế đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển tăng cao, đối với Việt Nam nợ công vẫn là nguồn tài chính quan trọng bù đắp thâm hụt ngân sách để chi đầu tư cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Tuy nhiên, việc gia tăng liên tục vay nợ công cũng tạo ra rủi ro tiềm ẩn đối với ngân sách nhà nước, nhất là các rủi ro tài khoá. Vì thế, bên cạnh việc quản lý tốt nợ công cần có các giải pháp hiệu quả kích thích đầu tư các nguồn vốn của khu vực tư nhân và phát triển vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Như trên đã phân tích về lý luận và thực tiễn một số nền kinh tế lớn trên thế giới, khi xem xét, đánh giá nợ công không chỉ chú ý vào tỷ lệ nợ/GDP cao hay thấp mà quan trọng hơn là hiệu quả sử dụng vốn vay như thế nào, tức là quản lý nợ công có hiệu quả, phát huy được các tác động tích cực của nợ công và giảm bớt tác động tiêu cực của nó. Hiệu quả sử dụng các khoản vay nợ phụ thuộc nhiều vào chính sách quản lý các khoản vay của ngân sách nhà nước. Do tính chất khác biệt giữa nguồn vay và nguồn từ thuế và phí, việc quản lý một cách chặt chẽ đòi hỏi phải có các cơ chế quản lý riêng biệt đối với các khoản chi từ nguồn vay nợ và các khoản chi thông thường (từ nguồn thu thuế và phí). Theo đó, các khoản chi từ nguồn vay nợ đòi hỏi phải có các quy định quản lý chặt chẽ theo hiệu quả đầu ra, đảm bảo các tiêu chí về hoàn trả nợ (gốc và lãi), tiêu chí về tiến độ giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn, tiêu chí về giảm thiểu rủi ro và các tiêu chí khác. Những quy định này thường áp dụng với mức độ đòi hỏi thấp hơn, hoặc không áp dụng đối với các khoản chi tiêu ngân sách thông thường (được chi từ nguồn thu thuế và phí). Việc có những quy định về quản lý ngân sách riêng biệt đối với các khoản chi từ nguồn vay nợ được coi là một tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá tính bền vững của nợ công nói riêng và ngân sách nhà nước nói chung. Để nợ công được quản lý chặt chẽ từ khâu vay nợ, sử dụng và thanh toán nợ đến hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng, giữ vững uy tín quốc gia trong thanh toán nợ, đảm bảo an ninh tài chính đối với các khoản nợ công, hạn chế rủi ro, cần thực hiện tốt một số nội dung như sau: - Một là, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch chiến lược về vay nợ công trên cơ sở và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu, chi ngân sách nhà nước trong từng giai đoạn, thời kỳ. Kế hoạch chiến lược về vay nợ công xác định rõ mục đích vay (vay nợ để tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu nợ và cho vay lại hoặc vay để tài trợ cho các chương trình, dự án đầu tư quan trọng, hiệu quả, vay nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia), mức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối tượng vay trong nước và ngoài nước, với hình thức huy động vốn và lãi suất thích hợp. Kế hoạch chiến lược về vay nợ công cũng cần chỉ rõ đối tượng sử dụng các khoản vay, hiệu quả dự kiến; xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn, tránh tình trạng tiền vay không được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự có nhu cầu sử dụng. - Hai là, đảm bảo tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ công, có khả năng thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ Chính phủ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ… - Ba là, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay về cho vay lại và các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh. Chính phủ vay về cho vay lại và bảo lãnh vay là các hoạt động thường phát sinh khi doanh nghiệp cần huy động một lượng vốn lớn trên thị trường vốn quốc tế, nhưng không đủ uy tín để tự mình đứng ra vay nợ. Khi đó, Chính phủ có thể giúp doanh nghiệp tiếp cận được với các nguồn vốn quốc tế với quy mô lớn, lãi suất thấp. Các khoản vay và bảo lãnh này thực chất là nghĩa vụ ngân sách dự phòng, làm nảy sinh nguy cơ ngân sách nhà nước phải trang trải các khoản nợ của khu vực doanh nghiệp trong tương lai, khi doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc mất khả năng thanh toán. Nguy cơ này sẽ càng cao hơn nữa khi Chính phủ vay và phát hành bảo lãnh không dựa trên những phân tích thận trọng về mức độ rủi ro cũng như năng lực trả nợ của doanh nghiệp. Do đó, việc vay về cho vay lại và bảo lãnh vay cần hết sức thận trọng, chỉ nên ưu tiên cho các chương trình, dự án trọng điểm của Nhà nước hoặc thuộc các lĩnh vực ưu tiên cao của quốc gia. Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh và việc cấp bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay nợ trong nước; khuyến khích phát triển mô hình hợp tác công - tư (PPP). - Bốn là, nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn vay, vốn được Chính phủ bảo lãnh. Đây là vấn đề cốt yếu đảm bảo cho khả năng trả nợ và tính bền vững của nợ công. Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng các khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp... ; trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá trình vay nợ. Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân thủ 2 nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng. - Năm là, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công. Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ công. Để thực hiện tốt nguyên tắc quan trọng đó, nợ công cần phải được tính toán, xác định đầy đủ trong quyết toán ngân sách nhà nước và phải được cơ quan chuyên môn độc lập kiểm tra, xác nhận. Để hỗ trợ thực hiện tốt 5 vấn đề nêu trên, Kiểm toán Nhà nước với tư cách là cơ quan độc lập về kiểm tra tài chính nhà nước cần được quy định rõ nhiệm vụ kiểm toán nợ công trong Luật Quản lý nợ công và Luật Kiểm toán nhà nước. Kiểm toán Nhà nước kiểm tra, xác nhận số liệu nợ, đánh giá tính bền vững của nợ Chính phủ so với GDP, trong mối quan hệ với bảo đảm an ninh tài chính quốc gia; cơ cấu nợ, tỷ lệ vay nợ nước ngoài trong tổng số nợ; cơ chế quản lý nợ, mục đích sử dụng các khoản vay nợ (nhất là nợ nước ngoài); tính minh bạch và đầy đủ trong các khoản nợ… giúp Chính phủ có số liệu xác thực và thực trạng trung thực để đề ra các giải pháp tổng thể bảo đảm bền vững của ngân sách trong tương lai. Kiểm toán nợ công cần được tiến hành thường xuyên để có thể kiểm soát kịp thời các rủi ro trong quản lý. Tuy nhiên, trên thực tế do nợ công gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền địa phương, mỗi loại nợ này có những đặc thù về quản lý khác nhau đồng thời liên quan đến nhiều cơ quan quản lý, đối tượng sử dụng nên để tổ chức kiểm toán thường xuyên nợ công có hiệu quả thì hàng năm phải kiểm toán các báo cáo thường niên về nợ công đồng thời tăng cường số lượng và chất lượng các cuộc kiểm toán chuyên đề về nợ công, như chuyên đề kiểm toán vay nợ nước ngoài của Chính phủ, vay nợ trong nước, các khoản nợ Chính phủ bảo lãnh, chi phí vay nợ... Mặt khác, tăng cường kiểm toán việc sử dụng và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, vốn được Chính phủ bảo lãnh tại các dự án đầu tư, các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại từ đó cảnh báo nguy cơ rủi ro có thể xảy ra đe dọa tính bền vững của nợ công và ngân sách nhà nước. cau 1:Giám sát trong một hệ thống ngân sách Nhà nước lồng ghép ở Việt Nam cau 2:Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát ở Việt Nam\ câu 3: Giữa phạm trù tài chính nhà nước và tài chính công có sự khác nhau hay không?Giải thích? câu 4: Các vấn đề đặt ra trong chi tiêu công ở Việt Nam hiện nay,phương hướng và biện pháp khắc phục? bài làm câu 1: Giám sát trong một hệ thống ngân sách Nhà nước lồng ghép ở Việt Nam Hệ thống ngân sách nhà nước (NSNN) của nước ta có một đặc điểm khác biệt so với nhiều nước trên thế giới. Đó là tính “lồng ghép”. NSNN bao gồm ngân sách trung ương (NSTƯ) và ngân sách các cấp chính quyền địa phương (NSĐP). Cả 4 cấp ngân sách hợp chung thành hệ thống NSNN. Ngân sách cấp dưới là bộ phận hợp thành của ngân sách cấp trên. Ngân sách cấp trên không chỉ bao gồm ngân sách cấp mình mà còn gồm cả ngân sách cấp dưới. Ngân sách xã được “lồng” vào ngân sách huỵên. Ngân sách huỵên được “lồng” vào ngân sách tỉnh. Ngân sách tỉnh được “lồng” vào NSNN. Do tính chất lồng ghép của hệ thống NSNN mà nhiều chỉ tiêu thu và chi của ngân sách cấp dưới do cấp trên ấn định. Điều này đã không khuyến khích cấp dưới tự cân đối thu, chi, lập dự toán tích cực, mà thường có xu hướng lập dự toán thu thấp, dự toán chi cao để được nhận trợ cấp nhiều hơn. Về nội dung giám sát Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện chức năng giám sát về NSNN trên các nội dung sau: (i) Giám sát về dự toán NSNN hàng năm; (ii) Giám sát phân bổ NSTƯ và số bổ sung từ NSTƯ cho NSĐP; giám sát việc giao nhịêm vụ thu, chi ngân sách cho các Bộ, ngành trung ương (TƯ), tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ; (iii) Giám sát quá trình chấp hành NSNN; (iv) Giám sát việc phê chuẩn quyết toán NSNN. Đối với việc giám sát về dự toán NSNN, phân bổ ngân sách cần căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế – xã hội (KTXH) và dự toán NSNN hàng năm; các văn bản pháp luật và các chế độ chính sách về tài chính – ngân sách; phối hợp với các cơ quan hữu quan để được cung cấp thông tin và tiến hành xử lý thông tin trong quá trình giám sát. Từ đó, có kết luận đúng và đề xuất kiến nghị giải pháp thích hợp cho ngành và địa phương trong quản lý và điều hành NSNN. Đối với việc giám sát quá trình chấp hành NSNN chủ yếu là giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về dự toán NSNN và phân bổ NSTƯ; chấp hành chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi ngân sách; thanh toán các khoản chi ngân sách qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Đối với việc giám sát phê duyệt quyết toán NSNN cần căn cứ vào dự toán NSNN đã được Quốc hội phê chuẩn; căn cứ vào báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện dự toán ngân sách của năm quyết toán; căn cứ vào báo cáo kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước; đồng thời, tham khảo quyết toán ngân sách của một số Bộ, ngành, địa phương để có ý kiến xác đáng trong quá trình giám sát phê duyệt quyết toán. Từ đó, kiến nghị với Chính phủ chỉ đưa vào quyết toán những khoản thực thu, thực chi qua NSNN; xuất toán những khoản tạm ứng, thu và chi trái quy định của pháp luật, làm rõ các khoản ghi thu – ghi chi… Bên cạnh việc giám sát về dự toán, phân bổ ngân sách và phê duyệt quyết toán như nêu trên, Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính – ngân sách (như Nghị định của Chính phủ; các Quyết định, Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành trung ương; các văn bản của HĐND và UBND cấp tỉnh). HĐND thực hịên giám sát việc chấp hành dự toán NSĐP, phân bổ NSĐP, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới (nếu có) và phê chuẩn quyết toán NSĐP; giám sát việc thực hiện Nghị quyết của HĐND trong lĩnh vực tài chính – ngân sách và các văn bản pháp luật của cấp trên trên địa bàn. Về đối tượng giám sát Đối tượng giám sát của Quốc hội là các cơ quan hành pháp, bao gồm Chính phủ, các bộ, ngành trung ương và chính quyền cấp tỉnh, các đơn vị sử dụng NSNN; trong đó, Bộ Tài chính là cơ quan tổng hợp các báo cáo về NSNN, trình Chính phủ và trình Quốc hội xem xét, quyết định. Đối tượng giám sát của HĐND là Uỷ ban nhân dân (UBND) và các cơ quan hành pháp ở địa phương trong việc quản lý và điều hành NSĐP; trong đó, Sở Tài chính là cơ quan tổng hợp các báo cáo về NSĐP, trình UBND và trình HĐND xem xét quyết định. Với quy trình trên, Quốc hội và HĐND cần có sự phối hợp chặt chẽ để tổ chức giám sát NSNN đạt kết quả cao. Chú trọng giám sát theo chuyên đề, kết hợp giữa Đoàn đại biểu Quốc hội và thường trực HĐND, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các Đoàn giám sát của các cơ quan của Quốc hội (như Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban Các vấn đề xã hội, Uỷ ban Văn hoá giáo dục, Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội. …) Về hình thức giám sát Theo quy định của Luật hoạt động giám sát (năm 2003), vận dụng trong lĩnh vực NSNN thì các hình thức giám sát thuộc lĩnh vực NSNN bao gồm: - Nghe báo cáo về dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTƯ, quyết toán NSNN và chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội, HĐND tỉnh. - Tổ chức các Đoàn giám sát chung và giám sát chuyên đề theo chương trình, kế hoạch giám sát đã được phê duyệt. - Cử thành viên của Đoàn giám sát đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét và xác minh các vấn đề về tài chính – ngân sách. - Tổ chức nghiên cứu, lập báo cáo giám sát và xem xét, xử lý các kiến nghị, tố cáo của công dân đối với công tác quản lý tài chính – ngân sách . Để bảo đảm chất lượng của công tác giám sát NSNN, chúng tôi cho rằng, cần chú ý các hình thức giám sát sau đây: Một là, giám sát chung: Đây là hình thức xem xét các báo cáo và chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội và cuộc họp các Uỷ ban của Quốc hội. Các báo cáo về NSNN như: Báo cáo tình hình thực hiện dự toán NSNN năm hiện hành, dự toán NSNN năm kế hoạch; Báo cáo phương án phân bổ ngân sách năm kế hoạch; Báo cáo tình hình đầu tư và sử dụng vốn NSNN của các công trình dự án quan trọng của quốc gia… là những báo cáo mà các cơ quan chức năng phải trình cho Quốc hội và HĐND xem xét, thảo luận và quyết định. Các báo cáo này đã được quy định khá cụ thể trong Nghị quyết 387/UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định 73/2003/NĐ-CP ngày 23/6/2003 của Chính phủ. Việc xem xét, thảo luận các báo cáo hàng năm hoặc 6 tháng tại các kỳ họp cuối năm hay giữa năm được tiến hành theo trình tự chặt chẽ do luật định; trong đó, phải có thẩm tra, phản biện, thảo luận, tranh luận của các cơ quan của Quốc hội và HĐND, các đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND đối với các vấn đề trong nội dung báo cáo về NSNN. Hai là, giám sát theo chuyên đề: Đây là hình thức giám sát chuyên sâu về những chuyên đề cụ thể, giúp Quốc hội có nhận xét, đánh giá sâu hơn về những chủ đề mà nhiều cử tri trong cả nước quan tâm. Thời gian qua, Quốc hội đã thực hiện giám sát một số chuyên đề như “Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp, lãng phí, thất thoát”; chuyên đề “ Việc thực hiện Luật NSNN từ khi Luật có hiệu lực đến trước khi lập dự toán NSNN năm 2006”; chuyên đề “Kết quả thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn từ năm 2001 đến nay” và một số chuyên đề khác đã mang lại những kết quả tích cực trong công tác giám sát của Quốc hội. Ba là, giám sát đột xuất: Đây là hình thức giám sát khi công tác quản lý và điều hành NSNN có dấu hiệu trái với quy định của Luật NSNN và vi phạm các chế độ, tiêu chuẩn, định mức. Khi đó, Quốc hội và HĐND thực hiện quyền giám sát để chấn chỉnh các sai phạm, các vi phạm nhằm bảo đảm kỷ luật tài chính, chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả. Phương thức giám sát này bảo đảm tính hợp pháp trong quản lý và điều hành NSNN theo quy định của pháp luật. Các cơ quan của Quốc hội và HĐND, từng đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cần thực hiện tốt hình thức giám sát này và có các đề nghị kịp thời tại kỳ họp của Quốc hội và HĐND. Để các hình thức giám sát nói trên có hiệu quả, các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cần tích cực chất vấn các đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội và HĐND. Quyền này được thực hiện ngay trong thời gian Quốc hội hoặc HĐND họp, hoặc trong thời gian giữa hai kỳ họp. Người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề mà đại biểu chất vấn quan tâm. Công cụ để thực hiện giám sát NSNN Một trong những công cụ quan trọng để thực hiện giám sát NSNN có hiệu quả là hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Cơ quan này đảm nhận việc kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động của các đơn vị thụ hưởng ngân sách; thực hiện kiểm tra và giám sát tài chính công. Hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước sẽ tác động đến các đơn vị sử dụng NSNN, buộc các đơn vị này phải sử dụng ngân sách theo đúng chế độ, định mức, tiêu chuẩn nhà nước đã quy định, khuyến khích sử dụng nguồn lực nhà nước đạt kết quả cao, chống lãng phí, tham nhũng, tăng cường kỷ luật tài chính – ngân sách. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước có trách nhịêm kiểm toán tính đúng đắn, hợp pháp của các số liệu báo cáo quyết toán của các cấp ngân sách; kiểm toán hoạt động để xác nhận tính hiệu quả trong quản lý và điều hành NSNN và báo cáo kết quả kiểm toán với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Kiểm toán báo cáo quyết toán phải thực hiện trước khi Quốc hội hoặc HĐND phê chuẩn tổng quyết toán, trường hợp kiểm toán sau chỉ được thực hiện khi Quốc hội hoặc HĐND có yêu cầu. Báo cáo kết quả kiểm toán được công bố công khai. Luật Kiểm toán Nhà nước có hiệu lực từ 1/1/2006 đã quy định, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là bước chuyển biến quan trọng làm thay đổi nội dung giám sát NSNN thuộc thẩm quyền của Quốc hội và HĐND. Ngoài cơ quan Kiểm toán Nhà nước thì Quốc hội và HĐND còn có quyền sử dụng các cơ quan Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Tài chính, Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân tối cao (đối với Quốc hội), Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Toà án nhân dân tỉnh (đối với HĐND tỉnh) để phục vụ cho công tác giám sát tài chính – ngân sách. Một số giải pháp tăng cường năng lực giám sát của Quốc hội và HĐND Bên cạnh những kết quả đạt được và rất có ý nghĩa trong công tác giám sát NSNN thời gian qua, thì hoạt này vẫn còn những hạn chế nhất định như chất lượng chưa cao, còn tình trạng nể nang, né tránh, chưa thực sự mang tính xây dựng và thúc đẩy công tác quản lý và điều hành NSNN có hiệu quả. Để thực hịên tốt các nội dung, hình thức và phương pháp giám sát như nêu trên, chúng tôi cho rằng, cần tăng cường sự phối hợp giữa Quốc hội và HĐND cấp tỉnh. Sau giám sát, Quốc hội và HĐND cấp tỉnh cần có kiến nghị xác đáng với Chính phủ, UBND trong việc chấp hành Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết của HĐND; xử lý các kiến nghị sau giám sát. Cần phải nghiên cứu sửa đổi Luật NSNN để xoá bỏ tính lồng ghép của hệ thống NSNN, sự cân đối thay của NSTƯ cho NSĐP, bảo đảm việc xem xét và quyết định ngân sách một cách rõ ràng và minh bạch hơn. Quốc hội chỉ xem xét, quyết định dự toán NSTƯ và phân bổ NSTƯ; HĐND các cấp xem xét, quyết định và phân bổ NSĐP; tránh trùng lắp trong quyết định ngân sách, phát huy vai trò và thực quyền của các cơ quan dân cử trong lĩnh vực tài chính – ngân sách. Tạo lập cơ chế phù hợp để nâng cao hiệu lực giám sát NSNN, như: quy định cụ thể chế độ báo cáo định kỳ từng quý của các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế phải gửi tới Quốc hội và HĐND; quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thực hịên những ý kiến, kiến nghị của Quốc hội và HĐND; quy định các chế tài cần thiết trong trường hợp các cơ quan nhà nước không xem xét giải quyết, hoặc giải quyết không thoả đáng những kiến nghị qua giám sát của Quốc hội và HĐND. Mặc dù Quốc hội đã ban hành Luật về hoạt động giám sát (năm 2003), nhưng nhiều vấn đề cần được hướng dẫn cụ thể. Hiện nay, lĩnh vực giám sát của Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách rất rộng, liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều cơ quan nhà nước, trong khi biên chế và tổ chức bộ máy chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị đổi mới tổ chức của Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội, đặc biệt là tách thành 2 Uỷ ban (Uỷ ban Kinh tế và Uỷ ban Tài chính – Ngân sách) để chuyên môn hoá sâu hơn. Lựa chọn nhân sự và giới thiệu bầu vào các Uỷ ban những người am hiểu sâu về lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực tài chính – ngân sách. Đồng thời, tăng cường bộ máy tham mưu, giúp việc có hiệu quả hơn, tăng số lượng chuyên gia về tài chính – ngân sách, có kinh nghiệm công tác tại các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; xem xét tách Vụ Kinh tế và Ngân sách của Văn phòng Quốc hội thành Vụ Kinh tế và Vụ Tài chính – Ngân sách , đồng thời đổi mới phương thức làm việc nhằm phát huy tối đa năng lực của từng thành viên. Kết luận Để quản lý và điều hành NSNN lành mạnh, bền vững và hiệu quả cao thì không thể thiếu công tác giám sát NSNN. Công tác này được xem là “chìa khóa” để giữ cho NSNN không xảy ra khủng hoảng, bảo đảm an ninh tài chính và cho phép các nhà quản lý phát hiện và phòng ngừa những nguy cơ xảy ra đối với công tác quản lý và điều hành NSNN, tác động xấu đến kinh tế vĩ mô và nền tài chính quốc gia. Thực tế cho thấy, sự yếu kém của hệ thống giám sát NSNN (cả vĩ mô và vi mô) là một trong những nguyên nhân dẫn đến hao tổn nguồn lực tài chính, không đủ để thực hịên các mục tiêu và nhiệm vụ đã đặt ra. Cải cách và hoàn thịên hệ thống giám sát NSNN, cơ chế kiểm tra, thanh tra, đánh giá mức độ rủi ro của NSNN và của cả hệ thống tài chính nói chung là hết sức cần thiết. Giám sát trong một hệ thống NSNN “lồng ghép” như ở Việt Nam là rất phức tạp và khó khăn, nhưng nó đóng vai trò quan trọng để góp phần bảo đảm cho việc quản lý và điều hành NSNN đúng pháp luật, đúng Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của HĐND về NSNN, bảo đảm thực quyền của các cơ quan dân cử; tăng cường tính công khai, minh bạch ngân sách nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát và giám sát của các cơ quan chức năng; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhằm đẩy lùi những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực. Câu 2: BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Tình hình lạm phát năm 2007 (12,63%) và bốn tháng đầu năm 2008 (11,6%) ở nước ta đã và đang đặt ra đòi hỏi làm thế nào để kiểm soát được lạm phát, đưa tỷ lệ lạm phát xuống thấp ở mức có thể chấp nhận được. Nguyên nhân gây ra lạm phát thì có nhiều, nhưng trong bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) với lạm phát ở nước ta hiện nay, nhằm tìm ra một lời giải nhỏ trong lời giải tổng thể cho kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. 1. Khái niệm và bản chất của lạm phát Trước khi đi vào phân tích mối quan hệ giữa bội chi NSNN với tình hình lạm phát ở nước ta, chúng tôi muốn tóm lược lại khái niệm và bản chất của lạm phát để tiện luận giải trong phần sau. Lạm phát là một quá trình giá tăng liên tục, tức là mức giá chung tăng lên hoặc là quá trình đồng tiền liên tục giảm giá. Nguyên nhân gây ra lạm phát có nhiều, bao gồm: - Lạm phát là do sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế, mâu thuẫn về phân phối gây ra tăng giá. Cơ chế lan truyền đã tạo nên căng thẳng thêm các mâu thuẫn đó và dẫn đến lạm phát tăng lên. Lạm phát là tất yếu của nền kinh tế khi muốn tăng trưởng cao, nhưng lại tồn tại nhiều khiếm khuyết, hạn chế và yếu kém. Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế xuất hiện khi có quan hệ không bình thường trong các cân đối lớn của nền kinh tế như công nghiệp – nông nghiệp, công nghiệp nặng – công nghiệp nhẹ, sản xuất – dịch vụ, xuất khẩu – nhập khẩu, tích luỹ- tiêu dùng. Những thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế – xã hội do tăng trưởng kinh tế thường dẫn đến giá tăng lên khi cơ cấu thị trường chưa được hoàn chỉnh, các nguồn vật lực có giới hạn, các quan hệ không được đặt trong một sự cân đối hợp lý, năng lực sản xuất không được khai thác hết, trạng thái vừa thừa vừa thiếu xuất hiện. - Lạm phát là do tiền tệ, giá tăng lên ít nhiều là do tăng cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Với quan điểm này, lạm phát xuất hiện khi có một khối lượng tiền bơm vào lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông của thị trường. Điều này, được biểu hiện ở chỗ đồng tiền nội địa mất giá. - Lạm phát do cầu kéo hay là do sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá và dịch vụ. Khi tổng cầu hàng hoá và dịch vụ có khả năng thanh toán lớn hơn tổng cung hàng hoá và dịch vụ, đã đẩy giá tăng lên để thiết lập một sự cân bằng mới trên thị trường, trong đó tổng cung bằng tổng cầu. Lạm phát phụ thuộc vào độ co dãn của giá cung hàng hoá và dịch vụ. Cung hàng hoá và dịch vụ có thể tăng nhanh do tăng giá một chút nếu độ co dãn của giá là lớn. Một mặt, nếu các cơ sở sản xuất đang hoạt động thấp hơn công suất hiện có và còn nhiều công suất sản xuất chưa được sử dụng, cung hàng hoá sẽ tăng nhờ tác động tăng cầu hàng hóa và có thể không gây ra lạm phát. - Lạm phát (chi phí đẩy) xảy ra khi có tác động của các yếu tố bên ngoài tác động vào không gắn với tình hình tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Như chúng ta đều biết, ở hầu hết các nước đang phát triển thường phải nhập một lượng lớn nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong nước, nếu giá của những loại nguyên vật liệu này trên thị trường thế giới tăng lên làm cho chi phí sản xuất các sản phẩm sẽ tăng lên và để tồn tại, buộc các nhà sản xuất phải đưa giá bán trên thị trường trong nước tăng lên theo. Như vậy, với nguyên nhân gây ra lạm phát nêu trên, bội chi NSNN nằm trong yếu tố cơ cấu và tiền tệ, đôi lúc cả trong yếu tố cầu kéo. Thực tế, một công cụ chính sách trọng tâm trong việc thay đổi mức tổng cầu và cán cân ngoại thương là việc giảm thâm hụt ngân sách. Chính sách ngân sách hạn chế giống như là giảm mức giá với bất kỳ giá nào trong một cuộc suy thoái kinh tế trầm trọng. Có hai dạng tác động của chính sách tài chính lên tổng cầu là tác động trực tiếp do thay đổi chi tiêu chính phủ và tác động gián tiếp do thay đổi cán cân tài chính trong chi tiêu khu vực tư nhân và/hoặc hàng nhập khẩu sẽ bị thay đổi do tác động trực tiếp do giảm chi tiêu khu vực công cộng thông qua việc thay đổi loại hàng hoá thương mại và phi thương mại. Hơn nữa, ở các nước đang phát triển, chi tiêu khu vực tư nhân liên quan mật thiết đến chi tiêu khu vực công cộng và thường xuyên có sự bổ sung hỗ trợ mạnh mẽ trong sự hình thành vốn tư nhân và vốn nhà nước. Do vậy, chúng ta có thể tập trung chú ý vào chi tiêu công cộng. Tổng cầu sẽ giảm, nếu giảm chi tiêu công cộng. Kết quả là: một mặt, mức giá sẽ giảm; mặt khác, sản phẩm sẽ tăng lên. 2. Bội chi NSNN với lạm phát Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta trong tình trạng yếu kém, thu không đủ chi thường xuyên, thâm hụt NSNN cao quá mức, chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính. Đến giai đoạn từ năm 1986-1990, trước tình hình khó khăn về kinh tế và chính trị, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã cắt giảm dần viện trợ của họ cho nước ta. Trước tình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN. Với những bước đi chập chững ban đầu, chính sách tài chính đã có đổi mới một bước. Tuy nhiên, thu NSNN càng không đủ chi và bù đắp thâm hụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành. Chính yếu kém về NSNN nêu trên, là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chi NSNN đã tăng cao tới mức bùng nổ ở trong những năm 1985-1988, đã gây ra thâm hụt NSNN trầm trọng vì không có sự tăng lên tương ứng về số thu. Giai đoạn từ năm 1986 – 1990, khi mà tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế rất thấp (có thể nói là không đáng kể), làm không đủ ăn thì tỷ lệ chi đầu tư phát triển như ở đồ thị 1 là quá lớn và nguồn bù đắp cho thâm hụt NSNN lại chủ yếu do tiền phát hành thì lạm phát cao là điều khó tránh khỏi. Đồ thị 1: Tổng bội chi NSNN và tiền phát hành để bù đắp bội chi NSNN (1985 – 1990) Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trong thời gian 5 năm 1986 – 1990, 59,7% mức thâm hụt này được hệ thống Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Năm 1984, phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách là 0,4 tỷ đồng, năm 1985: 9,3 tỷ đồng, năm 1986: 22,9 tỷ đồng, năm 1987: 89,1 tỷ đồng, năm 1988: 450 tỷ đồng, năm 1989: 1655 tỷ đồng và năm 1990 là 1200 tỷ đồng. Số còn lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện trợ của nước ngoài (so với bội chi, khoản vay và viện trợ năm 1984 là 71,3%, năm 1985 là 40,8%, năm 1986: 38,4%, năm 1987: 32,1%, năm 1988: 32,6%, năm 1989: 24,9%, năm 1990 là 46,7%) và một số nhỏ do các khoản thu từ bán công trái trong nước. Mặc dù có nhiều cố gắng đáng kể trong năm 1989, nhưng tình trạng thiếu hụt NSNN vẫn trầm trọng. Tổng chi đã tăng gấp đôi so với năm 1988, một phần do lạm phát chuyển từ năm 1988 sang và đã làm tăng giá đáng kể một số mặt hàng và dịch vụ thiết yếu do Nhà nước cung cấp. Tất cả những phân tích ở trên cho thấy, có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát cao trong giai đoạn từ năm 1986-1990, trong đó có việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng sự phát hành tiền như ở đồ thị 1. Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1995, tình hình đất nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, sản xuất và lưu thông hàng hoá đã có động lực mới, tình trạng thiếu lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát siêu mã đã được đẩy lùi, nhưng lạm phát cao vẫn còn. Cơ cấu chi NSNN đã dần dần thay đổi theo hướng tích cực. Nguồn thu trong nước đã đủ cho chi thường xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Trong giai đoạn này, chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt NSNN đã giảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài. Trong giai đoạn từ năm 1991-1995, tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2% và năm 1995 là 4,17%). Như vậy, có thể thấy bội chi NSNN trong những năm 1991-1995 là rất thấp, thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ trong thời kỳ này và đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm chế lạm phát. Giai đoạn từ năm 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển biến tích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu tư phát triển, thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn từ năm 1996-2000, do tác động của khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến năm 2000, tốc độ này mới tăng lên chút ít, chặn đứng đà giảm sút. Trong những năm này, tỷ lệ bội chi NSNN ở mức từ 3,0% GDP năm 1996 lên 4,95% GDP năm 2000 (năm 1996: 3%, năm 1997: 4,05%, năm 1998: 2,49%, năm 1999: 4,37%, năm 2000: 4,95%). Tỷ lệ bội chi bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình quân năm 1991-1995 (2,63%). Năm 2000 có mức bội chi cao nhất là 4,95% GDP và năm 1998 có mức bội chi thấp nhất là 2,49%. Đây là thời kỳ suy thoái và thiểu phát, nên mức bội chi NSNN như trên không tác động gây ra lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn đi lên. Giai đoạn từ năm 2001-2007, NSNN cũng đã có chuyển biến đáng kể. Tốc độ tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân hằng năm đạt 18,5%. Bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ so với GDP, cũng thấy bội chi NSNN trong 7 năm trở lại đây tăng cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng 4,95% GDP) vì giai đoạn năm 19911995, mức bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn từ năm 1996-2000 ở mức 3,87% so với GDP. (Xem đồ thị 2) Đồ thị 2: Bội chi NSNN so với GDPĐồ thị 2: Bội chi NSNN so với GDP Nguồn: Bộ Tài chính Nếu chỉ xem xét bội chi NSNN so với GDP thì chưa thấy hết sự tăng lên của nó trong những năm gần đây; đặc biệt những năm gần đây, ngoài NSNN được cân đối, đã có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư các công trình giao thông và thuỷ lợi thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ không cân đối vào NSNN. Ngoài ra, phải kể đến lượng công trái giáo dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá trường lớp học cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài NSNN. Nếu cộng cả hai loại trên vào cân đối NSNN, bội chi NSNN trong những năm qua không phải chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2% GDP). (Xem đồ thị 3) Đồ thị 3: Bội chi NSNN so với GDP Nguồn: Bộ tài chính, Tổng cục Thống kê và tác giả tính toán Thực tế trong 8 năm qua, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng bội chi NSNN là khá cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố tăng trưởng thì còn cao hơn tỷ lệ lạm phát hằng năm (năm 2001: 0,2%; năm 2002: 1,6%; năm 2003: 9,7%; năm 2004: 8,1%; năm 2005: 9,0%; năm 2006: 11,1%; năm 2007: 7,8%). Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát bội chi NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tăng tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên. (Xem đồ thị 4) Đồ thị 4: bội chi NSNN từ 1996 -2008 Nguồn: Bộ Tài chính Có thể thấy, chính sách tài khoá trong những năm qua có phần nới lỏng như những năm chúng ta đang phải kích cầu đầu tư. Nếu so sánh tổng chi NSNN so với GDP trong những năm qua cho thấy, NSNN đã chi một khối lượng lớn tiền tệ không chỉ ở số tuyệt đối mà cả ở số tương đối. Như trên đã phân tích, bội chi NSNN tăng cao thể hiện chính sách tài khoá lỏng lẻo, nói lên sự chi tiêu của Chính phủ cho đầu tư và thường xuyên vượt quá mức có thể của nền kinh tế. Nếu như bù đắp bội chi NSNN bằng phát hành thêm tiền thì trực tiếp tác động gây ra lạm phát, vì đã làm tăng cung tiền tệ nhiều hơn cầu tiền tệ trên thị trường như giai đoạn từ năm 1986-1990. Tuy nhiên, việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng nguồn huy động từ bên ngoài và từ trong nước về cơ bản, cũng tăng cung tiền vào thị trường trong nước. Điều này, có thể giải thích là do phần huy động từ vay nước ngoài đã làm tăng cung lượng tiền vào thị trường trong nước, vì số tiền vay nước ngoài về để bù đắp thâm hụt NSNN phải đổi ra VND để chi tiêu trên cơ sở bán cho NHNN là chính, mà NHNN lại phát hành tiền ra để mua ngoại tệ là cơ bản. Đây chính là phần làm cho lạm phát tăng lên nếu lượng vay từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN quá lớn. Thực tế trong những năm qua, lượng vay tiền từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN chiếm khoảng 1/3 số thâm hụt, tức là khoảng 1,5%-1,7% so với GDP. Nếu cộng thêm cả phần vay về cho vay lại, lượng tiền từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta qua bù đắp thâm hụt NSNN khoảng 2%-2,5% GDP. Đây chính là một nguyên nhân gây ra lạm phát cao của nước ta trong năm 2007 và các tháng đầu năm 2008. Qua đồ thị 5 cho thấy, chi NSNN đã tăng từ 27% GDP năm 2001 lên 40,4% năm 2007 là một con số khá lớn trong chi tiêu của Chính phủ. Đồ thị 5: Chi NSNN so với GDP từ 2001 – 2007 Nguồn: Bộ Tài chính Còn phần bù đắp thâm hụt NSNN từ nguồn vay trong dân về cơ bản, chỉ thu tiền từ trong lưu thông vào NSNN và sau đó, lại chuyển ra lưu thông nên không làm tăng lượng tiền cơ bản trên thị trường mà chỉ làm cho vòng quay tiền tệ có thể tăng nhanh hơn, tạo ra hệ số nở tiền cao hơn mức cần thiết.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan