SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Thực trạng tình hình cơ sở vật chất, đổi mới phương pháp dạy học của nhà
trường:
* Thực trạng cơ sở vật chất, việc đổi mới phương pháp dạy học trên địa bàn huyện:
Hầu hết các đơn vị trường học có cơ sở vật chất riêng cho các trường, điểm trường.
Từng bước xây dựng cơ sở vật chất kiên cố cho các vùng khó khăn. Tuy nhiên, còn không ít
trường cơ sở vật chất vẫn chưa thật sự đảm bảo cho việc thực hiện đổi mới chương trình dạy
học; thiếu khối phòng phục vụ học tập: phòng thí nghiệm, phòng bộ môn, nhiều thư viện
chưa đạt chuẩn.
Về thiết bị dạy học: các trường đều được trang bị, nhưng nhìn chung chất lượng chưa
cao, hầu hết đã hư hỏng, hiệu quả sử dụng thấp. Cá biệt có trường được trang bị, nhưng
không sử dụng vì cũ, chất lượng kém, không có cán bộ phụ trách thí nghiệm thiết bị chuẩn bị
cho giờ thực hành.
Khả năng tự làm thiết bị dạy học rất hạn chế do: một phần đội ngũ giáo viên chưa
năng động, sáng tạo; một phần hạn chế về thời gian, về kinh phí và thực tế chưa được coi
trọng đúng mức vấn đề tự làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm để áp dụng vào quá trình
giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, góp phần đổi mới phương pháp
còn nhiều hạn chế, nguyên nhân: do thiếu điều kiện về cơ sở vật chất, nhiều giáo viên còn e
ngại, chưa thành thạo trong việc thiết kế, sử dụng các phần mềm hỗ trợ giảng dạy trình chiếu,
chỉ dụng sử nhiều khi tổ chức thao giảng, hội giảng hay tham gia thi giáo viên dạy giỏi các
cấp.
* Thực trạng cơ sở vật chất, việc đổi mới phương pháp dạy học tại trường THCS thị
trấn Ba Tơ:
Trường THCS TT Ba Tơ được xây dựng từ năm 2006 và đưa vào sử dụng từ năm học
2007. Hiện trường có 01 nhà Hiệu bộ và 02 dãy phòng học gồm 14 phòng, trong đó có 01
phòng dạy học bộ môn tin, 01 phòng thực hành thí nghiệm bộ môn lí, hóa, 01 phòng trưng
dụng làm phòng thiết bị (chưa có cán bộ chuyên môn phụ trách), 01 phòng trưng dụng làm
phòng thư viện, 01 phòng dùng để hội họp, 01 phòng sinh hoạt Đội, điểm truy cập Internet,
còn lại 8 phòng học / 12 lớp, nhà trường tổ chức học 2 buổi (buổi sáng khối 6 và 8, buổi
1
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
chiều khối 7 và 9). Chính vì vậy nên việc sinh hoạt hội họp, hội giảng chỉ tổ chức thực hiện
vào ngày thứ 7 hàng tuần.
Về phương tiện, thiết bị dạy học: trang thiết bị dạy học cơ bản đảm bảo, song nhiều
thiết bị cung ứng đã lâu, đã hỏng; nhà trường có 02 màn hình LG 42 in dùng để dạy giáo án
điện tử, dùng làm phương tiện trình chiếu trong một số tiết dạy ứng dụng công nghệ thông
tin, trường có điểm truy cập internet, có mạng phát wifi tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên
truy cập thông tin từ mạng internet phục vụ cho nhu cầu dạy học.
Việc tổ chức hội thảo, hội giảng, dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới
phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực của học
sinh được chuyên môn nhà trường quan tâm, giáo viên tích cực hưởng ứng thực hiện.
II. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa
giáo dục phổ thông là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào
hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp
của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và
nhu cầu, khả năng tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niền tin và niềm vui trong học tập.
Tiếp tục vận dụng những ưu thế của phương pháp truyền thống và dần dần làm quen với
phương pháp dạy học mới.
Đổi mới phương pháp dạy học luôn luôn đặt trong mối quan hệ với đổi mới mục tiêu,
nội dung dạy học, đổi mới cơ sở vật chất và thiết bị dạy học; đổi mới các hình thức tổ chức
dạy học để phù hợp giữa dạy học cá nhân và các nhóm nhỏ hoặc cả lớp, giữa dạy học trong
phòng học và ngoài hiện trường; đổi mới môi trường giáo dục để học tập gắn với thực hành
và vận dụng; đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh qua đổi mới nội dung, hình thức
kiểm tra, xây dựng các bộ công cụ đánh giá, phối hợp kiểu đánh giá truyền thống với cách
trắc nghiệm khách quan, đảm bảo đánh giá khách quan, trung thực mức độ đạt được mục tiêu
giáo dục của từng học sinh.
Một trong những phương pháp dạy học mới và hiện đại được đưa vào là phương
pháp dạy học bằng bản đồ tư duy (BĐTD) - một phương pháp dạy học mới đang được rất
nhiều nước trên thế giới áp dụng, một phương pháp dạy học thể hiện sự kết hợp giữa lý
thuyết và thực hành, thể hiện được khả năng tư duy hệ thống giữa người dạy và cả người
học thông qua việc sơ đồ hóa kiến thức, sử dụng được phương pháp này một cách hiệu quả
cũng thể hiện được sự sáng tạo của giáo viên thông qua dụng cụ dạy học trực quan. Qua việc
tìm hiểu (từ việc tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng, qua việc dự giờ giáo viên) và đã từng
2
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
vận dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy trong bộ môn Ngữ văn, tôi nhận thấy
phương pháp dạy học này rất có hiệu quả trong công tác giảng dạy và học tập của học sinh.
Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý ngại học văn, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với
môn học, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới về môn học Ngữ văn. Vậy
thế nào là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy? Cần sử dụng bản đồ tư duy như thế nào
để nâng cao chất lượng trong các giờ học văn? Đó là những vấn đề tôi muốn cùng được chia
sẻ với quý đồng nghiệp qua sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học
tích ở bộ môn Ngữ văn Trung học cơ sở.
III. Thời gian, địa điểm nghiên cứu
1/ Thời gian:
- Bắt đầu nghiên cứu trong các năm học 2012 – 2013, 2013 - 2014.
- Hoàn thành tháng 10/2014.
2/ Địa điểm: Trường THCS thị trấn Ba Tơ, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
BĐTD được bản thân áp dụng thực hiện có hiệu quả trong công tác giảng dạy tại đơn
vị Trường trung học cơ sở thị trấn Ba Tơ và cũng đã cùng đồng nghiệp trao đổi (góp ý giờ
dạy thông qua dự giờ, qua hội thảo ứng dụng công nghệ thông tin trong Ngày hội công nghệ
thông tin ngành giáo dục và đào tạo huyện lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 12 năm
2012), và đồng nghiệp đã đưa vào áp dụng có hiệu quả ở một số đơn vị trường trung học cơ
sở trong địa bàn huyện.
Để nghiên cứu, áp dụng sáng kiến kinh nghiệm “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và
học tích ở bộ môn Ngữ văn Trung học cơ sở”, bản thân đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp quan sát: Hình thức chủ yếu của phương pháp này là dự giờ đồng
nghiệp từ đó tôi có thể phát hiện ra những ưu nhược điểm trong bài dạy của các đồng nghiệp.
- Phương pháp so sánh: với phương pháp này tôi có thể phân loại, đối chiếu kết quả
nghiên cứu.
- Ngoài ra tôi còn sử dụng những phương pháp hỗ trợ khác như: đọc tài liệu, thống kê,
kiểm chứng, thăm dò ý kiến của học sinh, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp.
3
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
PHẦN II
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lý luận
Nghị quyết số 40/2008/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khóa X về
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định mục tiêu của việc đổi mới chương
trình phổ thông: “Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa
phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu
phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực
tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển
trong khu vực và trên thế giới.” và “Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán
triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định
trong Luật Giáo dục; khắc phục những mặt hạn chế của chương trình, sách giáo khoa; tăng
cường tính thực tiễn, kĩ năng thực hành, năng lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học xã hội
và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng
tiếp thu của học sinh, đảm bảo sự thống nhất, kế thừa và phát triển của chương trình giáo
dục; tăng cường tính liên thông giữa giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục
đại học; thực hiện phân luồng trong hệ thống giáo dục quốc dân để tạo nguồn cân đối về cơ
cấu nguồn lực; đảm bảo sự thống nhất về chuẩn kiến thức và kĩ năng, có phương án vận
dụng chương trình, sách giáo khoa phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của các địa bàn khác
nhau. Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải thực
hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học, tổ chức đánh giá, thi cử,
chuẩn hóa trường sở, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công tác quản lí giáo dục.”
Môn học Ngữ văn, là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn học có
vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Đồng thời
môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học
sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan
hệ với rất nhiều các môn học khác trong nhà trường phổ thông. Học tốt môn văn sẽ tác động
tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn
4
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn
kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống.
II. Cơ sở thực tiễn
Lâu nay, trong quá trình dạy học, người giáo viên vẫn thường dùng các mô hình, sơ
đồ, biểu đồ,… để khái quát, cô đọng kiến thức cho học sinh, nhất là các bài tổng kết, bài ôn
tập. Cách làm này có thể nói đã đem lại những hiệu quả thiết thực nhất định trong việc ôn
tập, củng cố, hệ thống kiến thức cho học sinh, bởi cách trình bày ngắn gọn, lo-gic. Song,
bên cạnh những ưu điểm ấy, nó vẫn còn có những hạn chế nhất định, bởi trước hết cả lớp
cùng chung cách trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải
do học sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình, chưa phát huy được tính tư duy, sáng tạo,
tính tích cực, chủ động, tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh tri thức của bài học.
Trong thời gian gần đây, Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Ngãi có tổ chức nhiều lớp
tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học, về ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng
dạy (trên cở các lớp tập huấn từ Bộ Giáo dục), trong đó có sử dụng BĐTD. BĐTD (Mind
Map) hay còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy là phương pháp dạy học chú trọng đến cơ
chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học, là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để
mở rộng và đào sâu các ý tưởng, một dạng sơ đồ mở. BĐTD, một công cụ tổ chức tư duy
nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh,
đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con
người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi em có thể có
những cách sáng tạo, thể hiện khác nhau, rất riêng, mang tính cá nhân tư duy của bản thân.
BĐTD giúp học sinh (HS) có được phương pháp học hiệu quả hơn: Việc rèn luyện
phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn
là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học
kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không
biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào
những phần sau. Phần lớn số học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết
cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng
thành thạo BĐTD trong dạy học sẽ gúp học sinh có được phương pháp học, tăng tính độc
lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
BĐTD sẽ giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho
thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ,
5
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập
một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
III. Thực trạng của việc dạy học môn Ngữ văn hiện nay
Thực tế hiện nay, môn Ngữ văn đang dần dần mất vị trí là một môn học chính, quan
trọng mà bị xếp sau một số môn học được coi là thực tế hơn để thi tuyển sinh vào các trường
Đại học, Cao đẳng như Toán, Hóa, Lý, Anh, Tin… Môn Ngữ văn là một môn học khó với học
sinh bởi dung lượng kiến thức rất nhiều. Học sinh phải học văn học Việt Nam (Văn học dân
gian, văn học Việt Nam trung đại, cận đại, hiện đại), và văn học Thế giới (Văn học Trung
Quốc, Ấn Độ, Phương Tây). Các kiến thức về tiếng Việt, Tập làm văn cũng không hề đơn
giản. Có rất nhiều văn bản mới được đưa thêm vào trong sách giáo khoa. Vừa qua, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã thực hiện chương trình giảm tải, lược bỏ đi một số bài học hoặc đưa mô ôt
số bài học chính vào phần đọc thêm. Song không vì thế mà chương trình đã thật sự nhẹ
nhàng.
Qua thực tế giảng dạy ở trường, bản thân nhận thấy rằng có rất nhiều biểu hiện tâm
lý chán học văn của học sinh, cụ thể là:
- Học sinh thờ ơ với Văn: Đa phần các em xem thường và không muốn học Văn. Các
em thường chỉ quan tâm đến các môn tự nhiên và phần lớn dành thời gian cho các môn này.
Và nếu có học thì đó cũng chỉ là đối phó, qua loa. Mặt khác, chính vì môn văn có khối lượng
kiến thức nhiều và khó, tâm lí thực dụng nặng nề nên nhiều em học sinh thấy học văn là một
công việc nặng nhọc, mệt mỏi, khó khăn! Đôi khi giờ học văn đối với các em thật vất vả…
- Khả năng trình bày: Khi học sinh tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng nhận
ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết chính tả sai, bố cục và
lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa,
lủng củng ...Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong bậc
học THCS.
Điều đó, mô ôt phần thể hiê ôn rõ qua kết quả khảo sát đầu năm học2013-2014:
Lớp
Sĩ
Dự
khảo
SL
sát
9B
36
35
4
*Nguyên nhân:
dạy
số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
11.4
7
20
9
25.7
9
25.7
6
17.2
- Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công
tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế sau:
6
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
+ Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh
yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao.
+ Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan
vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh.
+ Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn
cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học.
- Đối với học sinh:
+ Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên không chuẩn bị
tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn.
+ Địa phương xã Ba Cung và một phần học sinh thị trấn Ba Tơ, kinh tế còn khó khăn,
hầu hết phụ huynh đều đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình. Bản thân
các em còn phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, ít dành thời gian cho việc tự học ở nhà.
+ Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti
vi, chơi game, sử dụng các trò chơi từ điện thoại di động, . . . ngày càng nhiều làm cho một số
em chưa có ý thức học bị lôi cuốn dẫn đến sao nhãng việc học tập.
IV. Giải pháp sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học tích cực ở bộ môn Ngữ văn
Trung học cơ sở
IV.1. Bản chất phương pháp dạy học bằng BĐTD:
BĐTD là kĩ thuật dạy học tổ chức và phát triển tư duy giúp người học chuyển tải
thông tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ não một cách dễ dàng, đồng thời là
phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở rộng, đào sâu và kết nối các ý tưởng, bao quát
được các ý tưởng trên phạm vi sâu rộng.
Sử dụng bản đồ tư duy giúp người học có được:
1. Sự hình dung: BĐTD có rất nhiều hình ảnh để hình dung về kiến thức cần nhớ.
2. Sự liên tưởng, tưởng tượng: BĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý tưởng một cách
rất rõ ràng.
3. Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, khi thể được thể
hiện trên màn hình máy chiếu, hay được vẽ ra giấy, BĐTD cho phép giáo viên và học sinh
làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử dụng những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa
dạng. Hơn nữa, việc BĐTD dùng rất nhiều màu sắc khiến giáo viên và học sinh phải vận
dụng trí tưởng tượng sáng tạo đầy phong phú của mình. Nhưng đây không chỉ là một bức
7
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
tranh đầy màu sắc sặc sỡ thông thường, BĐTD giúp tạo ra một bức tranh mang tính lý luận,
liên kết chặt chẽ về những gì được học.
IV.2. Yêu cầu đối với giáo viên và học sinh
1. Đối với giáo viên
Để vận dụng phương pháp dạy học thông qua BĐTD, người dạy cần:
- Biết cách sử dụng phần mềm Imindmap (phần mềm vẽ BĐTD trên máy tính):
+ Tải và cài đặt phần mềm Imindmap vào máy tính (bằng cách vào trang web
www.download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ Mindmap có thể tải về bản miễn phí
ConceptDraw MINDMAP 5 Professional hoặc từ địa chỉ web: www.mind-map.com - trang
web chính thức của Tony Buzan).
+ Tham khảo tài liệu, video clip về cách sử dụng Imindmap.
+ Liên kết, thực hiện trình chiếu qua PowerPoint.
- Khái quát hóa kiến thức bài học thông qua sơ đồ (phát thảo trên giấy). Lưu ý: việc
sử dụng BĐTD không phải bài học, đơn vị kiến thức nào cũng tùy tiện sử dụng, dễ gây ra
hiện tượng nhàm chán. BĐTD không được sử dụng khi lượng kiến thức cần hệ thống quá đơn
giản (chẳng hạn vấn đề chỉ có 2 ý - 2 nhánh kiến thức) hoặc quá dài dòng, rờm rà.
- Hướng dẫn HS khái quát hóa kiến thức bằng BĐTD (bài mới, hệ thống kiến thức đã
học) khi được gọi lên bảng, hay thực hiện trên giấy, hoặc thực hiện trước ở nhà.
2. Đối với học sinh
Biết cách vẽ, thiết kế BĐTD, thể hiện ý tưởng, trang trí thêm sinh động.
IV.3. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học tích cực ở bộ môn Ngữ văn
1. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp
- Hoạt động 1: Cho HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo
viên (qua một chủ đề, từ khóa cho trước).
- Hoạt động 2: HS hoặc đại diện các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết trình về
BĐTD mà nhóm đã thiết lập.
- Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện, chia sẻ kinh nghiệm.
Giáo viên đóng vai trò cố vấn, định hướng, dẫn dắt HS thực hiện.
- Hoạt động 4: Củng cố, tiểu kết (hay tổng kết) lại nội dung vấn đề bằng một BĐTD
đã chuẩn bị sẵn (trình chiếu hoặc qua đồ dùng trực quan khác).
2. Sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học:
Trong quá trình dạy học, tùy vào đơn vị kiến thức bài học, tùy vào điều kiện không
gian, thời gian hay phương tiện, người giáo viên có thể sử dụng BĐTD để: dạy kiến thức bài
8
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
mới; củng cố, hệ thống hóa kiến thức cuối mỗi bài học hay cuối chương, cuối kỳ, hoặc có thể
dùng để ra đề kiểm tra (kiểm tra miệng, kiểm tra viết từ 15 phút trở lên), hay dùng trong tiết
ngoại khóa,…. Nhưng cơ bản đều có cách tiến hành giống nhau, đó là: giáo viên đưa ra một
vấn đề (từ khóa) và yêu cầu học sinh vẽ hệ thống kiến thức liên quan, chẳng hạn như:
- Khi dạy bài Từ và cấu tạo của từ tiếng Việt (Tiết 3, Ngữ văn lớp 6), giáo viên cho từ
khóa “Từ (xét về mặt cấu tạo)” gồm có những loại nào? Em hãy vẽ BĐTD giới thiệu chi tiết
về chúng.
- Khi dạy bài Đức tính giản dị của Bác Hồ (Tiết 93, Ngữ văn lớp 7), giáo viên cho từ
khóa “Đức tính giản dị của Bác Hồ” và yêu cầu học sinh vẽ BĐTD chi tiết về đức tính giản dị
của Bác Hồ thể hiện qua những phương diện nào trong văn bản.
- Khi dạy bài Ôn tập truyện kí Việt Nam (Tiết 38, Ngữ văn lớp 8), giáo viên cho từ
khóa “Truyện kí Việt Nam” và yêu cầu học sinh vẽ BĐTD: kể tên các truyện kí đã học, khái
quát về nội dung, nghệ thuật chủ yếu của mỗi tác phẩm.
- Để dạy tốt bài Luyện tập sự phát triển của từ vựng (Tiết 25, Ngữ văn lớp 9), giáo
viên có thể cho từ khóa “Các cách phát triển của từ vựng tiếng Việt”, yêu cầu học sinh vẽ
BĐTD cụ thể về các cách ấy.
Như vậy, rõ ràng có rất nhiều đơn vị bài học, giáo viên có thể sử dụng phương pháp
BĐTD để cung cấp kiến thức mới, hoặc củng cố lại kiến thức cho học sinh, và điều quan
trọng là giáo viên biết cách đặt vấn đề, dẫn dắt, hướng dẫn để học sinh phát huy khả năng
sáng tạo, tư duy lo-gic của mình trong quá trình chủ động chiếm lĩnh tri thức.
Sau đây là một số cách sử dụng BĐTD đã thực hiện hiệu quả:
a. Sử dụng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của
bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm
ra kiến thức liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó học sinh sẽ ghi
nhớ kiến thức bài học một cách dễ dàng.
*Ví dụ: Với văn bản: Thầy bói xem voi (Tiết 40, Ngữ văn lớp 6), sau phần đọc và tìm
hiểu chung, giáo viên ghi từ khóa “Thầy bói xem voi” (có một số từ khóa có thể là tên văn
bản) lên trung tâm bảng đen (có thể minh họa bằng hình ảnh vui nhộn, nếu giáo viên có khiếu
vẽ), sau đó giáo viên đặt câu hỏi dẫn dắt học sinh cùng tìm hiểu, khám phá kiến thức mới:
- Câu hỏi tạo nhánh cấp 1 thứ nhất: Năm ông thầy bói xem voi trong hoàn cảnh như
thế nào? (lúc này, giáo viên vẽ lên bảng nhánh cấp 1 thứ nhất từ “Hoàn cảnh”), sau khi học
sinh trả lời, cùng thống nhất vấn đề, giáo viên vẽ các nhánh cấp 2 sinh ra từ nhánh cấp 1 thứ
9
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
nhất để minh họa cho “hoàn cảnh xem voi của những ông thầy bói”, cụ thể có 3 nhánh cấp 2
(phát sinh từ nhánh cấp 1 thứ nhất) như sau: ế hàng, chưa biết hình thù voi, các thầy mù mắt.
- Tương tự, giáo viên đặt hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh tìm hiểu đến nhánh cấp 1
thứ 5 và các ý minh họa cho các nhánh cấp 1 này, kiến thức tương ứng với mỗi nhánh như
sau:
+ Nhánh cấp 1 thứ 2: “Cách xem”, có các nhánh cấp 2 thể hiện những ý sau: sờ bằng
tay; xem một bộ phận.
+ Nhánh cấp 1 thứ 3: “Phán về voi”, có các nhánh cấp 2 thể hiện những ý sau: như
con đĩa; như cái đòn càn; như cái quạt thóc; như cái cột đình; như cái chổi sể.
+ Nhánh cấp 1 thứ 4: “Kết quả”, có các nhánh cấp 2 thể hiện những ý sau: không ai
chịu ai; xô xát, đánh nhau.
+ Nhánh cấp 1 thứ 5: “Bài học”, có các nhánh cấp 2 thể hiện những ý sau: chế giễu,
phê phán; xem xét đánh giá.
(Nội dung các nhánh được vẽ, nêu ngắn gọn, trong quá trình giảng dạy, giáo viên giải
thích rõ ràng để học sinh hiểu).
Sơ đồ minh hoạ, thông qua Imind Map (Nếu giáo viên sử dụng phương tiện trình
chiếu – mỗi lần kích chuột sẽ làm xuất hiện một nhánh mang nội dung kiến thức đã soạn
sẵn):
Mô hình Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi – Tiết 40, Ngữ văn 6
Hình 1- Bản đồ tư duy: Thầy bói xem voi
b. Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức sau
mỗi phần (bài ôn tập- thường ở chương trình lớp 9):
Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng
tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Giáo viên có thể hướng dẫn cho học
sinh vẽ vào vở sau mỗi bài học (hay phần, chương), hoặc có thể vẽ vào một quyển tập riêng
10
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
hay vẽ từng bản rời, sau đó kẹp (đóng) thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem
lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng và có hệ thống.
Ví dụ 1: Trước khi dạy bài Tổng kết từ vựng (Tiết 50, Ngữ văn lớp 9), giáo viên có
thể yêu cầu học sinh vẽ BĐTD khái quát hóa lại hệ thống kiến thức theo yêu cầu của bài ôn
tập này.
Như vậy, BĐTD của học sinh khi vẽ phải đáp ứng nội dung như sau: phải vẽ đầy đủ 5
nhánh cấp 1, tương ứng với 5 đơn vị kiến thức, trong mỗi nhánh cấp 1 có các nhánh cấp 2 với
lượng kiến thức tương ứng. Sơ đồ vẽ minh họa như sau:
Hình 2-Bản đồ tư duy: Tổng kết từ vựng
*Ví dụ 2: Sau khi dạy xong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du (Tiết 26, Ngữ văn lớp
9), giáo viên yêu cầu học sinh về nhà vẽ lại BĐTD hệ thống kiến thức lại đã học (hoặc có thể
tổ chức vào cuối giờ học để giáo viên củng cố tiết học). Đối với bài học này, có hai nội dung
lớn: về tác giả Nguyễn Du và về tác phẩm Truyện Kiều. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh vẽ
2 BĐTD riêng biệt về 2 nội dung trên, hoặc các em có vẽ gọp thành 1 BĐTD (yêu cầu khổ
gấy vẽ phải lớn, cỡ từ khổ A4 trở lên).
Hình vẽ minh họa như sau:
11
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
Hình 3-Bản đồ tư duy: Truyện Kiều
c. Sử dụng BĐTD trong kiểm tra
Phương pháp dạy học thông qua BĐTD còn có thể sử dụng trong kiểm tra: kiểm tra
bài cũ, kiểm tra từ 15 phút trở lên nhằm tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy lô-gic, tư
duy hệ thống góp phần phát triển năng lực tư duy sáng tạo của học sinh. Riêng đối với kiểm
tra bài cũ, có thể phải mất nhiều thời gian, cách này ít sử dụng. Đối với việc kiểm tra thông
qua bài làm trên giấy, giáo viên vẫn thực hiện theo cách: cho “từ khóa” và yêu cầu học sinh
vẽ BĐTD về nội dung kiến thức liên quan đến “từ khóa” đã cho.
Lưu ý, việc kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ BĐTD chỉ là một hình thức
kiểm tra nhằm giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lí thuyết. Do đó, giáo
viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống, xâu chuỗi, những kiến thức mà học
12
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
sinh có thể dễ dàng hệ thống bằng BĐTD. Ví dụ: lập BĐTD về Từ loại (xét về cấu tạo từ, xét
về ngữ pháp), về các phương châm hội thoại, về nghĩa của từ… trong phân môn Tiếng Việt;
lập BĐTD về hệ thống luận điểm, luận cứ trong một văn bản nghị luận, về dàn ý của một
kiểu văn bản nào đó… trong phân môn Tập làm văn; hay lập BĐTD để khái quát hóa kiến
thức về tác giả, tác phẩm nào đó, về quá trình phát triển, diễn biến tâm lí nhân vật, … trong
phân môn Văn bản. Mặt khác, yêu cầu “từ khóa” giáo viên đưa ra phải ngắn gọn, cụ thể, dễ
hiểu.
Một số ví dụ:
* Ví dụ 1: Cho từ khóa Truyện Kiều. Em hãy vẽ bản đồ tư duy giới thiệu nguồn gốc, thể
loại và giá trị “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Hình 4- Bản đồ tư duy: Truyện Kiều
13
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
* Ví dụ 2: Bài thơ “Viếng lăng Bác” ghi lại diễn biến tâm trạng cảm xúc của nhà thơ Viễn
Phương theo trình tự không gian và thời gian của chuyến ra thăm lăng Bác Hồ. Với cụm từ
khóa “Viếng lăng Bác”, em hãy lập bản đồ tư duy ghi lại diễn biến tâm trạng cảm xúc ấy của
tác giả qua mỗi khổ thơ.
Hình 5- Bản đồ tư duy: Văn bản Viếng lăng Bác
*Ví dụ 3: Có mấy cách phát triển của từ vựng? Em hãy lập bản đồ tư duy minh họa
với cụm từ khóa sau: “Sự phát triển của từ vựng”
Hình 6- Bản đồ tư duy: Sự phát triển của từ vựng
*Ví dụ 4: Em hãy lập bản đồ tư duy trình bày những hiểu biết của em về nhà thơ
Nguyễn Du (Tên hiệu, xuất thân, thời đại, cuộc đời, sự nghiệp văn học?)
14
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
Hình 7- Bản đồ tư duy: Nhà thơ Nguyễn Du
* Lưu ý:
- Giáo viên có thể linh hoạt sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh lập bản đồ tư duy ở
khâu kiểm tra bài cũ và kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết) hoán đổi cho nhau đều được.
- Đối với kiểm tra miệng, 15 phút ta lấy thang điểm 10; còn đối với kiểm tra 1 tiết thì
tùy theo mức độ của từng câu hỏi, ta có thể cho từ 2-3 điểm. (xem như câu hỏi yêu cầu lập
bản đồ tư duy là một phần trong đề kiểm tra)
IV.4. Kết quả nghiên cứu
Qua thời gian thực tế công tác và tham khảo kết quả giảng dạy của quý đồng nghiệp,
việc áp dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học bước đầu đã nhận được những kết
quả khả quan.
Đối với người dạy, giúp rèn luyện thành thạo kỹ năng sử dụng BĐTD một cách hiệu
quả trong hầu hết các khâu lên lớp, từ việc kiểm tra bài cũ, dạy bài mới cho đến các bài mang
tính khái quát, ôn tập, hệ thống hóa kiến thức.
Với học sinh, qua tìm hiểu, bản thân và quý đồng nghiệp nhận thấy: đa số các em biết
cách sử dụng BĐTD để ghi chép bài học, tổng hợp kiến thức môn học, vận dụng thành thạo
các thao tác trong việc hệ thống kiến thức đã học, giúp học sinh có được phương pháp học
hiệu quả, ý thức học tập tích cực.
Việc sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học còn giúp học sinh:
1. Tăng cường sự hứng thú trong học tập.
2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của học sinh.
15
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
3. Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
5. Ghi nhớ tốt hơn.
6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
Tóm lại, với những ưu điểm của mình, BĐTD trở thành một công cụ gợi mở, kích
thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Việc sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học
giúp các em học tập một cách chủ động, tích cực và huy động tất cả học sinh cùng tham gia
xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng
em không chỉ về trí tuệ, hệ thống hóa kiến thức, khả năng hội họa, sự vận dụng kiến thức
được học qua sách vở vào cuộc sống. BĐTD còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả
trong hoạt động nhóm. Mỗi thành viên đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết
trình và làm việc khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học khác như:
dạy học nhóm,vấn đáp, gợi mở, thuyết trình, đặt vấn đề,… có khả thi cao góp phần đổi mới
phương pháp dạy học.
Việc áp dụng BĐTD trong dạy học đã góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn
Ngữ văn, thể hiện ở kết quả khảo sát sau khi triển khai đề tài:
Lớp
Sĩ
dạy
số
9B
36
Dự
khảo
sát
36
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9
25
10
27.8
14
38.9
3
8.3
0
0
Đồng thời góp phần nâng cao kết quả tham gia bồi dưỡng thi học sinh giỏi lớp 9 các
cấp:
Năm
học
20122013
20132014
Tham
gia dự
Cấp trường
Cấp huyện
Nhất
Nhì
Ba
KK
15
2
7
4
2
15
2
7
4
2
Nhất
Nhì
Ba
KK
4
4
5
5
2
3
thi
2
PHẦN III
16
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa sáng kiến kinh nghiệm
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 29 -NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa XI, được cụ thể qua Chương trình hành động số
39-CTr/HU ngày 25/2/2014 của Huyện ủy Ba Tơ, Kế hoạch số 20/KH-UBND ngày
19/3/2014 của UBND huyện Ba Tơ “Về đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong đó có nội dung “Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp
giáo dục, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và hiệu quả giáo dục, đào tạo.”,
thì việc áp dụng phương pháp BĐTD vào dạy học tích cực một cách rộng rãi, thường xuyên
là một việc làm cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng, giữ chuẩn phổ cập giáo dục, góp
phần thực hiện tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Sau một thời gian ứng dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi thấy bước đầu có những
kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng bản đồ tư duy trong
hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng bản đồ tư duy để dạy bài mới, củng cố
kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả
hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng bản đồ tư duy để ghi chép bài, tổng hợp
kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng bản đồ tư duy để củng cố kiến
thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng trong việc ứng
dụng bản đồ tư duy để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học tiếng Việt.
Như vậy, qua kết quả giảng dạy trên tôi nhận thấy rằng những giải pháp tôi đưa ra
trong đề tài hoàn toàn có thể thực hiện được đối với học sinh trường ở các xã khó khăn khác
trong huyện. Kết quả thực nghiệm cho thấy học sinh có sự hào hứng với giờ học, gắn bài học
với thực tiễn nhanh và hiệu quả. Giờ học trở nên sôi nổi hơn, tạo tâm lý nhẹ nhàng thoải mái
cho học sinh ở những tiết học sau.
Hơn nữa, thực tế cho thấy BĐTD không chỉ áp dụng cho riêng môn Ngữ văn mà có
thể sử dụng ở tất cả các môn học khác, tích hợp với môn Mỹ thuật, không chỉ trong việc học
chính khóa mà có thể trong các buổi ngoại khóa, các bài thu hoạch chuyên đề, không những
vậy BĐTD có thể áp dụng trong công tác quản lý của nhà trường (cấp tổ, khối, Ban Giám
17
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
hiệu) trong việc lập kế hoạch công tác, quản lý thực hiện tốt các khâu: lập kế hoạch – chỉ đạo
tổ chức thực hiện – kiểm tra giám sát – đánh giá kết quả thực hiện (tháng, kỳ, năm).
Ngoài ra, sử dụng BĐTD có tính khả thi cao, không chỉ thực hiện ở các đơn vị trường
học có điều kiện về công nghệ thông tin, hay giáo viên thực sự thành thạo về vi tính mới sử
dụng được mà ta có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà
trường hiện nay nói chung. Bởi vì người thiết kế (giáo viên, học sinh) có thể thực hiện BĐTD
trên giấy, bìa, tờ lịch cũ (lịch treo tường), bảng phụ, trong giờ học thực hiện trực tiếp trên
bảng thông qua phấn màu,...
II. Một số kiến nghị, đề xuất
1. Đối với giáo viên
- Không ngừng học hỏi, bồi dưỡng thường xuyên bồi dưỡng, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, tăng cường dự giờ đồng nghiệp, mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học, tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
- Nghiên cứu kỹ tài liệu liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng BĐTD và phần mềm
vẽ BĐTD Mind Map (của Tony Buzan) để có những kiến thức cơ bản về nó (Hiểu biết về
BĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương pháp tạo lập, thiết kế, sử dụng trong quá trình dạy
học,…), đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ (trên giấy, trên máy tính).
- Trong khi sử dụng BĐTD, giáo viên cần cân nhắc sử dụng ở những đơn vị kiến thức
phù hợp, từ ngữ chọn lọc, ngắn gọn, hàm súc, giàu hình ảnh.
- Hướng dẫn học sinh nắm rõ các bước thiết kế một BĐTD.
2. Đối với học sinh
- Tích cực tham gia học tập, thể hiện tinh thần phối hợp thực hiện, năng động, sáng
tạo.
- Phát huy tính tự học, tư duy lo–gic, đức tính khiêm tốn.
- Nắm rõ quy trình thực hiện một BĐTD.
3. Đối với cấp quản lý
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, dạy học nâng cao
chất lượng giáo dục.
- Tăng cường thực hiện công tác kiểm tra nội bộ trường học, dự giờ giáo viên, tổ chức
các buổi sinh hoạt, hội thảo chuyên đề về ứng dụng BĐTD trong công tác dạy học, công tác
quản lý.
18
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015
Trên đây là nội dung sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học
tích cực ở bộ môn Ngữ văn Trung học cơ sở, mà bản thân đã từng sử dụng hiệu quả. Trong
quá trình nghiên cứu, thực hiện không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý của quý
cấp quản lý và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Thị trấn Ba Tơ, ngày 24 tháng 10 năm 2014
Người thực hiện
Nguyễn Thị Kim Trinh
Tài liệu tham khảo
1. Tài liệu SGK, SGV Ngữ văn THCS.
2. Phim tài liệu khoa học giáo dục “Bản đồ tư duy - hành trình kết nối” nói về hiệu ứng tích
cực của Phương pháp dạy học bằng Bản đồ tư duy do TS. Trần Đình Châu và Nhà giáo Ưu
tú-TS. Đặng Thị Thu Thủy nghiên cứu trên cơ sở tiếp thu phát triển ý tưởng tiên tiến của
quốc tế và kinh nghiệm giáo dục trong nước (đạo diễn: NSND Nguyễn Thước, tại Liên hoan
phim tài liệu Âu – Việt lần 5).
3. Tài liệu tập huấn chuyên môn về đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học do Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức.
4.Tài liệu: Nghị quyết số 29 -NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 8 khóa XI, được cụ thể qua Chương trình hành động số 39-CTr/HU ngày
25/2/2014 của Huyện ủy Ba Tơ, Kế hoạch số 20/KH-UBND ngày 19/3/2014 của UBND
huyện Ba Tơ “Về đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế”.
19
Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Trinh - Đơn vị: Trường THCS TT Ba Tơ, h. Ba Tơ
- Xem thêm -