Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiếng Anh Sáng kiến kinh nghiệm dạy kỹ năng nghe cho học sinh lớp 9 trung học cơ sở...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm dạy kỹ năng nghe cho học sinh lớp 9 trung học cơ sở

.DOC
28
705
144

Mô tả:

Phßng gd&§T huyÖn QUỲNH LƯU TRƯỜNG THCS QUỲNH LÂM  SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “DẠY KỸ NĂNG NGHE TIẾNG ANH CHO HỌC SINH LỚP 9” \ Người viết : Nguyễn Kiên Cường N¨m häc: 2011-2012 1 MỤC LỤC PHẦN Mục lục Danh mục chữ cái viết tắt A. Đă ăt vấn đê I. Lý do chọn đê tài II.Nhiệm vụ nghiên cứu III.Phạm vi nghiên cứu IV.Mục đích nghiên cứu V.phương pháp nghiên cứu B. Giải quyết vấn đê I. Cơ sở lý luâ ăn và cơ sở thực tế II. Cơ sở thực tiễn III. Các biê ăn pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đê IV. Hiê ău quả của sáng kiến kinh nghiê ăm C. Kết luâ ăn Tài liê ău tham khảo 2 TRANG 2 3 4 4 5 5 6 6 7 7 7 8 26 27 28 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 Các chữ viết tắt Viết đầy đủ Trung học cơ sở Tổng số học sinh Số lượng Nhà xuất bản Trung bình Trung học phổ thông students vân vân THCS TSHS SL NXB TB THPT ss v.v 3 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm “d¹y kü n¨ng nghe tiÕng anh cho häc sinh líp 9” N¨m häc 2013-2014 A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài: Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong tình hình thực tế đất nước đang phát triển để hội nhập vào cộng đồng quốc tế các nước trong vùng ASEAN cũng như các nước khác trên thế giới, đặc biệt hơn, đất nước ta đã chính thức là thành viên của WTO thì việc biết và sử dụng thành thạo ít nhất 1 ngoại ngữ là một nhu cầu cấp bách, một đòi hỏi cần thiết cho mỗi chúng ta. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nguồn lực người Việt Nam được phát triển vê số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Chính vì thế, nên giáo dục và đào tạo của nước ta cũng đã tiến hành thay đổi từ mục tiêu giáo dục và đào tạo đến phương pháp dạy và học nhằm đóng góp có hiệu quả vào quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực của đất nước trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 21, học ngoại ngữ nói chung và học Tiếng Anh nói riêng đã, đang và sẽ trở thành một đê tài vô cùng nóng bỏng đối với mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi giới, mọi trình độ. “ Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người. ” ( V. I. Lênin ) Biết một ngoại ngữ là đã có trong tay thêm được một công cụ giao tiếp mới ngoài tiếng mẹ đẻ. Ngay từ khi mới bắt đầu học ngoại ngữ, tôi đã được các thầy cô giáo dạy rằng “Biết thêm một ngoại ngữ là sống thêm một cuộc đời”, điêu đó cho đến nay và chắc chắn cả mai sau vẫn còn nguyên giá trị. Giờ đây tôi lại đem câu nói ấy cùng những kiến thức mình đã học được truyên thụ lại cho những thế hệ học sinh của mình. Là một giáo viên dạy tiếng Anh, tôi luôn mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé công sức của mình vào việc dạy cho các em học sinh bậc THCS, nhất là học sinh lớp 9 cuối cấp có được một lượng kiến thức cơ bản để làm nên tảng cho các em trong quá trình học tiếng Anh ở các lớp lớn hơn sau này. Dạy và học tốt tiếng Anh liên quan đến nhiêu vấn đê, một trong những vấn đê đó chính là việc dạy kỹ năng nghe. Đây là một kỹ năng không thể thiếu đối với người học ngoại ngữ vì nó là một trong bốn kỹ năng kỹ xảo thực hành của tiếng Anh: nghe, nói, đọc, viết. Trong thực tiễn rèn các kỹ năng tiếng Anh cho học sinh, giáo viên phải đương đầu với không ít khó khăn, đặc biệt là rèn kỹ năng nghe. Qua thực tế ở 4 trường tôi, khi bắt đầu học môn ngoại ngữ phần lớn học sinh thích học, nhưng dần dần học sinh lại chán học. Hầu hết các em rất yếu vê kỹ năng nghe. Thật khó để các em nghe hiểu nội dung một bài văn hay đoạn hội thoại. Sau mỗi tiết dạy nghe giáo viên rất khó khăn trong việc kiểm tra lại thông tin mà các em đã nghe và việc kiểm tra bài cũ thường không dễ dàng gì. Phần lớn học sinh chưa biết cách học nghe, học sinh thường thấy luyện nghe là khó nhất. Trong lớp học, có học sinh nói rằng dù trong bài nghe có nhiêu từ đã biết nhưng nghe không ra, có học sinh lại nói rằng do em ấy thiếu từ (vốn từ vựng nghèo), không biết bao nhiêu lần học sinh lúc nào cũng lo âu khi học tiết nghe hiểu, các em cho rằng khó khăn chính là ở chỗ tốc độ lời nói của người Anh nhanh quá, không bắt kịp vì hình như họ nuốt chửng nhiêu âm và từ. Vâ ăy làm thế nào để giúp học sinh- đă ăc biê ăt là học sinh lớp 9 cuối cấp- có thể vận dụng được vốn từ vựng và cấu trúc ngữ pháp của mình để nghe hiểu hiệu quả? Dạy nghe như thế nào để sau mỗi giờ học học sinh cảm thấy thích thú và yêu quý môn học hơn? Làm thế nào để tìm kiếm một số phương pháp tích cực, đơn giản, dễ hiểu, thiết thực mà vẫn đảm bảo tính khoa học, nhằm phát triển khả năng tư duy, sự suy đoán và tính sáng tạo của học sinh? Trước những trăn trở đó tôi đã mạnh dạn đi sâu vào vấn đê “Dạy kỹ năng nghe Tiếng Anh cho học sinh lớp 9” để trình bày tình hình dạy và học nghe hiện nay cũng như viết vê kinh nghiệm của mình sau hơn 15 năm thực tế giảng dạy. II. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện tốt đê tài nghiên cứu, người thực hiện đê tài này cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau: 1.Nghiên cứu tài lệu hướng dẫn dạy học tiếng Anh, các kỹ thuật dạy nghe. 2.Thao giảng, dạy thử nghiệm. 3.Dự giờ đồng nghiệp , trao đổi, rút kinh nghiệm. 4.Kiểm tra, đánh giá kết quả việc nắm bài của học sinh để từ đó có sự điêu chỉnh, bổ sung hợp lý. III.Phạm vi nghiên cứu: Đê tài sáng kiến kinh nghiệm này xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập môn nghe tiếng Anh của giáo viên và học sinh khối THCS trường THCS Chấn Hưng. Song đối tượng nghiên cứu điển hình mà tôi mạnh dạn áp dụng là học sinh lớp 9 cuối cấp. 5 IV.Mục đích nghiên cứu: Với việc nghiên cứu thành công đê tài sáng kiến kinh nghiệm này sẽ giúp giáo viên có được những kinh nghiệm sau: 1.Cách tổ chức một tiết dạy nghe có hiệu quả. 2.Các bước tiến hành một tiết dạy nghe có hiệu quả. 3.Hướng dẫn học sinh tự luyện tập, rèn luyện để có kỹ năng và kỹ xảo nghe tiếng Anh. V.Phương pháp nghiên cứu: 1.Phương pháp quan sát: Người thực hiện đê tài tự tìm tòi nghiên cứu, tiến hành dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp. 2.Phương pháp trao đổi, thảo luận: Sau khi dự giờ của đồng nghiệp, đồng nghiệp cũng dự giờ của người thực hiện đê tài, đồng nghiệp và người thực hiện đê tài tiến hành trao đổi, thảo luận để từ đó rút kinh nghiệm cho tiết dạy. 3.Phương pháp thực nghiệm: Giáo viên tuến hành dạy thể nghiệm theo từng mục đích yêu cầu cụ thể của các tiết dạy nghe. 4.Phương pháp điêu tra: Giáo viên đặt câu hỏi để kiểm tra, đánh giá việc nắm bắt nội dung bài học của học sinh. 6 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ: Hiện nay, với nhận thức mới trong dạy ngoại ngữ, dạy tiếng Anh nhằm mục đích giao tiếp, mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác với thế giới trên mọi lĩnh vực: đối nội, đối ngoại, văn hóa, thương mại....đã đánh dấu một mốc lớn: sự đầu tư chất xám vào dạy và học ngoại ngữ, làm việc theo hướng công nghiệp hiện đại. Để sử dụng thành thạo một ngoại ngữ là một điêu không hê dễ dàng, nhưng cũng không vì khó khăn mà không thể học vì trong một chừng mực nào đó, học ngoại ngữ nói chung và học tiếng Anh nói riêng cũng không phải là cái gì đó quá khó nếu chúng ta có phương pháp và phương tiện tốt, nhất là khi chúng ta biết phối hợp giữa các phương pháp với nhau và khai thác tốt các phương tiện. Việc dạy theo phương pháp đổi mới như hiện nay chú trọng nhiêu đến tính chủ động sáng tạo của học sinh. Phần lớn thời gian giao tiếp là lúc các em tư duy chủ động thực hành tiếng Anh. Để có một tiết học tốt thì các em phải chuẩn bị bài ở nhà kỹ. Hơn nữa, để học tốt một giờ nghe các em cần được nghe nhiêu. Cũng chính bởi những lý do như đã trình bày ở trên mà mục đích dạy và học Tiếng Anh cũng có sự thay đổi lớn, nó không chỉ là chuyện “ học để mà học” nữa, mà học là phải tư duy, có chiêu sâu. Chúng ta không chỉ nhằm mục đích đạt được ý nghĩa ngữ pháp mà còn nhằm đạt và phát triển được kỹ năng sử dụng ngôn ngữ đó. Nắm được bản chất của giao tiếp và có thể giao tiếp khi cần thiết là điêu mà chúng ta vươn tới. NGHE được coi là một kỹ năng tiếp thụ, song nghe thường khó hơn đọc vì ngôn bản cảm thụ qua nghe là lời nói nên có những đặc điểm rất khác với văn bản viết. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: Phần lớn học sinh trên địa bàn xã Chấn Hưng là con em nông thôn nên điêu kiện học tập chưa tốt, thời gian học hạn hẹp, môi trường giao tiếp tiếng Anh còn hạn chế, ít có cơ hội luyện nghe. Có em thâ ăm chí nói tiếng phổ thông nhiêu khi còn chưa chuẩn nên việc phát âm tiếng Anh quả thực vẫn là cả mô ăt vấn đê. Bên cạnh đó, các em còn chưa thực sự chăm chỉ học tập, ít chịu ghi nhớ từ, không tích cực luyện âm, luyện nghe đài, băng hay tin tức bằng tiếng Anh, nhận thức chậm, sự linh hoạt, sáng tạo chưa cao, tài liệu để tham khảo thêm còn phụ thuộc vào kinh tế gia đình, từ đó việc đầu tư học kỹ năng nghe hạn chế. Ngoài ra tiếng Anh là một môn học khó, khối lượng kiến thức nhiêu, thời gian học ít, và trong quá trình nghe các em không kiểm soát được điêu sẽ nghe. Lời nói trong băng nhanh, không quen. Bài nghe có nhiêu từ mới, trọng âm từ, trọng âm câu, nối âm, nối từ, ngữ điệu thì rất khác nhau và học sinh khó có thể hiểu được nội dung. 7 Kết quả khảo sát đầu năm của học sinh lớp 9A: TSHS 30 Giỏi SL 0 Khá % 0 SL 2 % 6,7 Trung bình SL % 15 50,0 Yếu SL 13 % 43,3 TB trở lên SL % 17 56,7 Việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường phổ thông đã có những thay đổi lớn vê nội dung cũng như phương pháp giảng dạy để phù hợp với mục tiêu và yêu cầu đặt ra cho bộ môn này trong chương trình cải cách. Quan điểm cơ bản nhất vê đổi mới phương pháp là làm sao phát huy được tính tích cực, chủ động của người học, tạo điêu kiện tối ưu cho người học và rèn luyện, phát triển khả năng sử dụng ngôn ngữ vào mục đích giao tiếp chứ không phải việc cung cấp kiến thức ngôn ngữ thuần túy. Với quan điểm này, các thủ thuật và hoạt động trên lớp học cũng đã được thay đổi và phát triển đa dạng. Người giáo viên cần nắm bắt các nguyên tắc chính của phương pháp và tìm hiểu các thủ thuật và hoạt động dạy học theo quan điểm giao tiếp sao cho có thể áp dụng được một cách uyển chuyển, phù hợp và có hiệu quả. III. CÁC BIÊÊN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. Tìm hiểu kỹ khái niệm của viê Êc dạy kĩ năng nghe: Nghe là một hoạt động ngôn ngữ phức tạp nhất, nó hợp nhất những yếu tố hợp thành của sự tiếp thu các nhận thức và kiến thức ngôn ngữ. Nghe hiểu là một trong những mục đích chính của dạy ngoại ngữ. Khi nói, các ý thường không được sắp xếp có trình tự chặt chẽ như khi viết; ý hay thường được lặp đi lặp lại, có nhiêu từ thừa, từ đệm, không đúng ngữ pháp. Có thể nói láy, nói tắt, ngập ngừng… Khi đọc có thể đọc đi đọc lại nhiêu lần văn bản còn khi nghe người khác nói ta chỉ nghe được một lần.Với đặc điểm khác nhau trên, khi dạy nghe, ngoài những thủ thuật chung có thể áp dụng cho các kỹ năng nghe tiếp thu, giáo viên còn cần có những thủ thuật đặc thù cho các hoạt động nghe của học sinh. Nghe bao gồm hai cấp độ: 1.1. Cấp độ 1: (Nhận biết hoặc phân biệt): Sự nhận biết các âm thanh, từ, nhóm từ trong mối quan hệ cấu trúc của chúng. Chỉ khi khả năng này trở thành tự động hóa, người nghe mới có thể tái tạo, ứng xử và đáp lại những gì nghe được trong cả chuỗi âm thanh đó. 8 1.2. Cấp độ 2: (Chọn lựa): Người nghe rút ra được những thành tố hữu ích để hiêu được người nói. Lúc đầu nghe hiểu câu, lời nói ngắn, đơn giản,vê sau hiểu các câu dài hơn. 2. Nghiên cứu về các hoạt động nghe: 2.1. Nghe trong cuộc sống hàng ngày: có hai cách nghe chính: - Nghe không tập trung: là các hoạt động nghe mang tính chất giải trí, như khi ta nghe đài, xem truyên hình…mà vẫn có thể tiến hành đồng thời một công việc khác. - Nghe có tập trung: là các hoạt động nghe có chủ ý, muốn nắm bắt một nội dung thông tin nào đấy.Ví dụ như nghe tin trên đài, truyên hình, nghe các chỉ dẫn, hướng dẫn, giải thích, nghe giảng bài v.v...Trong trường hợp này, người nghe chủ yếu tập trung vào những điểm quan trọng, cần thiết cho chủ ý của mình. Người nghe thường biết rõ mình muốn nghe gì. Điêu này giúp người nghe hướng được sự chú ý vào đúng nội dung cần biết, do vậy thường nắm bắt được vấn đê một cách có hiệu quả hơn. 2.2. Nghe trong môi trường học tiếng: Trong môi trường học tiếng, các hoạt động nghe chủ yếu là nghe có tập trung, và nhằm phát triển các kỹ năng nghe khác nhau. Có những loại nghe chính trong việc học ngoại ngữ như sau: - Nghe ý chính. - Nghe để tìm những thông tin cần thiết. - Nghe để khẳng định những phỏng đoán trước đó. - Nghe để thực hiện các nhiệm vụ giao tiếp được đặt ra. - Nghe chi tiết (Cả nội dung lẫn cấu trúc ngôn ngữ). * Lưu ý:Học sinh có thể xác lập lại lượng thông tin dựa trên các cơ sở sau: - Kiến thức vê ngôn ngữ (từ ngữ, ngữ pháp, ngữ nghĩa, văn phong...) - Sự quen thuộc với chủ đê đang được đê cập tới. - Sự quan sát, diễn giải, ngữ cảnh giao tiếp, kể cả những gì xảy ra trước đó. - Kiến thức, tri thức mà các em cùng nắm được với người nói. - Sự hiểu biết, thừa nhận vê thái độ, sở thích cá nhân người nói. - Sự hiểu biết vê ngữ cảnh, văn hóa trong giao tiếp. - Sự hiểu biết vê những tín hiệu ngoài ngôn ngữ như: tốc độ nói, ngừng đoạn, cử chỉ, điệu bộ, vẻ mặt 3. Tiến hành các kỹ thuâ Êt dạy nghe: 3.1. Xây dựng lòng tin (Confidence building) 3.2. Nhâ nă diê ăn trọng âm câu (Sentence stress reception) 3.3. Giải quyết chủ đê (Topic interpretation) 9 3.4. Nghe hiểu ý chính (Listening for gist) 3.5. Nhâ nă diê ăn chi tiết (Recognising details) 3.6. Nghe nắm bắt thông tin cần thiết (Listening for wanted information) 3.7. Chép chính tả (Dictations) 3.8. Sơ đồ chuỗi sự kiê ăn (Sequencing chart) 3.9. Ngữ pháp chính tả (Dictogloss) 3.10. Nghe- ghi (Listening and note- taking) 4. Tổ chức các hoạt động nghe khác nhau: 4.1. Giúp học sinh nghe có hiệu quả: Trong thực tế, nghe vẫn là một kỹ năng khó đối với học sinh phổ thông hiện nay. Để khắc phục những khó khăn trong khi nghe, giáo viên có thể sử dụng những biện pháp sau: - Giới thiệu chủ đê, các nội dung có liên quan đến bài nghe; giải thích các khái niệm nếu cần thiết. - Ra các câu hỏi giúp học sinh đoán trước nội dung sẽ nghe. - Giới thiệu từ mới nếu có hoặc ôn, củng cố lại từ vựng cần thiết cho bài nghe. - Ra câu hỏi hướng dẫn khi nghe. - Chia quá trình nghe thành từng bước,ví dụ: + Lần nghe thứ nhất: nghe ý chính, trả lời các câu hỏi đại ý. + Lần nghe thứ hai: nghe chi tiết hơn v.v... - Nếu bài dài, chia bài nghe thành từng đoạn ngắn để cho học sinh nghe, có những yêu cầu nghe cụ thể khác nhau. 4.2.Đoán trước điêu sắp nghe: (predicting) Một trong những kỹ năng cần thiết khi nghe là khả năng đoán được điêu sắp được nghe. Vì vậy, khi cho học sinh luyện nghe, giáo viên nên cho học sinh đoán những điêu sắp nghe trong một ngữ cảnh nhất định. Có thể tiến hành hoạt động này với các bài nghe có cốt truyện hoặc một bài hội thoại. Ví dụ, khi nghe một bài hội thoại, giáo viên có thể dừng lại sau một câu nói của một nhân vật trong bài hội thoại và hỏi học sinh xem nhân vật kia sẽ đáp lại như thế nào? Sẽ ứng xử ra sao? Có đồng ý hay không? v.v... Khi cho học sinh nghe một câu chuyện, giáo viên cũng có thể dùng thủ thuật tương tự, dừng lại ở những đoạn phù hợp và hỏi những câu hỏi như: Điêu gì sẽ xảy ra tiếp theo đó? Tại sao X lại hành động như vậy? Tại sao câu chuyện lại diễn biến như vậy? Liệu kết cục có như vậy không? v.v... trước khi cho nghe tiếp câu chuyện. 10 Ví dụ: Trong bài nghe sau giáo viên có thể dừng ở một số chỗ để cho học sinh đoán: Tapescript: At 6.30 in the morning, the bus collected Ba and his family from their home. (Where did they go?). After picking everyone up, the bus continued north on Highway Number 1. It crossed the Dragon Bridge and stopped at the gas station (What happened? Why did it stop there?) to get some more fuel. Then, it left the highway and turned left onto a smaller road westward. (Please imagine the direction here (Which is the East? West? North? South?). This road ran between greenpaddy fields, (What can you see though the bus window?) so the people on the bus could see a lot of cows and buffaloes. The road ended before a big store beside a pond. Instead of turning left towards a small airport, the bus went in the opposite direction. (Did it stay there for a long or a short time?). It did not stay on that road for very long, but turned left onto a road which went though a small bamboo forest. Finally, the bus dropped everyone off at the parking lot ten meters from a big old banyan tree. It parked there (What for?) and waited for people to come back (When did they come back?) in the evening. (English 9 - Unit 3: A trip to the countryside - page 25 ) 4.3. Nghe để khẳng định những phỏng đoán của mình vê nội dung bài nghe: Đây là thủ thật tương tự áp dụng cho kỹ năng đọc hiểu: Trước khi nghe/ đọc, giáo viên khai thác gợi ý những gì học sinh đã biết vê nội dung vấn đê sẽ nghe/ đọc, những gì chưa rõ, những gì không biết. Sau đó nghe và liên hệ những kiến thức đã biết với những nội dung cần nghe. Ví dụ: Khi tiến hành một bài nghe vê THE MEDIA - phương tiện truyên thông (English 9 - Unit 5: The media – page 43), giáo viên sẽ hỏi, gợi ý những điêu học sinh đã biết vê các phương tiện truyên thông như: tên gọi của chúng, sự ra đời, nguồn gốc, xuất xứ...... Sau đó ra yêu cầu hoặc các câu hỏi để học sinh nghe, tìm câu trả lời. 4.4. Nghe lấy thông tin cần thiết: Như đã đê cập, khi tiến hành hoạt động nghe, giáo viên nhất thiết phải soạn ra các yêu cầu, nhiệm vụ nghe, tập trung vào những nội dung chủ yếu, quan trọng để cho việc nghe có mục đích cụ thể. Các hình thức nhiệm vụ, yêu cầu rất đa dạng, có thể là dạng trả lời câu hỏi hay dạng điên vào bảng biểu. Ví dụ: Listen to the report on how our oceans are polluted. Then complete the notes 11 HOW THE OCEAN IS POLLUTED Firstly raw sewage is pumped directly into the sea Secondly ---------------------------dropped into the sea Thirdly oil spills----------------------------------------Next --------------------------------------------------Finally --------------------------------------------------(English 9 – Unit 6: The environment – page 51) 4.5. Nghe để nắm bắt ý chính: (Listen for gist / for main ideas) Trong nhiêu trường hợp học sinh cần được luyện nghe để hiểu những ý chính, khái quát của bài mà không cần quan tâm đến chi tiết. Ví dụ: Listen to the conversation and find information about Tim Jones and Carlo: - The food they ate? - The bus they went? - The sign they saw? (English 9 – Unit 1: A visit from a pen pal – page 9) 4.6. Nghe để thực hiện các hoạt động giao tiếp tiếp theo: Có những hoạt động nghe, thường ở dạng điên vào bảng biểu, nhằm phục vụ cho một hoạt động giao tiếp tiếp theo đó. Ví dụ: An expert is giving a talk on how to live with earthquakes. Listen to the talk, then complete the table Living with earthquakes Heavy fixtures, furniture, and appliances:  Place heavy books on the ------(1)----- Block the rollers on your ------(2)------- and ------(3)-----______________________________________________________ Flying glass:  Check the ------(4)----- Don’t put your bed near ------(5)-----______________________________________________________ Earthquakes drill:  Stay ------(6)----- Sit ------(7)------ or ------(8)------  Stand in the ------(9)-----(English 9 – Unit 9: Natural disasters – page 77) 12 Sau khi hoàn thành bảng biểu cho bài nghe trên, học sinh có thể tiếp tục luyện với hoạt động giao tiếp tiếp theo là nói lại và/hoặc nói thêm vê cách để có thể sống sót sau một trận động đất. 5. Thực hành nhiều dạng bài tập nghe hiểu: Các bài tập nghe hiểu có nhiêu dạng. Những bài tập phổ biến là: - Defining true – false questions - Checking the correct answer / information - Matching - Filling in the chart - Filling in the gap - Answering comprehensive questions 6. Nắm chắc một số nguyên tắc cơ bản khi tiến hành các hoạt động nghe: Để cho hoạt động nghe đạt được mục đích như mong muốn, giáo viên cần thực hiện một số nguyên tắc cơ bản khi tiến hành một bài nghe như sau: 6.1. Dẫn dắt trước khi nghe (Lead – in) Như đã đê cập ở trên, khi nghe có tập trung, người nghe thường đã có chủ định, hướng sự tập trung vào phần muốn nghe, sẽ biết phải chú ý vào nội dung nào khi nghe. Vì vậy khi dạy nghe giáo viên cũng cần tạo ra những “chủ định” để học sinh có được sự chuẩn bị cho phần nghe sắp tới qua các hoạt động trước khi nghe như: - Giới thiệu ngữ cảnh, tình huống - Những câu hỏi gợi ý, đoán vê nội dung sắp nghe - Những câu hỏi tạo trí tò mò, tạo hứng thú vê nội dung bài sắp nghe. - Những câu hỏi hướng dẫn, yêu cầu đối với những nội dung cần thiết phải nghe hiểu v.v... 6.2. Ra các yêu cầu, nhiệm vụ cho bài nghe (Listening tasks) Các hoạt động nghe nhất thiết phải có định hướng qua các yêu cầu, nhiệm vụ do giáo viên soạn ra cho học sinh thực hiện. Các yêu cầu, nhiệm vụ này có thể là một hay nhiêu trong số những dạng bài tập nghe như đã liệt kê ở mục 4. 6.3. Tiến hành nghe theo ba giai đoạn: trước khi nghe, trong khi nghe và sau khi nghe. a/ Trước khi nghe (Pre – listening) - Gây hứng thú (Arouse interest) - Thiết lập ngữ cảnh (Set up the context) - Tạo nhu cầu, lý do nghe (Create reasons for listening) 13 - Dạy những cấu trúc, từ mới cần thiết cho nghe hiểu (Pre-teach structures, newwords) - Giới thiệu tóm tắt nội dung bài nghe (Introduce briefly the topic, content) - Gợi ý, hướng sự chú ý vào những điểm chính của bài nghe (Eliciting, guiding questions) - Cho học sinh đoán trước nội dung bài đọc (Predict the text) - Nêu những điêu muốn biết vê bài đọc (Giving expectation) Giáo viên tạo tâm thế chuẩn bị làm bài nghe cho học sinh bằng cách dẫn dắt gợi hỏi nói vê chủ đê của bài nghe, yêu cầu học sinh quan sát tranh, đọc từ và đoán xem các em chuẩn bị nghe vê chủ đê gì? Ai sắp nói? Nói với ai? Hội thoại diễn ra ở đâu? Giáo viên có thể yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm đoán sơ bộ vê nội dung điêu nội dung sắp nghe thông qua các tranh hay tình huống của bài nghe. Có thể có những điêu học sinh nói không chính xác với những gì các em sắp nghe nhưng vấn đê đặt ra là các em có hứng thú trước khi nghe, hiểu tình huống và chủ đê sắp nghe. Giáo viên củng có thể giúp học sinh lường trước những khó khăn có thể gặp phải vê phát âm, từ hay cấu trúc mới, các kiến thức nên hay kiến thức vê văn hóa, đất nước học. Cuối cùng giáo viên cần nói rõ cho học sinh biết các em sẽ được nghe bao nhiêu lần (từ 2 đến 3 lần) và hướng dẫn yêu cầu, nhiệm vụ khi nghe (trả lời câu hỏi, chọn tranh hay ghép tranh) thời gian nghe và làm bài tập (3 hay 5 phút). b/ Trong khi nghe (While – listening ) Các hoạt động luyện tập trong khi nghe là những bài tập được thực hiện ngay trong khi học sinh đang nghe bài, có thể nghe đi nghe lại để thực hiện bài tập. Các hình thức luyện tập ở giai đoạn này là để tìm hiểu, khai thác nội dung bài nghe. Tùy theo mục đích và nội dung cụ thể của từng bài, sẽ có những dạng câu hỏi và yêu cầu khai thác khác nhau, có thể vừa vê nội dung, vừa vê ngôn ngữ. Các bài tập và thủ thuật phổ biến ở giai đoạn này thường có những dạng như sau: Find the word / sentence that says...; Check / tick the correct answer; True – false; Complete the table; Fill in the chart; Make up charts / diagrams; Make a list of...; Matching; Answer the questions Giáo viên bật băng hay đọc bài nghe 2 hay 3 lần. Lần đầu giúp học sinh làm quen với bài nghe hiểu bao quát nội dung bài nghe, lần thứ hai nghe thông tin chính xác để hoàn thành bài tập, lần thứ ba nghe và kiểm tra lại bài tập đã làm 14 Mục tiêu chính của nghe hiểu là học sinh nghe lấy nội dung chính hay lấy thông tin chi tiết đồng thời hiểu được thái độ, quan điểm của tác giả. Do đó giáo viên cần cho học sinh nghe cả bài để các em nắm được ý chung cũng như bố cục cả bài và làm bài tập, sau đó có thể cho nghe lại từng đoạn để kiểm tra kết quả, hoặc nghe lại những chỗ khó để khẳng định đáp án. c/ Sau khi nghe (Post – listening) Sau khi học sinh nghe và làm các bài tập nghe hiểu, giáo viên có thể tiếp tục cho tiến hành các bài tập đòi hỏi có sự thông hiểu tổng quát của toàn bài; liên hệ thực tế; chuyển hóa vốn kiến thức, nhận thức hoặc thông tin, dữ liệu vừa nhận được qua bài nghe, luyện tập củng cố các cấu trúc ngữ pháp chủ chốt. Các hình thức bài tập có thể là: Arrange the events in order; Find the sentence that summarizes the content of the tape; Give the title of the listening text; Disscussion questions; Gap filling; Guess the consequenses / results of the story..... Học sinh báo cáo trước lớp hay trong nhóm kết quả mình nghe được, những học sinh khác nghe và cho ý kiến nhận xét hoặc chữa bài cho bạn. Kể lại, ghi lại nội dung cơ bản của bài nghe hoặc tiến hành các hoạt động phát triển, mở rộng thêmbài nghe cũng là một dạng hoạt động giúp khắc sâu kiến thức. 6.4. Sử dụng giáo cụ trực quan: Trong giảng dạy nói chung và trong việc dạy ngoại ngữ nói riêng, giáo cụ trực quan vẫn thường đóng vai trò hỗ trợ rất tích cực. Với môn ngoại ngữ, trực quan được sử dụng trong mọi hoạt động của quá trình dạy học từ khâu giới thiệu ngữ liệu đến khâu thực hành, chúng làm đa dạng và phong phú thêm rất nhiêu các thủ thuật và hoạt động dạy học khác nhau. Khi tiến hành các hoạt động nghe, việc dùng tranh ảnh minh họa kèm theo sẽ có tác dụng hỗ trợ rất tốt trong việc làm rõ ngữ cảnh, gợi ý nội dung sắp nghe. Ngoài ra tranh ảnh còn là phương tiện để kiểm tra mức độ nghe hiểu của học sinh (Ví dụ: nghe và xác định tranh có liên quan; nghe và xắp xếp tranh theo trình tự v.v...). Trong dạy nghe cho học sinh lớp 9, tôi thường giới thiệu chủ đê, tình huống, nội dung trước khi nghe sau đó dùng tranh hình minh họa (tranh được cấp phát, giáo viên tự vẽ, do học sinh vẽ, hoặc photo, phóng to tranh trong sách giáo khoa) hoặc vẽ các hình đơn giản lên bảng trong các bài tập nghe hiểu như: chọn tranh đúng, khớp với nội dung nghe, nghe và điên tên, câu chú thích phù hợp, hoặc có thể dùng biểu bảng, bản đồ, biểu đồ. Ngoài ra việc sử dụng các đồ vật thật, tự tạo hoặc sẵn có xung quanh cũng gây hứng thú làm cho bài học trở nên thú vị và gần với cuộc sống thật hơn. 15 Bên cạnh đó, tôi còn kết hợp những trò chơi luyện nghe giúp học sinh trở nên thích thú với môn học hơn, các em có thể hiểu được ý nghĩa của những câu nói ngắn, nắm bắt được ý chính trong chuỗi thông tin, nhận biết những mẫu lời nói riêng biệt và các tập hợp trong chuỗi lời nói, phát triển trí nhớ nghe (nghe và ghi nhớ), đồng thời còn phát triển được phản ứng nghe, tạo sức bật. Cụ thể một số trò chơi như sau: + SIMON SAYS + WHICH OF THE PICTURES IS IT ? + INTRODUCTIONS + RIGHT – LEFT + GUESSING + I KNOW HIS TRADE + SOLVE LOGICAL PROBLEMS + INFORMATION Tất cả những trò chơi này các giáo viên dạy tiếng nước ngoài đêu đã được học ở trường sư phạm. Hoặc nếu không thì có thể tham khảo trong cuốn: “Những trò chơi trong giờ học Tiếng Anh ” của M. F STRONIN do Nguyễn Văn Tâm dịch. (NXB Thanh niên - 1994) Ví dụ vê cách tiến hành mô ăt số trò chơi thông thường: + Trò chơi thứ nhất: Truyên tin Lớp có 6 dãy bàn, giáo viên làm 6 phiếu trên mỗi phiếu ghi một câu. Sau đó trao phiếu cho 1 học sinh đầu dãy. Học sinh này có nhiệm vụ nói thầm rồi nói vào tai người kế bên điêu mình đọc được. Cứ thế, người này nối tiếp người kia nói vào tai nhau cho đến người cuối dãy. Người cuối dãy có nhiệm vụ nói lớn câu hay đoạn mình nghe được, và học sinh đầu dãy sẽ xác định đúng hay không. + Trò chơi thứ hai: Tìm bạn giao tiếp Giáo viên chuẩn bị một số câu hỏi và câu trả lời trên giấy, ghép câu trả lời với câu hỏi bằng cách cho chúng những con số: thí dụ câu hỏi 1 tương ứng với câu trả lời. Học sinh tự tìm câu trả lời bằng cách tìm ra bạn của mình tương ứng với câu trả phù hợp, cặp nào nhận ra nhau đầu tiên sẽ thắng. + Trò chơi thứ ba: Giúp bạn học tốt Mỗi học sinh trong lớp sưu tầm hoặc tự đặt ra một câu (có thể có thông tin bị sai) mỗi thành viên của lớp sẽ lắng nghe bạn đọc câu của mình rồi tìm cách xác định câu đúng hay sai và sửa câu. Giáo viên nên bóc thăm học sinh có nhiệm vụ để mọi thành viên của trong lớp phải lắng nghe bạn đọc. + Trò chơi thứ tư: Đoán từ: Tôi có hai đồ vật dấu trong hai chiếc túi. Tôi giơ chiếc túi thứ nhất: 16 Học sinh đoán: That is your stick. Giáo viên: No. This is my UMBRELLA Giáo viên giơ chiếc túi thứ hai Học sinh đoán: That is your box. Giáo viên: No. This is my MOBILEPHONE. Trong trò chơi này sự khẳng định “Cái đó là cái gì?” là quan trọng nhất. Trọng âm rơi vào từ chỉ đồ vật ấy. Bên cạnh đó có thể lồng ghép dạy một số bài hát Tiếng Anh cho giờ học thêm sinh động, ví dụ khi dạy bài AULD LANG SYNE (English 9 - Unit 8: Celebrations - page 68): giáo viên hát mẫu rồi dạy cho học sinh hát theo, sẽ tạo được hiệu quả cao đến bất ngờ. 6.5. Đảm bảo chất lượng mẫu nghe: Nếu các hoạt động nghe được tiến hành qua băng cassette, đài, ti vi v.v...thì những phương tiện đó phải luôn được bảo đảm ở tình trạng ổn định tốt, đảm bảo được chất lượng tiếng, tạo điêu kiện cho học sinh nghe được mẫu chuẩn, không bị méo mó vì kĩ thuật thuần túy. Cần chuẩn bị máy tốt, băng rõ, và pin dự trữ khi mất điện. Nếu giáo viên đọc cho học sinh nghe, cần đọc với tốc độ trung bình, không chậm quá kể cả với đối tượng học sinh mới học ở giai đoạn đầu để tránh làm ảnh hưởng đến nội dung ngữ nghĩa của bài. 7. Tiến hành các phương pháp đa chiều: Nhiêu giáo viên cho rằng dạy phần nghe hiểu (listening comprehension) là khó nhất và đa số học sinh cũng cho là học nghe khó nhất. Vậy dạy học sinh luyện nghe như thế nào cho tốt? Làm thế nào giúp học sinh có thể tiến bộ nhanh trong thời gian học ở trung học cơ sở? Hãy khuyến khích học sinh thử luyện nghe bằng một số phương pháp sau: 7.1. Xem nhiêu chương trình truyên hình hoặc phim nói bằng Tiếng Anh/ có phụ đê Tiếng Anh là những cách tốt nhất để luyện nghe có kết quả. Nghe hoă ăc xem nhiêu lần, trước khi đọc phụ đê. Sau đó, đọc lại phụ đê, chủ yếu kiểm tra những từ đã nghe hoặc đoán, hoặc những từ mà học sinh có thể phát âm lại nhưng không hiểu viết và nghĩa thế nào. Qua việc này, nhiêu khi các em phát hiện rằng một từ các em rất quen thuộc mà từ xưa đến nay cứ nghĩ là phải nói một cách nào đó, thì thực ra cần phải nói khác hẳn và phát âm như thế thì mới mong nghe đúng và nói cho người khác hiểu. Sau đó, không nhìn phụ đê nữa mà nghe lại một hai lần nữa. Ví dụ: hai chữ tomb, bury, học sinh cứ đinh ninh là sẽ phát âm là 'tômb(ơ), bơri' - sau này nghe chữ 'tum, beri' thì chẳng hiểu gì cả - dù cho em ấy nghe rõ ràng là tum, beri, cho đến khi xem script thì em ấy sẽ hiểu rõ 17 Các hình ảnh đính kèm làm cho học sinh hiểu được ít nhiêu nội dung bản tin, mà không cần phải dịch từng câu của những gì xướng ngôn viên nói. Học sinh sẽ yên tâm hơn, sau khi nghe 15 phút tin tức, tự tóm lược lại thì sẽ thấy rằng mình đã nắm bắt được phần chính yếu của nội dung bản tin. 7.2. Luyện nghe qua các sách dùng chuyên luyện nghe có kèm băng cassette hoặc nghe tin tức qua các chương trình truyên thanh, truyên hình bằng Tiếng Anh như VTV News, Talk Viet Nam, BBC, CNN... Nghe băng và viết ra giấy những gì đã nghe, sau đó hãy so sánh với phần lời thoại ở cuối sách hoặc đáp án do giáo viên cung cấp, cách này đươc cho là hiệu quả nhất dù rằng học sinh sẽ phải mất khá nhiêu thời gian cho việc luyện tập theo phương pháp này.Ta có thể so sánh và thấy được những lỗi mà ta mắc phải. Hoă ăc thu một bản tin, và nghe lại rồi chép ra nhiêu chừng nào hay chừng nấy… không tra cứu từ điển hay tìm hiểu nghĩa vội. Đoán nghĩa trong nội dung câu, và nhớ lại âm thanh của từ, hay cụm từ đó, sau này tự nó sẽ rõ nghĩa, nếu nghe đi nghe lại nhiêu lần. Hoă ăc lấy script của những bài mình từng nghe, đọc lại và nhớ lại trong tưởng tượng lời đọc mà mình từng nghe nhiêu lần.Sau đó xếp bản script và nghe lại để hiểu. Lần này tự nhiên mình sẽ nghe rõ từng tiếng và hiểu. Trường hợp không hiểu một từ hay cụm từ, thì gắng lặp lại nhiêu lần đúng như mình đã nghe, sau đó lật lại script để so sánh. Ví dụ: Mô tă học sinh khi nghe trên đài VOA, sau mỗi chương trình em thường nghe một cụm từ tương tự như: statue, statute hay statu gì đó, mà không biết viết thế nào, chính tả của chữ ấy đối với em ấy không thành vấn đê, tuy vẫn hiểu đại loại là: hãy đợi đấy để nghe tiếp. Rồi dần dần sau này em sẽ biết rằng thuật ngữ rất quen thuộc ấy là “stay tune” 7.3. Học hay nghe các bài hát Tiếng Anh, và hát theo trong khi nghe. Chọn một số bài hát mà mình thích, tìm lyrics của nó rồi vừa nghe vừa nhìn lyrics. Sau đó học thuộc lòng và hát song song với ca sĩ, và gắng phát âm cũng như giữ tốc độ và trường độ cho đúng. Khi thích cũng có thể tự hát cho mình nghe (nếu không có giọng tốt và hát sai giọng một tí cũng không sao, vì chủ yếu là tập phát âm, tốc độ, trường độ và âm điệu tiếng Anh).Và nói cho đúng giọng (qua hát) cũng là một cách giúp mình sau này nhạy tai hơn khi nghe, vì thường thường ngôn ngữ trong các bài hát khó nghe hơn những câu nói bình thường rất nhiêu. Có thể gặp khó khăn khi nghe những cụm từ được đọc nối liên nhau, luyến láy, nghe sót một vài từ quan trọng nào đó hoặc hiểu nhầm một từ nào đó dẫn đến sai lệch nội dung Ví dụ: “I go to the copy shop” lại nghe nhầm là “I go to the coffee shop” vì âm của từ “copy” rất giống với “coffee”. 18 7.4 Hướng dẫn và cung cấp cho học sinh mô tă số địa chỉ luyê nă nghe tiếng Anh: + Xem các kênh truyên hình theo lĩnh vực âm nhạc, tin tức, điện ảnh, giải trí... của những hãng truyên thông hàng đầu thế giới: CNN, BBC, NBC, ESPN.... Học tiếng anh qua kênh Movie trailers, cartoon, chatshows, Entertainment TV... + Chương trình học nghe nói Anh ngữ sinh động của đài VOA: Voanews.comspecialenglish + Nghe Anh Mỹ theo các chủ đê: Cnn.com/audio/radio + Nghe Radio trực tuyến CNN: Bbc.co.uk + Nghe Radio trực tuyến BBC: http://www.manythings.org/listen + Luyện nghe các bản tin của VOA: Englishclub.com +Các tài liệu luyện phát âm, các bài nghe giọng Anh-Mỹ: Rocketboom.com + Tập thảo luận, trao đổi bằng tiếng Anh, nghe những người khác nói, luyện kỹ năng nói tiếng Anh: Chinswing.com + Petalia.org/stories: trang đọc truyện online và luyện nghe qua các bài diễn văn nổi tiếng, truyện cổ tích... trên Petalia + Xem và nghe tin tức, những đoạn clip trên Google: http://www.odeo.com/listen + Nghe nói tiếng Anh trên mạng Internet - Listen to American English: http://www.vr.com.vn/VRSpeak/index.htm + Luyện nghe qua các câu chuyện cổ tích, thơ ca, viễn tưởng, các câu châm ngôn và các tác phẩm nổi tiếng (recorders): Repeatafterus.com + Focusenglish.com: Trang này vê các cuộc hội thoại hàng ngày + Abcnews.go.com: Xem và nghe hai kênh nổi tiếng của ABC, Good morning America và World News Tonight + Các liên kết vê các bài Test luyện nghe và luyện thi với miêu tả rất chi tiết: Esl.about.com/cs/listening +Great Speeches: Nghe các bài diễn văn nổi tiếng thế kỷ 20, nghe hàng chục chính trị gia hàng đầu thế giới phát biểu như Tony Blair, Bill Clinton, G. Bush, Nelson Mandela... + Nbc.com/Video: Xem và nghe những clip vui nhộn của đài NBC Luôn đô nă g viên học sinh rằng: nếu em cho là hiện nay mình chưa hiểu, và mình nghĩ rằng cố gắng nghe nhiêu cũng vô ích, để mình học thêm đã, khi nào có nhiêu từ vựng để hiểu rồi lúc đó sẽ tập nghe sau thì nghĩ như thế là hoàn toàn sai. Chính vì em chưa hiểu nên mới cần nghe nhiêu hơn những người đã hiểu. Muốn biết bơi thì phải nhảy xuống nước, không thể lấy lý do rằng “vì mình không thể nổi” nên ở trên bờ học cho hết lý thuyết rồi mới nhảy xuống, và sẽ biết bơi! Chưa 19 biết bơi mà xuống nước thì sẽ uống nước và ngộp thở đấy, nhưng phải thông qua uống nước và ngộp thở như thế thì mới hy vọng biết bơi. Muốn biết bơi, thì phải nhảy xuống nước, và nhảy khi chưa biết bơi. Chính vì chưa biết bơi nên mới cần nhảy xuống nước. Muốn biết nghe và hiểu tiếng Anh thì phải nghe tiếng Anh, nghe khi chưa hiểu gì cả! Và chính vì chưa hiểu gì nên cần phải nghe nhiêu. Chúng ta cần phải nghe một khoảng thời gian (nhanh hay chậm tùy theo mỗi người). Và vì thế, việc luyện nghe rất quan trọng: Hãy nghe bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu. Chúng ta có thể nhớ hàng trăm câu trong đầu, nhưng nếu chúng ta không nghe được thì tất cả đêu vô nghĩa, giống như một khách du lịch cầm quyển sách học tiếng, hỏi đường và không thể đến nơi được vì không thể hiểu người chỉ đường nói gì. Khi khả năng nghe hiểu tiếng Anh của chúng ta tiến bộ thì cách tự nhiên, chúng ta cũng sẽ thấy tự tin và tiến bộ trong khả năng nói. 8. Luôn áp dụng các thủ thuật đặt câu hỏi khi dạy kỹ năng nghe Tiếng Anh: Trong quá trình dạy học, câu hỏi luôn luôn được sử dụng như một công cụ phổ biến và gần như không thể thiếu trong mỗi giờ học. Đối với một giờ dạy nghe tôi thường dùng nhiêu loại câu hỏi khác nhau như: Yes-No questions; Alternative questions; Wh-questions; Multiple choice; TrueFalse… Các dạng câu hỏi được trả lời bằng cách lấy trực tiếp các câu nghe được trong bài, hoặc bằng các hàm ý có trong bài thì thường dễ hơn nhưng với các câu đòi hỏi sự suy luận, đánh giá để trả lời thì rất khó nên sự lựa chọn loại câu hỏi nào để học sinh nghe, đoán và trả lời được đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt. Các phương pháp dạy học khác nhau lại có những quan điểm vê Dạy - Học khác nhau nhưng có thể tóm tắt thành 2 quan điểm lớn: + Quan điểm lấy người thầy làm trọng tâm ( Teacher dominated ) + Quan điểm lấy người học làm trọng tâm (Student centered ) Trong những năm gần đây, việc dạy và học Tiếng Anh trong trường THCS đã có những chuyển biến theo những định hướng đổi mới phương pháp dạy học, song nhiêu khi giáo viên còn lúng túng, chưa linh hoạt vận dụng đổi mới phương pháp, nhiêu khi truyên thụ kiến thức còn một chiêu, chưa thực sự phát huy được tính tích cực của học sinh. Giáo viên cần nghiên cứu làm thế nào đó để dạy cách nghe tốt cho học sinh để các em vận dụng trong thực tiễn.Và học sinh cũng có nhiệm vụ không kém phần khó khăn, đó là việc kiên trì học hỏi, chịu khó, chịu khổ để rèn luyện mình, đồng thời phải tìm cách khắc phục khó khăn, tìm ra phương pháp học phù hợp với mình nhằm đạt hiệu quả tối ưu. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan