Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lý tài chính tại bảo hiểm xã hội tỉnh vĩnh phúc...

Tài liệu Quản lý tài chính tại bảo hiểm xã hội tỉnh vĩnh phúc

.PDF
82
268
101

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HỒNG MINH QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH VĨNH PHÚC Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số : 60.34.04.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Phí VĩnhTường HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết luận, kiến nghị đề cập tại Luận văn là vấn đề mới chưa được công bố trong công trình nghiên cứu nào./. TÁC GIẢ LUẬN VĂN MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH BẢO HIỂM XÃ HỘI ................................................................... 7 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội .................................................................. 7 1.2. Quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ....................................................................15 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VĨNH PHÚC TRONG GIAI ĐOẠN 2009-2013.................................... 30 2.1. Giới thiệu về Bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc ................................................30 2.2. Thực trạng hoạt động quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Vĩnh Phúc..33 2.3. Các vấn đề tồn tại và nguyên nhân ...................................................................55 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VĨNH PHÚC.......... 62 3.1. Phương hướng, mục tiêu quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Vĩnh Phúc.62 3.2. Các giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Vĩnh Phúc............................................................................................................................63 3.3. Một số kiến nghị ................................................................................................71 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 75 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BHXH Bảo hiểm xã hội NLĐ Người lao động QLTC Quản lý tài chính DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ Sơ đồ 1.1: Hoạt động thu chi quỹ trong hệ thống BHXH.............................. 18 Sơ đồ 2.1: Sơ đồ hệ thống tổ chức bộ máy BHXH tỉnh Vĩnh Phúc ............... 34 Bảng 2.1: Kết quả thu BHXH tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2009- 2016............. 41 Bảng 2.2: Tình hình quản lý đối tượng tham gia và số đơn vị tham gia BHXH tại BHXH tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2009- 2016 ............................................ 42 Bảng 2.3: Tình hình chi trả chế độ của BHXH Vĩnh Phúc (từ năm 2011 - 2015) ...................................................................................... 49 Bảng 2.4: Tình hình chi trả chế độ ốm đau, thai sản và nghỉ dưỡng sức tại Vĩnh Phúc (2011 - 2015) ................................................................................. 50 Sơ đồ 2.2: Quy trình chi trả chế độ BHXH thường xuyên dài hạn ở Vĩnh Phúc hiện nay ........................................................................................................... 51 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách xã hội đặc biệt quan trọng được các nước chú trọng phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mình. Ở nước ta, BHXH là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước, được quy định trong Hiến pháp, các văn kiện của Đảng. Ngoài ra, không ngừng được bổ sung, hoàn thiện nhằm từng bước mở rộng, nâng cao việc đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động, chết, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định: tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hoà với tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tạo cơ hội bình đẳng hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Đồng thời đề ra mục tiêu đến năm 2020, trong đó GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 - 3.200 USD; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2% - 3%/năm; phúc lợi, an sinh xã hội và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được bảo đảm… Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra một trong những phương hướng, nhiệm vụ, bảo đảm an sinh xã hội đó là: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động... Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân”. 1 Vĩnh Phúc là tỉnh tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, đang trong thời kỳ phát triển toàn diện, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào tỉnh ngày càng nhiều. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển chung của của đất nước, kinh tế của tỉnh cũng có lúc gặp nhiều khó khăn, giá cả, lạm phát tăng cao, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người dân trên địa bàn tỉnh. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, nhiều lao động bị mất việc làm từ đó ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của người lao động và việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động của BHXH tỉnh. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện vấn đề quản lý tài chính của BHXH Vĩnh Phúc, nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính phù hợp, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Vĩnh Phúc trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam mở cửa và hội nhập ngày càng sâu hơn, rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Do vậy, tôi chọn vấn đề “Quản lý tài chính tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn rút ra những kết quả đạt được để phát huy, những tồn tại cần khắc phục. Hơn nữa thông qua đó có thể đưa ra những đóng góp, góp phần hoàn thiện công tác quản lý tài chính của BHXH Vĩnh Phúc trong thời đại mới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Trong những năm gần đây, lĩnh vực BHXH nói chung và quản lý tài chính BHXH nói riêng đã và đang được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Đã có một số công trình nghiên cứu về BHXH với những cách tiếp cận khác nhau, được đề cập và thể hiện trong một số đề tài cụ thể như: Nguyễn Văn Châu (1996, Thực trạng quản lý thu BHXH hiện nay và một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thu) đã nghiên cứu vấn đề quản lý thu BHXH của Việt Nam giai đoạn 1995-1996. Đề tài đã đóng góp những nghiên cứu khoa học, có ý nghĩa thực tiễn về xây dựng hệ thống biểu mẫu thu 2 BHXH, phương thức thực hiện thu BHXH từ trung ương đến địa phương, quản lý quỹ BHXH cũng như hình thức, phạm vi đầu tư tăng trưởng một phần quỹ BHXH góp phần tạo lập bền vững và cân đối quỹ BHXH về lâu dài. Phạm Đỗ Nhật Tân (2007, Các giải pháp đảm bảo hiểm xã hội cân đối quỹ BHXH bắt buộc khi thực hiện Luật BHXH) đã hệ thống các quy định của Nhà nước về đối tượng thu, mức thu, cách thức vận hành và quản lý các quỹ BHXH, phân tích đánh giá thực trạng thu – chi của quỹ BHXH Việt Nam, từ đó tác giả đưa ra các dẫn chứng về những ưu điểm và những mặt hạn chế về việc duy trì và mở rộng nguồn thu BHXH, sử dụng quỹ BHXH, điều kiện để hưởng các chế độ chính sách BHXH nhằm đảm bảo hiểm xã hội sự an toàn của quỹ BHXH, cân đối quỹ BHXH trong tương lai. Phạm Trường Giang (2010, Hoàn thiện cơ chế thu BHXH ở Việt Nam) đã nghiên cứu về cơ chế chính sách thu BHXH ở Việt Nam, việc phân cấp quản lý tài chính lý thu BHXH, các chế tài về đóng BHXH và xử lý vi phạm về đóng BHXH. Trên cơ sở phân tích cơ chế chính sách thu BHXH ở Việt Nam, đề cập vấn đề chề tài xử phạt vi phạm pháp luật Bảo hiểm còn thấp, chưa đủ sức răn đe, tác giả đã khuyến nghị một số giải pháp có ý nghĩa thực tiễn hoàn thiện cơ chế chính sách thu BHXH ở Việt Nam. Đỗ Văn Sinh (2005, Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam) đã góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học và thực tiễn của quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam; tổng kết mô hình và phương thức quản lý tài chính lý quỹ của một số nước trên thế giới để rút ra một số bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam; đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam. Nguyễn Hữu Vinh (2010, Giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng và trốn đóng BHXH ở Hà Nội) đi sâu lý giải nguyên nhân làm giảm nguồn thu là do tình trạng nợ đọng tiền đóng BHXH kéo dài, trốn đóng BHXH dưới nhiều 3 hình thức của các doanh nghiệp, từ đó, tác giả kiến nghị các giải pháp làm giảm tình trạng nợ đọng, truy thu, tính lãi thậm chí là khoanh nợ để đảm bảo hiểm xã hội thu đúng, đủ, kịp thời khộng làm ảnh hưởng đến việc thụ hưởng các chế độ BHXH của người lao động. Với nhiều góc độ khác nhau từ cách tiếp cận, mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, các dề tài trên đã đề cập đến một số lĩnh vực hoạt động của BHXH và có những liên quan nhất định đến quản lý tài chính BHXH. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2005 – 2013, các nội dung nghiên cứu đi trước chưa phân tích sâu sắc các vấn đề riêng có của quản lý tài chính BHXH Vĩnh Phúc. Để thực hiện luận văn, tôi đã đi sâu nghiên cứu thực trạng quản lý tài chính của BHXH Vĩnh Phúc, từ đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị của mình nhằm hoàn thiện quản lý tài chính phù hợp với đặc thù của địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý tài chính BHXH, đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Vĩnh Phúc, đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý tài chính của BHXH Vĩnh Phúc. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá cơ sở lý luận về quản lý tài chính BHXH. - Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Vĩnh Phúc. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính của BHXH Vĩnh Phúc, đáp ứng những yêu cầu mới về phát triển kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động quản lý tài chính BHXH. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ nghiên cứu về quản lý tài chính và quản lý tài chính của BHXH Vĩnh Phúc (ở cấp tỉnh). Do vậy, quản lý tài chính BHXH được nghiên cứu ở đây gồm quản lý thu BHXH, quản lý chi BHXH và quản lý chi cho hoạt động trong cơ quan BHXH. Các nội dung khác của quản lý tài chính BHXH như quản lý quỹ BHXH, quản lý hoạt động đầu tư và tăng trưởng quỹ BHXH không đề cập đến trong đề tài này. Về thời gian, đề tài nghiên cứu quản lý tài chính của BHXH Vĩnh Phúc từ năm 2005 đến 2016, định hướng đến năm 2020. Trong đó, trọng tâm nghiên cứu ở giai đoạn 2009-2013. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống, so sánh, điều tra, thống kê phân tích, đánh giá trên cơ sở các báo cáo tổng hợp, điều tra về tình hình kinh tế xã hội và hoạt động BHXH Vĩnh Phúc để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận: - Luận văn bổ sung thêm một số vấn đề lý luận liên quan đến quản lý tài chính của BHXH địa phương. - Làm rõ nội dung quản lý tài chính BHXH. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: - Đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Vĩnh Phúc, chỉ rõ các kết quả, hạn chế và những nguyên nhân của những hạn chế đó. 5 - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính BHXH Vĩnh Phúc trong giai đoạn tới. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương với các nội dung cơ bản gồm: Chương 1: Lý luận chung về Bảo hiểm xã hội và quản lý tài chính Bảo hiểm xã hội Chương 2: Thực trạng quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2009-2013 Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc 6 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội BHXH là một hoạt động đã xuất hiện từ rất lâu. Ngay từ thế kỷ 13, BHXH đã có những mầm mống đầu tiên trên thế giới. Đến thế kỷ 19, đạo luật đầu tiên về BHXH xuất hiện ở Đức. Trong quá trình phát triển, các chế độ BHXH và đối tượng BHXH ngày càng được mở rộng. Theo đó, khái niệm BHXH cũng có nhiều thay đổi và ngày càng được hoàn chỉnh. Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về BHXH và cũng có rất nhiều khái niệm BHXH được đưa ra. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra một định nghĩa về BHXH được chấp nhận rộng rãi nhất. BHXH là hình thức bảo trợ mà xã hội dành cho các thành viên của mình thông qua nhiều biện pháp công nhằm tránh tình trạng khốn khó về mặt kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm đáng kể thu nhập vì bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao động và tử vong; chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình có con nhỏ (ILO, 1984) Khái niệm BHXH này giống khái niệm BHXH của Việt Nam. BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho ngời lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. 7 Khái niệm BHXH còn được ghi rõ trong Luật BHXH, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày 29/6/2006, như sau: “BHXH là sự sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH” Như vậy, BHXH được coi là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được dồn tích từ sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động, theo quy định của pháp luật, nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình họ khi họ gặp những rủi ro dẫn đến việc giảm hoặc mất khả năng thanh toán từ thu nhập theo lao động. Đó là xét theo góc độ kinh tế BHXH còn có thể xét dưới góc độ xã hội hay góc độ pháp lý. Dưới góc độ xã hội, BHXH được coi là sự liên kết của những người lao động xuất phát từ lợi ích chung của xã hội, của người lao động và người sử dụng lao động. Khi tham gia quan hệ này, người lao động sẽ được hưởng một khoản trợ cấp nhất định nếu có những biến cố rủi ro, trên cơ sở sự đóng góp của các bên. Dưới góc độ pháp lý, BHXH được tiếp cận như trong Luật BHXH Việt Nam đã xác định. Nghiên cứu về BHXH, chúng ta có thể thấy có nhiều tác giả nước ngoài cũng đã đa ra các định nghĩa khác về BHXH hoặc bảo trợ xã hội, áp dụng riêng cho các điều kiện ở các nước đang phát triển. Các tác giả này có chung một quan điểm là BHXH không chỉ dừng ở việc mất đột ngột thu nhập theo dự kiến mà còn tính đến cả việc ngăn chặn và giảm nghèo kinh niên và mang lại mức sống tối thiểu. Cách tiếp cận BHXH mà mỗi nước lựa chọn còn tuỳ thuộc vào mục tiêu chính sách quốc gia và điều kiện cơ cấu cụ thể của nền kinh tế. 8 Mặc dù khái niệm BHXH của Việt Nam được xác định trong từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam cũng tương tự khái niệm BHXH mà ILO đưa ra, nhưng thực tế trong quá trình thảo luận, xây dựng chính sách, cũng có nhiều định nghĩa BHXH khác do các tổ chức quốc tế và trong nước đưa ra, đề cập đến các mặt khác nhau của BHXH ở Việt Nam. Trong đó, có nhiều định nghĩa quá rộng hoặc quá chung không thể áp dụng trong điều kiện thực tế ở Việt Nam. Các định nghĩa khác nhau này phản ánh không chỉ tầm nhìn khác nhau về phát triển BHXH ở Việt Nam mà còn phản ánh cách diễn giải khác nhau đối với các kinh nghiệm quốc tế và ý nghĩa của những kinh nghiệm đó đối với quá trình hoạch định chính sách quốc gia Tuy nhiên, kết quả đạt được của quá trình thảo luận về định nghĩa BHXH thích hợp nhất ở Việt Nam được thể hiện ở bốn điểm sau: Thứ nhất, cần phân biệt sự khác nhau giữa chính sách BHXH và chính sách giảm nghèo. Thứ hai, cần xác định rõ các đối tượng hưởng lợi dự định của các chương trình và chính sách này. Thứ ba, cần phải chú ý đến vai trò thích hợp của Nhà nước trong việc cải cách các chương trình BHXH. Thứ tư, cần xem xét tính chất tái phân phối của chính sách BHXH trong điều kiện các nước đang phát triển Khái niệm BHXH được sử dụng trong toàn bộ nghiên cứu của luận văn này là khái niệm BHXH đã được ghi trong Luật BHXH Việt Nam, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006. Điểm cần nói thêm ở đây là cần phân biệt khái niệm BHXH và khái niệm an sinh xã hội, phân biệt BHXH và bảo hiểm thương mại. 9 An sinh xã hội là một thuật ngữ xuất hiện trong một đạo luật của Mỹ năm 1935. Theo đó, an sinh xã hội là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị cá nhân. Đồng thời, tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng xác định: An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm về thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết, bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. Như vậy, có thể thấy an sinh xã hội là một khái niệm có nội hàm rộng hơn khái niệm BHXH. Đây là một khái niệm “mở” nên có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội bao trùm lên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực cuộc sống của con người. Đó là các quan hệ hình thành trong lĩnh vực nhằm ổn định đời sống, nâng cao chất lượng cuộc sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định, phát triển của toàn bộ xã hội. Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình. Trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập đáng kể do gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất ngời nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già cũng như các trường hợp bị thiên tai địch họa. Đồng thời, xã hội cũng ưu đãi những thành viên của mình vì đã có những hành động xả thân vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, BHXH là một trong nhiều nội dung của an sinh xã hội. 10 Ở Việt Nam, thuật ngữ an sinh xã hội được tiếp cận dưới nhiều tên gọi khác nhau như bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an toàn xã hội. 1.1.2. Bản chất bảo hiểm xã hội BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, nhằm đảm bảo an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong xã hội. Với tư cách là công cụ quan trọng để quản lý xã hội, Nhà nước phải can thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, đặc biệt là để giải quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa chủ và thợ. Yêu cầu giới chủ phải thực hiện những cam kết đảm bảo điều kiện làm việc và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho giới thợ, trong đó có nhu cầu về tiền lương, về chăm sóc y tế, về chăm sóc khi bị ốm đau, tai nạn, trả lương khi người lao động đến tuổi hưu, đồng thời bản thân người lao động cũng phải có trách nhiệm giành một khoản thu nhập để chi trả cho bản thân mình khi có những rủi ro xảy ra. Mặt khác, nhà nước được coi là một người chủ sử dụng lao động của mọi người lao động, vì vậy trong trường hợp sự đóng góp của người sử dụng lao động và ngời lao động không đủ để trang trải cho những khoản chi cho người lao động khi họ gặp phải rủi ro thì nhà nước phải có trách nhiệm dùng ngân sách của nhà nước để bảo đảm đời sống cơ bản cho người lao động. Như vậy BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách quan. Nền kinh tế hàng hoá càng phát triển thì càng đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. Nền kinh tế hàng hoá phát triển là nền tảng, cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách, thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động và gia đình của họ 11 được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối trong BHXH vừa mang tính chất bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Những biến cố xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản, tuổi già và chết, trong trường hợp này BHXH phân phối mang tính bồi hoàn vì ngời lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính không bồi hoàn, có nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó. BHXH hoạt động theo nguyên tắc cộng đồng lấy số đông bù cho số ít, tức là dùng số tiền đóng góp nhỏ của số đông người tham gia BHXH để bù đắp chia sẻ cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp từng người, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro tổn thất. Hoạt động BHXH là loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội cao, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá trình tổ chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH đối với người lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Là quá trình tổ chức thực hiện các nghiệp vụ thu BHXH đối với người sử dụng lao động và người lao động; giải quyết các chế độ, chính sách và chi BHXH cho người được hưởng, quản lý quỹ BHXH và thực hiện đầu tư bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH. 1.2.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội Hoạt động của BHXH là hoạt động sự nghiệp vì lợi ích chung của toàn xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội, lợi nhuận không phải là mục 12 tiêu của hoạt động BHXH. Do đó, BHXH có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của con người, được thể hiện trên các mặt sau: Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người tham gia BHXH, đảm bảo an toàn xã hội. Người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm mất khả năng lao động, mất việc làm, chết. Việc thay đổi hoặc bù đắp chắc chắn sẽ xảy ra với mọi người lao động tham gia BHXH đến khi họ hết tuổi lao động được hưởng lương hưu hoặc khi họ chết (được hưởng tiền tuất mai táng phí). Việc bù đắp cũng chỉ xảy ra đối với một số người với một số chế độ BHXH còn lại như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm… Nhờ có sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động nhanh chóng khắc phục được những tổn thất vật chất, sớm phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình lao động, hoạt động bình thường của bản thân. Đây là vai trò cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và phương thức hoạt động của BHXH. Hai là, BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối trong BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho người có thu nhập thấp, là sự chuyển dịch thu nhập của người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Ba là, BHXH góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời sống xã hội của con người. Để thực hiện có hiệu quả các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị, tổ chức kinh tế đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động, về vệ sinh công nghiệp bắt buộc mọi người lao động phải tuân thủ. Quỹ BHXH kịp thời hỗ trợ cho người lao động được nghỉ ngơi, điều dưỡng để nâng cao sức khoẻ. 13 Bốn là, BHXH làm cho mối quan hệ giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước ngày càng gắn bó. Thông qua hoạt động của BHXH người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, họ tích cực lao động, tạo ra năng suất lao động cao hơn. Bởi vì chính người sử dụng lao động đã tham gia đóng góp BHXH để người lao động được hưởng thì tạo ra một niềm tin yêu của người lao động đối với người sử dụng lao động, khuyến khích người lao động phấn khởi, yên tâm, nhiệt tình trong công tác, gắn bó với người sử dụng lao động hết đời này sang đời khác. Đối với Nhà nước thông qua việc tổ chức hoạt động BHXH đã đảm bảo cho người lao động mọi tổ chức, mọi đơn vị bình đẳng, công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống xã hội, góp phần làm cho sản xuất ổn định, nền kinh tế, chính trị và xã hội phát triển và an toàn. Năm là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung, quỹ được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước, quỹ được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đình họ, một phần dùng để chi quản lý sự nghiệp BHXH. Điều kiện quan trọng của người lao động được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi về BHXH, ngoài việc người lao động phải đóng góp thì người sử dụng lao động cũng phải đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH. Điều đó đã làm cho người lao động gắn bó với người sử dụng lao động, làm cho quá trình sản xuất được ổn định, bền vững, có năng suất cao hơn. Mặt khác khi chính sách BHXH được áp dụng đối với người lao động sẽ tạo ra được một thị trường lao động xã hội hợp lý, có hiệu quả, tạo ra được một thị trờng lao động năng động. Bởi vì người lao động có thể làm việc ở bất cứ đơn vị nào, thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu thì họ vẫn được quyền tham gia và hưởng thụ tất cả mọi chế độ về BHXH. Chính điều đó tạo điều kiện người lao động và 14 người sử dụng lao động được tự do thỏa thuận về điều kiện làm việc phù hợp với nhu cầu trình độ, nghề nghiệp, tay nghề, thu nhập với từng người lao động. Đó là những yếu tố quan trọng vừa để khai thác, sử dụng triệt để nguồn lực lao động, vừa để nâng cao hiệu suất công tác, năng suất lao động, tiết kiệm chi phí xã hội (về đào tạo, các nguồn lực khác…) làm tăng của cải vật chất và tăng tích luỹ cho nền kinh tế. 1.2. Quản lý tài chính bảo hiểm xã hội 1.2.1. Khái niệm quản lý tài chính bảo hiểm xã hội Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Vận dụng khái niệm này vào lĩnh vực tài chính BHXH, có thể xác định khái niệm quản lý tài chính BHXH như sau: “Quản lý tài chính BHXH là sự tác động của cơ quan quản lý BHXH tới lĩnh vực tài chính BHXH nhằm đạt mục tiêu trong một thời kỳ nhất định". Cơ quan quản lý (chủ thể quản lý) của quản lý tài chính BHXH là cơ quan BHXH các cấp từ Trung ương đến địa phương. Theo Nghị định 19/1995/NĐ-CP, ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam, cơ quan quản lý BHXH ở Trung ương là BHXH Việt Nam. Ở địa phương, cơ quan quản lý có BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Đối tượng quản lý ở đây là lĩnh vực tài chính BHXH, bao gồm năm lĩnh vực đó là: Một là, toàn bộ sự vận động của quỹ BHXH nói chung. Hai là, các hoạt động tài chính về thu BHXH. Ba là, các hoạt động tài chính về chi các chế độ BHXH. Bốn là, các hoạt động tài chính liên quan đến việc bảo toàn giá trị, tăng trưởng quỹ BHXH và sử dụng lợi nhuận phát sinh từ những hoạt động đó. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan