1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Doanh nghiệp đã đơn giản hoá thủ tục, giảm thiểu rào cản gia
nhập thị trường. Luật Đầu tư đã xoá bỏ các phân biệt đối xử giữa các nhà đầu
tư, hạn chế sự can thiệp hành chính, bảo đảm hỗ trợ đầu tư phù hợp với
nguyên tắc đối xử quốc gia và tối huệ quốc. Nhà nước đã cho đấu thầu rộng
rãi cổ phần, cổ phiếu và nhập khẩu hàng hoá theo nhu cầu thị trường (trừ
những mặt hàng bị cấm hoặc phải có giấy phép riêng). Phương pháp xây dựng
pháp luật đã tiến dần theo hướng dân chủ hoá có điều tra, khảo sát, đánh giá
và các doanh nghiệp được tham gia từ đầu vào quá trình soạn thảo.
Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều nhà kinh tế, các doanh nghiệp hiện
nay chưa phát huy được hết tiềm năng của mình, còn gặp nhiều khó khăn.
Nguyên nhân một phần do bản thân các doanh nghiệp chưa có nhiều kinh
nghiệm nhất định trong nền kinh tế thị trường, chưa đủ năng động và sáng tạo
trong kinh doanh; mặt khác quan trọng hơn, là do chưa có một khung khổ
chính sách rõ ràng của Nhà nước trong việc đưa ra những biện pháp hữu hiệu
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy hết khả năng của mình trong sự
nghiệp phát triển kinh tế đất nước gây tổn phí cho doanh nghiệp, ảnh hưởng
không tốt đến môi trường kinh doanh, đến số thu ngân sách của Nhà nước,
đến khả năng tồn tại và tăng trưởng của doanh nghiệp đặc biệt trong giai đoạn
Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, các doanh nghiệp
đang phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thách thức về năng lực quản lý,
về công nghệ, về nguồn nhân lực...
Xuất phát từ bất cập về những rào cản trên, làm thế nào để củng cố tình
hình hoạt động cũng như khả năng tồn tại và tăng trưởng của các doanh
nghiệp sau đăng ký kinh doanh ở Việt Nam nói chung và Thành phố Đà Nẵng
nói riêng phát triển theo đúng định hướng mà Nhà nước đã đề ra, tôi xin chọn
2
đề tài “Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung thực hiện các mục tiêu chủ yếu sau:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận liên quan đến doanh nghiệp tư nhân
và quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân.
- Phân tích thực trạng và nêu ra được những hạn chế, nguyên nhân trong
việc quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp địa bàn thành phố Đà Nẵng, rút
ra những đánh giá tổng quát về tình hình quản lý doanh nghiệp, cơ chế chính
sách phát triển doanh nghiệp triên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian qua.
- Đề xuất giải pháp đổi mới quản lý Nhà nước đối với doanh sau đăng
ký thành lập trên địa bàn TP Đà Nẵng trong những năm đến.
* Câu hỏi nghiên cứu
Để phân tích chính xác về thực trạng phát triển doanh nghiệp trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng, đề tài cần trả lời các câu hỏi sau :
- Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân là gì?
- Vai trò của doanh nghiệp đối với sự phát triển nền kinh tế?
- Thực trạng của việc quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp trong
thời gian qua?
- Để quản lý doanh nghiệp một cách hiệu quả cần có những giải pháp nào?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp tư nhân trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng đã đăng ký kinh doanh từ năm 2006-2011.
b. Phạm vi nghiên cứu
3
- Về nội dung : Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sự quản lý của Nhà nước
đối với các doanh nghiệp thông qua số liệu, văn bản về việc thành lập doanh
nghiệp trong thời gian từ năm 2006-2011.
- Về mặt không gian : Đề tài tập trung nghiên cứu việc phát triển doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Về mặt thời gian : Các giải pháp, đề xuất trong luận văn có ý nghĩa áp
dụng đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp: đề tài tiến hành thu thập số
liệu từ các doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh từ năm 2006-2011 để tìm
hiểu những rào cản đã cản trở tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Từ đó có
những kiến nghị cụ thể nhằm củng cố tình hình hoạt động của các doanh
nghiệp sau đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở lý luận về phát triển doanh nghiệp, nội dung nghiên cứu của
đề tài góp phần làm rõ thực trạng quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng . Đồng thời làm cơ sở cho các cơ quan tham
mưu của thành phố nghiên cứu, tham khảo, đề xuất cho lãnh đạo thành phố
những giải pháp, cơ chế chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp
ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố, góp phần phát triển kinh tế - xã hội,
khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh
tế, kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọt hoạt động kinh doanh theo quy định của
pháp luật.
5. Bố cục của đề tài : Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo luận
văn có các chương như sau :
4
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐÊ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TP ĐÀ NẴNG MỘT SỐ GIẢI
PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
Chương 3.CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG
6. Tổng quan tài liệu
Trong những năm qua, doanh nghiệp không ngừng lớn mạnh cả về mặt
số lượng, chất lượng và đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh
tế xã hội của thành phố. GDP của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng lớn
trong GDP của nền kinh tế, thu ngân sách và giá trị kim ngạch xuất khẩu của
doanh nghiệp không ngừng gia tăng…Bên cạnh đó, doanh nghiệp đã thu hút
và giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động lớn của thành phố (lao
động mới hàng năm, số lượng lao động dư thừa do sắp xếp lại doanh nghiệp
nhà nước hay cải cách hành chính…), trong đó có nhiều lao động kỹ thuật có
trình độ tay nghề cao… Chính vì thế, thời gian qua đã có nhiều công trình
nghiên cứu, nhiều luận văn đề cập đến vấn đề này, có thể lược khảo một số
công trình như :
Dự án “Giám sát, đánh giá tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ theo cơ cấu ngành và lãnh thổ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” do
Đồng Thị Bích Chính, Phó Giám đốc - Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Đà Nẵng
chủ nhiệm.
Nội dung của đề tài tập trung đánh giá, phân tích thực trạng tình hình sản
xuất và kinh doanh của DNVVN theo cơ cấu ngành và quận huyện, thực trạng
về công tác cải cách thủ tục hành chính, tổng hợp những thuận lợi và khó
khăn trong sản xuất kinh doanh của các DNVVN trên địa bàn thành phố. Bên
cạnh đó, nếu đánh giá đầy đủ, đúng thực trạng tình hình doanh nghiệp theo
ngành nghề, địa bàn quận, huyện, sẽ góp phần quan trọng để triển khai
5
thực thành công kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Đồng thời,
đây còn là cơ sở tiền đề để thành phố định hướng được những chương trình và
giải pháp cơ bản nhằm huy động và phát huy mọi nguồn lực của thành phố,
cũng như kêu gọi các nhà tài trợ, tổ chức quốc tế tăng cường hoạt động trợ
giúp phát triển DNNVV, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và
nền kinh tế. Từ đó rút ra những nhận định tổng quát về tình hình phát triển,
sản xuất kinh doanh và môi trường đầu tư, cơ chế chính sách phát triển
DNVVN trong thời gian qua đồng thời đề xuất giải pháp phát triển DNVVN
trên địa bàn TP Đà Nẵng trong những năm đến.
Báo cáo khoa học: “Đánh giá tình hình phát triển kinh doanh của
doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” của Viện nghiên
cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng.
Báo cáo tập trung vào 3 nội dung cơ bản. Nội dung thứ nhất là đánh
giá tình hình kinh doanh của DNNVV tại thành phố Đà Nẵng trong bối cảnh
khó khăn qua các chỉ tiêu: chi phí, giá thành sản phẩm, và sản lượng; thị
trường tiêu thụ (nội địa và xuất khẩu); thị trường vốn. Nội dung thứ hai là
tổng hợp các ý kiến phản hồi của DNNVV về môi trường kinh doanh, tác
động của các chính sách kinh tế của chính phủ cũng như của chính quyền
thành phố Đà Nẵng đến hoạt động của các Doanh nghiệp. Qua đó, bài viết
trình bày một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển DNNVV tại thành
phố Đà Nẵng.
Đề tài khoa học cấp bộ "Đổi mới quản lý nhà nước đối với các loại
hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo hướng không phân biệt thành phần kinh
tế". Chủ nhiệm đề tài: T.S Trần Tiến Cường - Trưởng ban Ban Nghiên cứu cải
cách và phát triển doanh nghiệp
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp theo hướng thống nhất không phân biệt thành
6
phần kinh tế; xác định các nội dung chính của quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp và kiến nghị các giải pháp giúp hình thành nội dung và cơ chế quản lý
nhà nước chung thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp. Đề tài đi sâu phân
tích mặt được và những tồn tại, hạn chế nhìn từ góc độ quản lý thống nhất và
không phân biệt về khung pháp luật, bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp, tách bạch chức năng và bộ máy quản lý của chủ sở hữu, quản lý các
lĩnh vực liên quan đến vòng đời của doanh nghiệp (thành lập, đăng ký kinh
doanh, gia nhập thị trường, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu
của doanh nghiệp, về cơ chế, chính sách của Nhà nước...). Đề xuất 6 nhóm
giải pháp (gồm các nội dung quản lý nhà nước cần thể chế hoá; hoàn thiện
khung khổ pháp luật; bảo đảm hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước; giải
pháp về cơ chế, chính sách; tách bạch quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở
hữu; đổi mới bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp).
Tóm lại, các công trình đã nghiên cứu về quản lý Nhà nước đối với các
doanh nghiệp ở các góc độ khác nhau với những phương pháp khác nhau, tập
trung giám sát, đánh giá tình hình phát triển doanh nghiệp, phân tích các nhân
tố khó khăn qua các chỉ tiêu: chi phí, giá thành sản phẩm, và sản lượng; thị
trường tiêu thụ (nội địa và xuất khẩu); thị trường vốn. Đến nay, chưa có một
nghiên cứu nào phân tích các rào cản và đổi mới cách quản lý Nhà nước để
củng cố tình hình hoạt động và duy trì doanh nghiệp phát triển, hoàn thiện cơ
chế chính sách, cải thiện môi trường kinh doanh tạo thuận lợi cho các doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Trong luận văn này, tác giả đã kế
thừa những thành quả đã nghiên cứu của các công trình trên về mặt cơ sở lý
luận, từ đó vận dụng phương pháp phân tích kết hợp với điều tra khảo sát thực
tế để đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm đề xuất các giải pháp quản lý Nhà
nước đối với doanh nghiệp.
7
Một nghiên cứu khác về kinh tế tư nhân với đề tài : “Một số vấn đề cơ
bản về phát triển khu vực tư nhân với tư cách là động lực cơ bản của mô hình
tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011-2020” do TS. Vũ Hùng Cường làm
chủ nhiệm, Viện Kinh tế Việt Nam là cơ quan chủ trì thực hiện.
Nghiên cứu tập trung rà soát lại các quan điểm và chính sách liên quan
đến phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đánh giá thực trạng phát triển của khu
vực kinh tế tư nhân và đóng góp của khu vực này đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010, từ đó đề xuất một số khuyến
nghị, giải pháp nhằm hạn chế và xóa bỏ những “rào cản”, “trở ngại” phát triển
để khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực cơ bản của mô hình tăng trưởng
kinh tế mới của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
Nội dung nghiên cứu nêu rõ xu thế phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế hiện đại; đi sâu phân tích đánh giá thực trạng phát triển
của doanh nghiệp khu vực tư nhân, đánh giá vai trò đóng góp của khu vực
kinh tế tư nhân trong phép so sánh giữa 3 khu vực kinh tế, qua đó tìm hiểu
bản chất và chất lượng phát triển của doanh nghiệp khu vực tư nhân trong
nước và khu vực FDI, từ đó rút ra những yếu kém, tồn tại của các doanh
nghiệp khu vực kinh tế tư nhân làm hạn chế vai trò động lực của khu vực này
trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua; tiếp đến
đề xuất những quan điểm, định hướng và đề xuất giải pháp phát triển khu vực
kinh tế tư nhân trở thành động lực cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế
mới giai đoạn 2011-2020. Làm rõ yêu cầu đòi hỏi đổi mới mô hình tăng
trưởng trong bối cảnh mới, đưa ra một số khuyến nghị chính sách để khu vực
kinh tế tư nhân phát huy vai trò là động lực cơ bản trong mô hình tăng trưởng
kinh tế mới giai đoạn 2011-2020.
Đề án “Đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị
trường”. Mục tiêu của Đề án nhằm góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị
8
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện cho các loại hình doanh
nghiệp tự chủ hoạt động theo thể chế kinh tế thị trường; thúc đẩy sự phát triển
và nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp Việt Nam.
Theo Đề án đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị
trường, cơ chế công bố thông tin về quản trị doanh nghiệp cần tiếp tục được
hoàn thiện. Trong đó, việc tổ chức xây dựng và công bố báo cáo thường niên
về hoạt động đầu tư kinh doanh của chủ sở hữu nhà nước bao gồm danh mục
các doanh nghiệp có vốn nhà nước tại thời điểm 31/12 hàng năm, thực trạng
và hiệu quả đầu tư, thực trạng thực hiện chức năng chủ sở hữu, cổ đông nhà
nước tại các doanh nghiệp,...
Một trong những giải pháp chủ yếu của Đề án này đó là việc đổi mới
công tác quản lý nhà nước hỗ trợ cải thiện quản trị doanh nghiệp. Đồng thời,
phân định rõ chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và chức năng
cung cấp dịch vụ công trong các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và
địa phương. Triển khai việc tách bạch bộ máy, nhân sự thực hiện nhiệm vụ
cung cấp dịch vụ công cho doanh nghiệp để tiến tới hình thành các đơn vị sự
nghiệp, dịch vụ tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Nâng cao tính chuyên nghiệp của
các nhà đầu tư, các chủ sở hữu, trước hết là chủ sở hữu nhà nước. Tách chức
năng chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý hành chính nhà nước của
các cơ quan nhà nước. Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất đổi mới mô hình tổ chức
thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước theo thông lệ kinh tế thị trường phù hợp
với đặc thù phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta trên nguyên tắc xác định rõ cơ
quan đầu mối thực hiện các quyền chủ sở hữu nhà nước và không thực hiện
chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với các doanh nghiệp.
9
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐÊ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1.1 KHÁI QUÁT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1.1.1 Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp tư nhân
a. Khái niệm doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ
sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Và “Kinh doanh là việc
thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lời”. (Theo Luật Doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 5, khoá X ngày 12/6/1999
và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 tại
kỳ họp thứ 8, khoá XI). [4, tr.13]
b. Vai trò của doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là chủ thể và là tế bào của nền kinh tế nên nó có
vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể:
- Doanh nghiệp tư nhân là nơi trực tiếp tạo ra sản phẩm cho xã hội (bao
gồm hàng hoá, dịch vụ và tiện nghi xã hội), đáp ứng cho nhu cầu của con người
trong xã hội.
- Khai thác và huy động tối đa nguồn lực trong nhân dân để đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập trong dân
cư.
10
- Giải quyết nhiều việc làm cho xã hội, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp,
xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, hạn chế sự di dân vào các đô
thị (đặc biệt là doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân).
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn
về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Doanh nghiệp phát triển theo định hướng của Nhà nước sẽ đóng góp tích
cực vào sự nỗ lực phân bổ nguồn lực kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo
quy hoạch phát triển ngành, vùng lãnh thổ. Bằng đòn bẩy kinh tế, Nhà nước
khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào các vùng, các ngành trọng
điểm, giảm bớt khoảng cách chênh lệch phát triển giữa các khu vực dân cư
khác nhau, phát triển các ngành kinh tế có thế mạnh.
- Doanh nghiệp tư nhân phát triển sẽ tạo ra giá trị gia tăng, nộp thuế
nuôi dưỡng bộ máy nhà nước.
- Doanh nghiệp tư nhân phát triển sẽ góp phần hình thành một đội ngũ
các nhà doanh nghiệp, doanh nhân năng động, sáng tạo, làm việc có hiệu
quả. Qua đó, sáng lọc, tiến cử những doanh nhân có đức, có tài vào những vị
trí lãnh đạo ở các cấp, các ngành để đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp đổi
mới đất nước.
c. Các loại hình doanh nghiệp tư nhân
Theo Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005,
hiện nay ở Việt nam có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau như: Doanh
nghiệp tư nhân, Công ty TNHH có hai thành viên trở lên, Công ty TNHH một
thành viên, Công ty cổ phần, Công ty Hợp danh. Mỗi loại hình doanh nghiệp
có đặc trưng riêng có khả năng đem lại cho chủ sở hữu những lợi thế và
những hạn chế khác nhau. Chính vì vậy việc lựa chọn được một hình thức
doanh nghiệp phù hợp với tính chất kinh doanh, quy mô ngành nghề kinh
11
doanh và khả năng của người bỏ vốn thành lập là vô cùng quan trọng, có tác
động tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp về sau.
- Doanh nghiệp tư nhân: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một
cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi
hoạt động của doanh nghiệp. Chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp tư nhân
là một cá nhân. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Chủ
doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau
khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của
pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác
quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm
Giám đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu
trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do không có tư
cách pháp nhân nên mức độ rủi ro của chủ doanh nghiệp tư nhân cao, chủ
doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và
của chủ doanh nghiệp chứ không giới hạn số vốn mà chủ doanh nghiệp đã đầu
tư vào doanh nghiệp. Hình thức doanh nghiệp tư nhân thích hợp với việc kinh
doanh ở quy mô nhỏ. [13, tr. 132-134]
- Công ty hợp danh: Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
Phải có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh, có thể
có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ
chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân và không được phát hành bất
kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn. Thành viên hợp danh có quyền
quản lý công ty; tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty; cùng
12
liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn có
quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ được quy định tại Điều lệ công ty; không
được tham gia quản lý công ty và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty.
Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề
quản lý công ty. Ưu điểm của công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân
của nhiều người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành
viên hợp danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn
hàng, đối tác kinh doanh. Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới
chịu trách nhiệm vô hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất
cao. [13, tr. 121-132]
- Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên: là doanh
nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ
tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào
doanh nghiệp. Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng
thành viên tối thiểu là hai và tối đa không vượt quá năm mươi. Công ty trách
nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn không được
quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Công ty trách nhiệm hữu hạn có
từ hai thành viên trở lên phải có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng
thành viên, Giám đốc. Công ty trách nhiệm hữu hạn có trên mười một thành
viên phải có Ban kiểm soát.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở
Việt nam hiện nay. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn đem lại cho nhà đầu tư nhiều lợi thế như: (i) do có tư cách pháp nhân
nên các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty
trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn; (ii)
số lượng thành viên công ty trách nhiệm không nhiều và các thành viên
13
thường là người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty
không quá phức tạp; (iii) Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt
chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn
chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty. Tuy nhiên, hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn cũng có những hạn chế nhất định như: (i) do chế độ trách
nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước đối tác, bạn hàng cũng phần nào
bị ảnh hưởng; (ii) công ty trách nhiệm hữu hạn chịu sự điều chỉnh chặt chẽ
của pháp luật hơn là doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh; (iii) việc
huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn bị hạn chế do không có quyền
phát hành cổ phiếu. [13, tr. 30-54]
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: là Công ty do một tổ
chức hoặc cá nhân làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công
ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ
ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên được phát hành trái phiếu nhưng không được quyền phát
hành cổ phần. Công ty TNHH một thành viên không được giảm vốn điều lệ
và chỉ có thể tăng vốn điều lệ bằng việc chủ sở hữu công ty đầu tư thêm hoặc
huy động thêm vốn góp của người khác (khi đó sẽ chuyển thành công ty
TNHH hai thành viên trở lên). Chủ sở hữu có thể trực tiếp điều hành với vai
trò là Chủ tịch công ty kiêm giám đốc, Tổng Giám đốc hoặc thuê Giám đốc.
Chủ sở hữu không có quyền bán hay cho thuê công ty mà chỉ có thể chuyển
nhượng phần vốn góp của mình trong công ty cho tổ chức, cá nhân khác. [13,
tr. 54-66]
- Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: (i) Vốn
điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; (ii) Cổ đông chỉ
chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
14
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; (iii) Cổ đông có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp cổ đông sở
hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết; (iv) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số
lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ
phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo
quy định của pháp luật về chứng khoán. Công ty cổ phần phải có Đại hội
đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công
ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có Ban kiểm soát. Lợi thế của công
ty cổ phần là: (i) chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu
hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao;
(ii) khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các lịch
vực, ngành nghề; (ii) cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo
điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty; (iv) khả năng huy động vốn
của công ty cổ phần rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng,
đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần; (v) việc chuyển nhượng vốn
trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được
tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có
quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần. Bên cạnh những lợi thế nêu trên,
loại hình công ty cổ phần cũng có những hạn chế nhất định như: (i) việc quản
lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể
rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân
hóa thành các nhóm cổ đông đối kháng nhau về lợi ích. [13, tr. 66-121]
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân
Đặc điểm nổi bậc của các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam là ít kinh
nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh; chưa tạo được tiếng tăm trên
15
thương trường do đó khả năng thu thập thông tin để tiếp cận nguồn nguyên
liệu đầu vào cũng như thị trường đầu ra bị hạn chế; thiếu trầm trọng các
nguồn lực cần thiết như: vốn, nguồn nhân lực, thiết bị công nghệ, cách thức
quản trị doanh nghiệp. Do vậy, hiệu quả tất yếu là năng suất lao động của các
doanh nghiệp này rất thấp trong khi chi phí kinh doanh cao dẫn đến năng lực
cạnh tranh sẽ bị hạn chế. Cụ thể như sau:
- Thứ nhất, vốn trong các doanh nghiệp tư nhân xét về quyền sở hữu đều
là vốn tự có hoặc đi vay của cá nhân hoặc nhóm cá nhân bất kể doanh nghiệp
tư nhân đó hoạt động dưới hình thức nào Công ty TNHH, Công ty hợp danh,
Công ty cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân. Tại các nước xã hội chủ nghĩa
như ở nước ta, nhìn chung các doanh nghiệp tư nhân đều có khả năng tài
chính hạn hẹp, chưa phát huy hết thế mạnh, hoạt động mang tính nhỏ lẻ, sự
vụ, thiếu những định hướng chiến lược sản xuất kinh doanh lâu dài ổn định,
kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, thương mại dịch vụ,
hàng thủ công. Sau đó là trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu, đây là một trong
những thiệt thòi của doanh nghiệp tư nhân so với doanh nghiệp nhà nước.
Tiếp theo phải nói đến trình độ quản lý còn nhiều yếu kém, bất cập trong khu
vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân thường có kiến thức và khả
năng kinh doanh rất hạn chế, những hiểu biết về khoa học kinh tế hay nghiệp
vụ kinh doanh rất sơ sài, bên cạnh đó là nhận thức và kiến thức về pháp luật,
thông tin thị trường ngay trong nước chứ chưa nói đến quốc tế còn nhiều thiếu
sót và yếu kém.
- Đặc điểm thứ hai cần nhắc đến ở đây là do doanh nghiệp tư nhân là
thuộc sở hữu tư nhân, không phải sở hữu nhà nước, quyền sở hữu này được
pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Cá nhân hay nhóm cá nhân được quyền tổ
chức hoạt động cho doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình, và thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ, trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp theo những gì pháp luật
16
quy định. Cũng chính vì thế mà doanh nghiệp tư nhân không chịu sự điều tiết
một cách trực tiếp theo cơ chế mệnh lệnh hành chính của nhà nước. Nhà nước
không thể can thiệp quá trực tiếp hay thô bạo đến quá trình vận hành và tổ
chức hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân. Điều này không giống với các
DNNN, và càng khác biệt rõ rệt với những gì mà cơ chế cũ đã thể hiện.
Nhưng như vậy không có nghĩa rằng nhà nước không có vai trò gì đối với sự
phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Ngược lại, nhà nước ảnh hưởng sâu xắc
đến sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân trên mọi phương diện thông
qua các chính sách, định hướng và đường lối chỉ đạo, thông qua hệ thống
pháp luật mà cơ chế quản lý tài chính cũng là một bộ phận trong đó. Đây cũng
chính là đặc điểm cần hết sức lưu ý khi nghiên cứu để thiết lập một cơ chế
quản lý tài chính doanh nghiệp.
1.2 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DNTN
1.2.1 Khái niệm về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân là sự tác động có chủ
đích, có tổ chức và bằng pháp quyền nhà nước lên các doanh nghiệp và vì
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.2.2 Nội dung của quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân a.
Hoạch định chiến lược và tạo môi trường pháp lý
Chính phủ các nước phát triển và đang phát triển đều xác định vai trò
quan trọng, lâu dài cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế và công tác xúc
tiến, phát triển doanh nghiệp được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
trong chính sách phát triển kinh tế quốc gia. Nó sẽ là cơ sở để vạch ra các
chính sách quản lý kinh tế và cả cơ cấu nhiệm vụ của bộ máy quản lý. Đây là
chức năng riêng biệt của nhà nước và nó vượt ra khỏi tầm với của các doanh
nghiệp. Việc hoạch định chiến lược nhằm vạch ra các hướng ưu tiên trong
phát triển các ngành mũi nhọn cũng như các ngành trọng điểm. Căn cứ để
17
hoạch định chiến lược bao gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài tác động
đến phát triển nền kinh tế.
Hệ thống các quy hoạch, kế hoạch phát triển doanh nghiệp. Đây là
những tư tưởng chỉ đạo, các mục tiêu, chỉ tiêu, các mô hình, biện pháp ngắn
hạn và dài hạn để định hướng cho sự phát triển của doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng theo mục tiêu chung của phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy
xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển doanh nghiệp là một
nội dung quan trọng của công tác quản lý Nhà nước. Thông qua các quy
hoạch, kế hoạch phát triển doanh nghiệp để khuyến khích, trợ giúp phát triển
các doanh nghiệp được công khai, minh bạch, giúp các doanh nghiệp phát huy
hiệu quả năng lực của mình trong hoạt động đầu tư và phát triển kinh doanh.
[2, tr.15-30]
Quản lý bằng pháp luật dần thay thế quản lý nhà nước bằng các mệnh
lệnh và quyết định hành chính của cơ chế cũ. Theo đó, pháp lý là công cụ
quản lý chủ yếu khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp. Cho đến nay, hệ thống pháp luật về tổ chức quản lý doanh nghiệp đã
tương đối đầy đủ và tạo lập được khung quản trị doanh nghiệp cho các loại
hình doanh nghiệp khác nhau. Các văn bản pháp luật về doanh nghiệp đã có
sự bổ sung cho nhau điều chỉnh toàn bộ các doanh nghiệp thuộc các hình thức
sở hữu khác nhau, các loại hình tổ chức khác nhau.
Khi xây dựng và ban hành mục tiêu cơ bản của hệ thống pháp luật
doanh nghiệp đều hướng tới xây dựng thể chế kinh tế thị trường trong đó mọi
loại hình doanh nghiệp được đảm bảo quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp và
bình đẳng trước pháp luật, huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường hiệu lực quản
lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy
18
hệ thống pháp luật về các loại hình doanh nghiệp đã góp phần huy động vốn,
lao động và chất xám của mọi thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất, kinh
doanh tạo nên nhiều của cải và dịch vụ cho xã hội.
- Đối với Trung ương: Quốc hội ban hành và sửa đổi các luật liên quan
đến hoạt động của doanh nghiệp, Tòa án nhân dân và Viện kiểm soát nhân
dân các cấp xét xử và kiểm soát việc tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp
cũng như cơ quan quản lý nhà nước. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trực
tiếp ban hành nghị định, quyết định và các chính sách cụ thể liên quan đến
doanh nghiệp, các biện pháp chỉ đạo và kiểm tra việc thi hành Hiến pháp,
pháp luật, các quyết định của Chính phủ trong các doanh nghiệp. Bộ và các cơ
quan ngang Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
trong phạm vi ngành, lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình, ban hành
các văn bản hướng dẫn quy phạm pháp luật theo thẩm quyền. [1, tr. 13]
- Đối với địa phương: UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp ở địa phương, tổ chức thực hiện quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp theo ngành, lĩnh vực trên địa bàn theo thẩm quyền. Ban
hành các văn bản hướng dẫn, các quy định đối với các ngành nghề kinh doanh
có điều kiện để phù hợp với địa phương . Như vậy, trong lĩnh vực quản lý
hành chính, UBND các cấp là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước
có quan hệ trực tiếp hàng ngày đối với mọi loại hình doanh nghiệp. [1,14]
Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành đã góp phần
quan trọng trong việc thiết lập một khung pháp lý mới trong quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp quy định một trong những nội dung
chính của quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp là “ban hành, phổ biến và
tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp”. Đây là một nội
dung rất quan trọng của quản lý Nhà nước vì thực tiễn cả ở trong và ngoài
nước đã chứng minh rằng việc xây dựng chính sách đúng đắn, kịp thời, có sự
19
chỉ đạo thống nhất từ trung ương đến địa phương, có sự phối hợp chặt chẽ
trong tổ chức thực hiện của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tạo môi
trường và điều kiện kinh doanh thuận lợi là đóng góp quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và góp phần phát triển KTXH nói
chung. Việc Nhà nước có trách nhiệm không ngừng hoàn thiện các quy phạm
pháp luật kinh doanh sao cho cởi mở, minh bạch và có thể dự báo sẽ vừa có
tác dụng định hướng và quản lý thống nhất doanh nghiệp, vừa tạo lòng tin và
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hơn thế nữa, Luật doanh nghiệp còn có điều khoản ghi rõ trách nhiệm
quản lý Nhà nước bao gồm cả “thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh
nghiệp theo định hướng và mục tiêu của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch
phát triển KTXH”. Trong quá trình triển khai thực hiện Luật, các cơ quan
quản lý tổng hợp và các cơ quan quản lý kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành,
tương ứng với chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm giúp doanh
nghiệp hoạt động và phát triển phù hợp với phương hướng phát triển chung
của đất nước. Nội dung này được hoan nghênh hơn cả đối với doanh nghiệp,
song việc xác định các nội dung, phương thức ưu đãi cần được cụ thể hóa và
mang tính thị trường hơn.
b. Khuyến khích, hỗ trợ tạo môi trường hoạt động cho các doanh
nghiệp
- Đối với cải cách hành chính
Cải cách hành chính trước hết để cải thiện môi trường kinh doanh, tạo
thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Cải cách hành chính phải tiến hành
các nội dung: cải cách thủ tục hành chính, làm trong sạch đội ngũ cán bộ,
công chức, đẩy mạnh việc giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện của doanh
nghiệp, nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật. Cải cách hành chính hướng tới
xây dựng một nền hành chính phục vụ chuyên nghiệp, tạo thuận lợi cho doanh
20
nghiệp, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, góp phần quan trọng và phát triển
kinh tế xã hội.
Việc thực hiện quản lý sự thành lập và cấp giấy phép kinh doanh cho
các doanh nghiệp là sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với mọi hoạt động của
doanh nghiệp đó. Thông qua việc cấp giấy phép kinh doanh, nhà nước có thể
quy định và điều chỉnh những ngành nghề, quy mô, hình thức hoạt động mà
doanh nghiệp có thể hoạt động. Khuyến khích những ngành nghề có lợi cho
sự phát triển chung của đất nước, hay hạn chế những ngành nghề chưa thực sự
phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước. Do đó, những quy định về cấp
giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp cần được quy định thành pháp luật,
trong đó có những điều khoản nhất định về quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp khi đã được pháp luật thừa nhận. Vấn đề đáng lưu ý khi xây dựng một
cơ chế cho việc thành lập doanh nghiệp là tình hình phát triển của khu vực
kinh tế đó, nhu cầu của đất nước, triển vọng phát triển và trình độ quản lý hiện
tại của nhà nước đối với nền kinh tế.
Mặc dù các thủ tục thành lập doanh nghiệp cũng như thủ tục đăng ký
kinh doanh đã được đơn giản hoá nhưng không phải mọi chuyện đã trở nên dễ
dàng và thuận lợi hơn. Thủ tục gia nhập thị trường ở nước ta vẫn còn phức tạp
và tốn kém về cả thời gian và chi phí cho sự phối hợp chưa hiệu quả giữa các
cơ quan chức năng liên quan. Ở Việt Nam, dù đã cải thiện nhiều nhưng hiện
trung bình doanh nghiệp vẫn mất 10 ngày mới hoàn thành đăng ký kinh doanh
với chi phí khoảng 1,5 triệu đồng. Nếu tính cả chi phí đăng báo trên 03 số liên
tiếp với chi phí 300.000 đồng thì tổng các chi phí gia nhập thị trường mất
khoảng 2 triệu đồng (chưa kế chi phí nộp thuế môn bài). Nhưng đó mới chỉ là
thời gian dành cho các thủ tục ĐKKD. Đối với các doanh nghiệp làm dịch vụ,
thương mại thì cần có thêm 30 ngày chuẩn bị nữa mới có thể đi vào hoạt động
kinh doanh được. Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì hành trình còn gian
- Xem thêm -