Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường đại học sư phạm thể ...

Tài liệu Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường đại học sư phạm thể dục thể thao hà nội

.PDF
93
181
127

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ XUÂN ĐỨC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THỂ DỤC THỂ THAO HÀ NỘI Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục Mã số : 60.14.01.14 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Trương Xuân Cừ HÀ NỘI, 2017 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác. Tác giả luậ n vă n NGÔ XUÂN ĐỨC MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THỂ DỤC THỂ THAO 1.1 Các khái niệm công cụ của đề tài. 1.2 Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học sư phạm thể dục thể thao. 1.3 Yêu cầu của quản lý đối với hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường Đại học Sư phạmthể dục thể thao 1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học sư phạm thể dục thể thao Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THỂ DỤC THỂ THAO HÀ NỘI 2.1 Sơ lược về trường Đại học Sư phạm thể dục thể thao Hà Nội 2.2 Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội 2.3 Thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội 2.4 Đánh giá chung về thực trạng công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội Chương 3. BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THỂ DỤC THỂ THAO HÀ NỘI 3.1 Các nguyên tắc xây dựng biện pháp 3.2 Các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học sư phạm thể dục thể thao Hà Nội 3.3 Khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ TÀI LIỆU THAM KHẢO 11 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 11 21 28 31 34 34 37 53 58 60 60 62 72 77 BGDĐT : Bộ Giáo dục và Đào tạo BTC : Bộ Tài chính BKHCN : Bộ Khoa học Công nghệ CBGV : Cán bộ giảng viên CBQL : Cán bộ quản lý CNTT : Công nghệ thông tin CSVC : Cơ sở vật chất ĐHSP : Đại học Sư phạm GDTC : Giáo dục thể chất GDQP : Giáo dục Quốc phòng GV : Giáo viên KH : Khoa học KHCN : Khoa học công nghệ KH&CN : Khoa học và Công nghệ KT-XH : Kinh tế xã hội NC : Nghiên cứu NCKH : Nghiên cứu khoa học NQ-CP : Nghị quyết Chính phủ TCCB : Tổ chức cán bộ TDTT : Thể dục Thể thao TTLT : Thông tư liên tịch DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ Bảng 2.1 Nhận thức của cán bộ giảng viên, cán bộ quản lý của Đại học Sư 38 phạm TDTT Hà Nội về hoạt động nghiên cứu khoa học Bảng 2.2 Động cơ tham gia NCKH của GV Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội 39 Bảng 2.3 So sánh số lượng đề tài được triển khai với đề tài nghiệm thu 40 Bảng 2.4 Hướng nghiên cứu của các đề tài đã nghiệm thu và đang nghiên cứu 41 Bảng 2.5 Kết quả đánh giá xếp loại các công trình nghiên cứu khoa học 42 Bảng 2.6 Thống kê tình hình nghiên cứu khoa học trong trường 43 Bảng 2.7 Thuân lợi và khó khăn đối với việc thực hiện hoạt động NCKH của 45 GV Bảng 2.8 Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác NCKH của giảng viên trường Đại 47 học Sư phạm TDTT Hà Nội Bảng 2.9 Tổng hợp CBGV trong 3 năm gần đây của Trường Đại học Sư phạm 49 TDTT Hà Nội Bảng 2.10 Phân tích độ tuổi, giới tính của CBGV trường Đại học Sư phạm 49 TDTT Hà Nội Bảng 2.11 Bảng thống kê kinh phí chi cho hoạt động KHCN của trường 51 Bảng 2.12 Khảo sát thực trạng nhận thức của cán bộ quản lývề công tác quản lý 54 hoạt động NCKH của giảng viên Bảng 2.13 Khảo sát thực trạng mức độ thực hiện các biện pháp 56 quản lý hoạt động NCKH của giảng viên Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội Bảng 2.14 Khảo sát thực trạng mức độ thực hiện quy trìnhquản lý hoạt động 57 NCKH của giảng viên Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội Bảng 3.1 Kết quả khảo sát giảng viên về “tính cần thiết” của các biện pháp 73 Bảng 3.2 Kết quả khảo sát giảng viên về tính cần thiết của các biện pháp 74 Sơ đồ 2.1 Sơ đồ tổ chức bộ máy trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội 36 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động nghiên cứu khoa học có vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Trong công tác đào tạo đại học ở nước ta hiện nay, nghiên cứu khoa học (NCKH) được xem là một trong những yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. NCKH có tầm quan trọng đặc biệt trong giáo dục đại học vì không những góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo ra những tri thức mới, sản phẩm mới phục vụ cho sự phát triển của nhân loại. Với tầm quan trọng như vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2, Ban Chấp hành TW khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu: "Các trường đại học phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống" [17]. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định “cùng với giáo dục đào tào, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.[1] Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển khoa học và công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức, góp phần tăng nhanh sản xuất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế trí thức, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”[15, Tr.2]. Như vậy, phát triển khoa học công nghệ phải là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi. Để khoa học, công nghệ đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, các nhà nghiên cứu, những người làm công tác khoa học, nhất là giảng viên tại các trường đại học phải là lực lượng nòng cốt trong việc nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. QĐ số 418/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (11/4/2012) về Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011- 2020 chỉ rõ: "Phát triển khoa học công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững. 1 Khoa học và công nghệ phải đóng vai trò chủ đạo để tạo bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [11]. Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập của nước ta hiện nay, để khẳng định được vai trò của NCKH, các trường đại học nói chung và Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội nói riêng luôn hướng tới mục tiêu "Mỗi trường đại học là một viện nghiên cứu". Bởi vì, nghiên cứu khoa học có tầm quan trọng đặc biệt trong giáo dục đại học và đó là con đường hiệu quả nhất để nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển năng lực sư phạm của mỗi người làm công tác giảng dạy và giáo dục. Trong những năm vừa qua, ngành giáo dục và nền khoa học công nghệ nước ta đã đạt được thành tích đáng kể là nhờ có những đóng góp không nhỏ từ hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ, giảng viên trong các trường đại học và cao đẳng nói chung. Một trong hai nhiệm vụ chính và quan trọng nhất đối với các trường đại học đó là: Đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đây là hai hoạt động có mối quan hệ hữu cơ, hai nhiệm vụ cơ bản chiến lược của mỗi nhà trường, trong đó việc đẩy mạnh giảng viên tích cực tham gia các hoạt động NCKH là một trong những biện pháp quan trọng - bắt buộc và cần thiết để hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng khắt khe của xã hội. Thực tiễn và lý luận đều chứng minh một cách rõ ràng rằng, NCKH và giảng dạy có mối quan hệ hữu cơ với nhau, gắn kết chặt chẽ với nhau và tương hỗ cho nhau. NCKH tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy ở trên lớp. Ngược lại, công tác giảng dạy phản ánh kết quả của hoạt động NCKH. Do vậy, có thể khẳng định rằng, cùng với hoạt động giảng dạy, NCKH là thước đo năng lực chuyên môn của giảng viên. Đối với giảng viên tại trường đại học, công tác giảng dạy luôn được coi trọng, là điều kiện cần và đủ đối với một giảng viên. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một nửa yêu cầu của hoạt động chuyên môn của người giảng viên tại trường đại học. Vì vậy, việc NCKH lâu nay luôn được các trường đề cao, chú trọng, đặt ra như một nhiệm vụ bắt buộc, thường xuyên và là một tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu để đánh giá khả năng toàn diện của giảng viên. Mặc dù vậy, trong thời gian qua, tại các 2 trường đại học, hoạt động NCKH của đội ngũ giảng viên vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức nếu như không nói là còn “đối phó”, chứa đựng nhiều hạn chế, bất cập, chưa ngang tầm với nhiệm vụ chuyên môn của giảng viên. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Hiện có 56.000 cán bộ giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng nhưng chỉ có khoảng 1.100 giảng viên (3%) tham gia nghiên cứu khoa học và rất ít giảng viên trẻ tham gia nghiên cứu”. Tất cả những điều này thực sự là tiếng chuông báo động về sự nhiệt huyết, mặn mà của giảng viên đối với các hoạt động NCKH. Để thích ứng hơn trong giai đoạn hội nhập và phát triển như hiện nay, việc tham gia vào những hoạt động NCKH sẽ có những lợi ích cơ bản như sau: NCKH giúp giảng viên có điều kiện đào sâu hơn, nắm bắt chặt chẽ hơn kiến thức chuyên môn mà mình đang trực tiếp giảng dạy, kịp thời điều chỉnh, bổ sung những nội dung kiến thức chưa chuẩn xác trong bài giảng của mình. Người giảng viên tham gia NCKH một mặt vừa củng cố lại kiến thức chuyên môn của mình mặt khác vừa có điều kiện mở rộng, hiểu biết nhiều hơn từ những kiến thức từ các chuyên ngành khác; quá trình tham gia NCKH sẽ góp phần phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, khả năng làm việc độc lập, trau dồi tri thức và các phương pháp nhận thức khoa học của giảng viên. Đồng thời hình thành ở giảng viên những phẩm chất của nhà nghiên cứu. Quá trình tham gia các hoạt động NCKH cũng đồng thời là quá trình giúp giảng viên tự “cập nhật” thông tin, kiến thức một cách thực sự hiệu quả. Hơn nữa, NCKH giúp cho giảng viên “bổ sung” thêm lượng kiến thức mới từ những nguồn khác nhau để đánh giá và hoàn thiện lại những kiến thức của chính bản thân mình. Thông qua việc NCKH, sẽ tăng thêm sự hiểu biết về ngành nghề, góp phần hình thành và bồi dưỡng tình cảm nghề nghiệp cho giảng viên. Thiết nghĩ, đây là điều cần thiết và quan trọng trong quá trình giảng dạy và hoạt động chuyên môn của giảng viên. Điều này sẽ giúp giảng viên có thể hòa nhập tốt hơn, chủ động hơn trong công việc của mình. Quá trình thực hiện các hoạt động NCKH là cơ hội tốt để giảng viên có môi trường, cơ hội bồi dưỡng năng lực NCKH. Đây cũng là cơ sở cần thiết để tiến hành đổi mới nội dung, phương pháp và 3 nâng cao chất lượng giảng dạy. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo; trong quá trình tham gia NCKH, nếu đạt kết quả tốt, sẽ là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao vị thế và uy tín của chính bản thân giảng viên, đồng thời khẳng định vị thế và uy tín của trường với xã hội. Vì, một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp hạng các trường đó chính là mảng NCKH của giảng viên, công nhân viên chức của trường; hoạt động NCKH là một lĩnh vực rất tốt để giảng viên tự khẳng định mình. Khó có thể nói rằng nếu một giảng viên được đánh giá là có năng lực chuyên môn tốt nhưng hàng năm lại không có công trình khoa học nào. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đối với một trường đại học, giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai hoạt động cơ bản gắn bó hữu cơ với nhau, có vai trò tác động qua lại và định chế lẫn nhau. Mục tiêu chung là nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, trong đó chất lượng giảng dạy phụ thuộc một cách quyết định vào chất lượng nghiên cứu, có nghiên cứu tốt mới có bài giảng có chất lượng, phong phú, hấp dẫn. Chính vì vậy hoạt động nghiên cứu khoa học từ lâu đã là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục, các giảng viên trong nước và thế giới. 2.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài Có rất nhiều tài liệu nghiên cứu, các kết quả nghiên cứu về các phạm trù, vấn đề liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học như quản lý, quản lý giáo dục, phương pháp luận nghiên cứu khoa học, phương pháp nghiên cứu trong tâm lý học, phương pháp nghiên cứu xã hội học, phương pháp nghiên cứu trong thể dục thể thao… Các tác giả K.Bexle, E. Delsen, Xlasinxki (1983) đã đề cao vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học trong sự phát triển của xã hội và chỉ ra những đặc điểm đặc thù của công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học so với quản lý các hoạt động khác. Trong đó, đáng lưu ý là việc cần xây dựng chính sách ưu tiên đặc biệt về điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ thỏa đáng để động viên các nhà khoa học toàn tâm, toàn ý cho việc nghiên cứu [24]. Đề cập đến lý thuyết quản lý khoa học một cách khoa học, tác giả K.V. Annitsep và các cộng sự khẳng định “Thành tựu quản lý trong khoa học phụ thuộc 4 vào vấn đề “Thỏa mãn những nhu cầu quyền lợi, động cơ của các nhóm cán bộ khoa học khác nhau, những phương pháp khách quan của việc cấp văn bằng, việc đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, sự kích thích nghề nghiệp trong khoa học và những đặc điểm cần thiết của người lãnh đạo tập thể khoa học”. 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Nhận thức về vai trò và tác dụng của hoạt động nghiên cứu khoa học và công tác quản lý hoạt động NCKH ở các trường đại học và cao đẳng, Nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp quy về công tác nghiên cứu khoa học và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học. Về lý luận đến nay đã có nhiều tác giả, nhà khoa học trong nước đã nghiên cứu và xuất bản các tài liệu, giáo trình hướng dẫn nghiên cứu khoa học như: Phạm Minh Hạc (1981), Vũ Cao Đàm (2003), Phạm Viết Vượng (2001), Nguyễn Hữu Minh (2016), Phan Thị Mai Hương (2013), với mục đích cung cấp cho các nhà nghiên cứu cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu khoa học để họ tổ chức, rèn luyện, thực hành, tập dượt nghiên cứu khoa học có hiệu quả [19], [14], [41], [29], [23]. Trước 1990, Viện nghiên cứu đại học và giáo dục chuyên nghiệp đã triển khai nghiên cứu "Tổ chức và quản lý nghiên cứu triển khai trong các trường đại học phục vụ sản xuất, đời sống và quốc phòng" do GS.PTS Lê Thạc Cán làm chủ nhiệm chương trình cấp nhà nước mã số 60A [8]. Năm 1991, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục thực hiện đề tài "Nghiên cứu những biện pháp để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ và lao động sản xuất trong nhà trường", mã số B91-38-14 do kỹ sư Vũ Tiến Thành làm chủ nhiệm [35]. Năm 1995, Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục chủ trì đề tài "Điều tra đánh giá thực trạng tiềm lực khoa học và công nghệ của các trường đại học và cao đẳng Việt Nam" do GS.TS Thân Đức Hiền làm chủ nhiệm. Kết quả nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở khâu điều tra nguồn lực khoa học và công nghệ của các trường đại học và cao đẳng tại thời điểm đó mà chưa đề cập đến giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ [20]. 5 Các đề tài trên đã đóng góp những lý luận và giải pháp của công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ của ngành Giáo dục - Đào tạo, gắn với đặc điểm tình hình trong giai đoạn đó. Những năm gần đây, vận dụng về khoa học quản lý nói chung vào quản lý giáo dục, các công trình nghiên cứu của các tác giả như: Hà Sĩ Hồ (1985), Nguyễn Thị Mỹ Lộc (1996), Đặng Quốc Bảo (2002), Phạm Viết Vượng (2008), Nguyễn Đức Trí (2003), Trần Kiểm (2004), Trần Mai Ước (2013), Võ Khánh Vinh (2016)… đã cung cấp nhiều vấn đề lý luận về quản lý giáo dục, quản lý nhà trường trong đó có nội dung quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, cao đẳng [21], [28], [1],[42], [38], [25], [44], [40]. Năm 1998, tác giả Ninh Đức Nhuận đã triển khai nghiên cứu đề tài "Một số giải pháp đổi mới công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ ở trường đại học trong giai đoạn mới". Đề tài đã đề xuất một số giải pháp đổi mới công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ ở hệ thống các trường đại học nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ cho các trường đại học trong giai đoạn đó [31]. Bên cạnh các công trình nghiên cứu về mặt lý luận, nhiều công trình nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn của các nhà khoa học, nhà giáo, nhà quản lý giáo dục đã được công bố dưới các hình thức báo cáo, tham luận, luận văn. Các công trình nghiên cứu đề cập đến hoạt động nghiên cứu khoa học và công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở giáo dục đại học như các tác giả: Bùi Thị Kim Phượng (2001); Trần Thị Ninh Giang (2005); Nguyễn Thị Kim Nhung (2005); Phạm Thị Tú Nga (2011); Huỳnh Trường Huy, Lương Trần Thanh Thảo, Nguyễn Đức Vinh (2015); … [33], [18], [32], [30], [22] Năm 2001, Bùi Thị Kim Phượng thực hiện nghiên cứu "Thực trạng và biện pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Bình" [33]. 6 Năm 2005, tác giả Nguyễn Thị Kim Nhung thực hiện Luận văn Thạc sĩ "Một số biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục của trường Cao đẳng Sư phạm Hưng Yên" [32]. Ngoài ra còn nhiều luận án, luận văn thạc sĩ quan tâm đến thực trạng và biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong nhà trường đã được nghiên cứu và bảo vệ thành công. Nhìn chung các tác giả đã đóng góp lý luận và hướng giải quyết nhiều vấn đề thực tiễn trong công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học và cao đẳng. Các tác giả đều đề cao ý nghĩa, vai trò của nghiên cứu khoa học đối với việc nâng cao chất lượng dạy học, đào tạo trong các nhà trường. Tuy nhiên, mỗi công trình tác giả chỉ giải quyết một vài vấn đề riêng lẻ hoặc có giá trị gắn với một nhà trường trong một giai đoạn nhất định. Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường Đại học Sư phạm thể dục thể thao nói chung và Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội nói riêng vẫn chưa có tác giả nào quan tâm đề cập đến. Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội là một trường đào tạo đặc thù được thành lập từ năm 1961 có nhiệm vụ đào tạo giáo viên giáo dục thể chất cho các cấp học, trường được nâng cấp lên đại học từ năm 2003. Sau hơn 10 năm được nâng cấp lên đại học công tác nghiên cứu khoa học của trường đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ, phong trào nghiên cứu khoa học trong giảng viên từng bước được cải thiện và phát triển mạnh mẽ. Năm học 2015-2016 nhà trường đã triển khai 02 đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ, 56 đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở (trong đó đã nghiệm thu 37 đề tài và đánh giá giai đoạn 20 đề tài), đây là một con số đáng ghi nhận đối với một trường đại học đơn ngành. Tuy nhiên, trên thực tế đó mới chỉ là đánh giá về mặt số lượng, công tác nghiên cứu khoa học vẫn chưa được các giảng viên quan tâm đúng mức, có nhiều giảng viên có tâm huyết với công tác nghiên cứu khoa học nhưng còn một bộ phận giảng viên trẻ còn chưa thực sự đầu tư nghiên cứu, tham gia theo hình thức “đối phó”, kết quả nghiên cứu hàm lượng khoa học không cao, tính ứng dụng của một số đề tài chưa thực sự có chất lượng. Từ sự phân tích nêu trên, nhằm phân tích những hạn chế và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của 7 giảng viên tại Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quảquản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học tại nhà trường. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học và cao đẳng. - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở Trường Đại học Sư phạm TDT Hà Nội. - Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội trong bối cảnh phát triển hiện nay và tiến hành đánh giá khảo nghiệm tính cấp thiết, tính khả thi của biện pháp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội. 4.2 Khách thể nghiên cứu: Hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội. 4.3 Phạm vi nghiên cứu: + Số lượng mẫu nghiên cứu: 140 giảng viên, 45 CBQL Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội. + Thời gian nghiên cứu được tiến hành từ tháng 6/2016 đến tháng 3/2017. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận: 8 Tiệp cận theo quá trình hoạt động nghiên cứu khoa học: gồm các bước chọn đề tài, thiết kế công cụ nghiên cứu, triển khai nghiên cứu, điều tra số liệu, xử lý số liệu, viết báo cáo, công bố kết quả. Tiếp cận hệ thống: tiếp cận toàn bộ các yếu tố chủ quan, khách quan nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên. 5.2 Phương pháp nghiên cứu: Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau đây: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết (phân tích, tổng hợp, khái quát hóa): phương pháp nghiên cứu lý thuyết được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài nhằm tổng hợp và phân tích các tài liệu, sách, bài báo khoa học, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, nghiên cứu các văn bản pháp quy về công tác quản lý khoa học và công nghệ để đưa ra những nhận định, kết luận có căn cứ, trong nghiên cứu và đánh giá tác động của các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động nghiên cứu khoa học từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ ở Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội. - Phương pháp phỏng vấn, tọa đàm: Là phương pháp nghiên cứu khoa học nhằm thu thập thông tin cũng như những ý kiến của các chuyên gia, giảng viên, giáo viên có kinh nghiệm trong công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học tại một số trường đại học khu vực Hà Nội. Đề tài tiến hành thu thập thông tin thông qua phiếu hỏi để tìm hiểu thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội. - Phương pháp điều tra xã hội học: Điều tra xã hội học được sử dụng nhằm xây dựng phiếu hỏi và tiến hành khảo sát hoạt động nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội. Các phiếu hỏi được xây dựng với các câu hỏi đóng và mở để có được các số liệu trung thực, khách quan. - Phương pháp chuyên gia: Sử dụng phương pháp chuyên gia (dưới hình thức lấy ý kiến chuyên gia bằng phiếu phỏng vấn trực tiếp hoặc bằng phiếu hỏi) về những vấn đề cụ thể. 9 - Phương pháp tham chiếu các kinh nghiệm, thực tiễn: Phương pháp tham chiếu các kinh nghiệm thực tiễn được sử dụng để tham khảo các kinh nghiệm về công tác quản lý khoa học và công nghệ tại một số trường đại học khu vực Hà Nội, đồng thời tham chiếu các kinh nghiệm thực tiễn đã có tại trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội. - Phương pháp toán học thống kê: Phương pháp này được sử dụng trong việc phân tích và xử lý các số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu của đề tài các số liệu thống kê được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tàihệ thống hoá các lý luận và thực tiễn về công tác tổ chức quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của trường đại học và đồng thời đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội. Kết quả này sẽ góp phần hoàn thiện lý luận về công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của trường đại học về lĩnh vực sư phạm thể dục thể thao. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở khoa học cho phòng Quản lý Khoa học Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội đề xuất một số biện pháp pháp hoàn thiện công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của trường. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cầu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học sư phạm thể dục thể thao. Chương 2: Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội. Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THỂ DỤC THỂ THAO 1.1. Các khái niệm công cụ của đề tài 1.1.1 Khoa học Theo UNESCO, khoa học là một tập hợp những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và tư duy về các quy luật khách quan, về sự tồn tại và phát triển của chúng trên cơ sở thực tiễn. Các lĩnh vực KH&CN bao gồm: Khoa học tự nhiên; Khoa học xã hội, Nhân văn; Khoa học kỹ thuật và công nghệ; Khoa học Nông nghiệp; Khoa học Y dược. Theo Luật khoa học và công nghệ của Việt nam (2000), khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy [27]. Đứng ở góc độ hoạt động, khoa học có thể được hiểu là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của loài người, giống lĩnh vực hoạt động văn hoá, nghệ thuật, khoa học, công nghệ... Mỗi loạt hình hoạt động có mục đích và phương thức riêng. Khoa học là một loại hình hoạt động có mục đích khám phá bản chất và các quy luật vận động của thế giới để ứng dụng chúng vào sản xuất và đời sống xã hội. Về thực chất, ở góc độ này, khoa học được hiểu là hoạt động nghiên cứu khoa học, là quá trình phát minh sáng tạo ra tri thức mới cho nhân loại. 1.1.2 Nghiên cứu khoa học Nghiên cứu khoa học: là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn [27]. Nghiên cứu khoa học, suy cho cùng, mang hai nội dung cơ bản sau: + Phát hiện quy luật vận động của thế giới khách quan (tự nhiên, xã hội, con người). + Sáng tạo các giải pháp nhằm biến đổi trạng thái của sự vật hoặc hiện tượng, cải tạo thế giới, tức tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người. 11 Bản chất nghiên cứu khoa học là các hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức có giá trị để sử dụng vào cải tạo thế giới. Chủ thể của nghiên cứu khoa học là các nhà khoa học với những phẩm chất trí tuệ và tài năng đặc biệt, được đào tạo chu đáo. Quá trình nghiên cứu được thực hiện trong một cơ quan nghiên cứu với một tập thể có tiềm lực mạnh, được tổ chức chặt chẽ, có chương trình chiến lược hoạt động. Sự sáng tạo khoa học bao giờ cũng được bắt đầu từ một ý tưởng của cá nhân và sau đó được sự hỗ trợ, hợp tác nghiên cứu của một tập thể, theo ý tưởng định hướng nghiên cứu của người đề xuất. Vì vậy, có thể nói: chủ thể nghiên cứu khoa học vừa là cá nhân, vừa là tập thể. Mục đích của nghiên cứu khoa học là tìm tòi, khám phá bản chất và các quy luật vận động của thế giới, tạo ra thông tin mới, nhằm ứng dụng chúng vào sản xuất vật chất hay tạo ra những giá trị tinh thần, để thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của con người. Nhiều nghiên cứu khoa học không chỉ là nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới, khoa học đích thực luôn vì cuộc sống con người. Phương pháp nghiên cứu khoa học là phương pháp nhận thức thế giới bao gồm những quan điểm tiếp cận, những quy trình, các thao tác cụ thể để tác động vào đối tượng để làm bộc lộ bản chất của đối tượng. Nghiên cứu khoa học còn phải sử dụng những công cụ đặc biệt, có tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe trong định tính và định lượng để thí nghiệm, thực nghiệm… đo lường và kiểm định sản phẩm sáng tạo. Sản phẩm của nghiên cứu khoa học là hệ thống thông tin mới về thế giới và những giải pháp cải tạo thế giới. Cho nên có thể nói khoa học luôn hướng tới cái mới. Nhiều ý tưởng khoa học độc đáo đi trước thời đại và có giá trị dẫn dắt sự phát triển của thực tiễn. Sản phẩm khoa học luôn được kế thừa, hòan thiện, bổ sung theo đà tiến bộ của xã hội loài người và ngày một tiệm cận tới chân lý khách quan. Mỗi lý thuyết khoa học được hình thành, phát triển hưng thịnh, rồi lạc hậu nhường chỗ cho cái mới, cái tiến bộ, cái có triển vọng hơn. Giá trị của nghiên cứu khoa học được quyết định bởi tính thông tin, tính ứng dụng và sự đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Thông 12 tin khoa học phải có tính khách quan, có độ tin cậy, có thể kiểm tra được bằng các phương pháp khác nhau. Quá trình nghiên cứu khoa học: quá trình nghiên cứu khoa học diễn ra phức tạp, luôn chứa đựng những mâu thuẫn, liên tục xuất hiện những xu hướng, các trường phái lý thuyết, các giả thuyêt, các dự báo khác nhau, thậm chí trái ngược nhau và kết cục cái nào phù hợp với hiện thực, đem lại lợi ích cho con người là cái chiến thắng. Khoa học là cách mạng với nghĩa đó. Nghiên cứu khoa học có chứa đựng những yếu tố mạo hiểm, bởi vì nghiên cứu khoa học không phải lúc nào cũng thành công. Sự thành công sẽ tạo ra giá trị mới cho nhân loại và có cả những thất bại rủi ro, đó là sự phải trả giá của nghiên cứu khoa học, nhưng chính sự thất bại đó cũng là một thông tin có ích để đồng nghiệp không lặp lại sai lầm tương tự. Việc lựa chọn loại hình nghiên cứu khoa học được quyết định bởi mục tiêu nghiên cứu và chủng loại sản phẩm thu được sau quá trình nghiên cứu. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu khoa học có thể rất khác nhau: hoặc là phát hiện quy luật, mô tả, giải thích nguyên nhân vận động của sự vật hoặc hiện tượng; hoặc là sáng tạo nguyên lý những giải pháp phục vụ cho các hoạt động xã hội khác nhau của con người. Chủng loại sản phẩm sẽ thu nhận được sau nghiên cứu: có thể là các phát hiện, phát kiến, phát minh, vv… cũng có thể là các giải pháp, bí quyết, sáng chế, v.v… Tùy thuộc mục tiêu nghiên cứu và sản phẩm thu nhận sau nghiên cứu,người ta chia ra những loại hình nghiên cứu khác nhau: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu dứng dụng hoặc triển khai. a) Nghiên cứu cơ bản: Nghiên cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu nhằm khám phá bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy [27]. Nghiên cứu cơ bản đi sâu khám phá bản chất và quy luật vận động và phát triển của thế giới ở cả hai phía vi mô và vĩ mô. Tri thức sáng tạo từ nghiên cứu cơ bản là tri thức nền tảng cho mọi quá trình nghiên cứu và ứng dụng tiếp theo. 13 Kết quả của nghiên cứu cơ bản luôn là những phân tích lý luận, những kết luận về quy luật, những định luật, định lý… Cuối cùng, trên cơ sở những nghiên cứu này, người nghiên cứu đưa ra những phát hiện, phát kiến, phát minh, xây dựng nên những cơ sở lý thuyết có một giá trị tổng quát cho nhiều lĩnh vực hoạt động. Nghiên cứu cơ bản là loại hình nghiên cứu phức tạp nhất do đội ngũ các nhà khoa học có trình độ năng lực sáng tạo đặc biệt tiến hành. Với những yêu cầu cao về trang thiết bị, với những chương trình nghiên cứu lâu dài, một nguồn tài chính lớn, tốn kém và mạo hiểm. Chỉ có các nước có tiềm lực khoa học mạnh mới có khả năng tổ chức loại hình nghiên cứu cơ bản một cách rộng rãi. Nghiên cứu cơ bản được phân thành hai loại: Nghiên cứu cơ bản thuần túy và nghiên cứu cơ bản định hướng. Nghiên cứu cơ bản thuần túy: Nghiên cứu cơ bản thuần túy còn được gọi là nghiên cứu tự do hoặc nghiên cứu cơ bản không định hướng. Nghiên cứu cơ bản thuần túy có mục tiêu là phát hiện, sáng tạo ra giá trị mới, những quy luật, những lý thuyết khoa học mới dù chưa có địa chỉ ứng dụng. Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản thuần túy có thể là các phát hiện, phát minh, phát kiến, các công thức và thường dẫn đến việc hình thành hệ thống lý thuyết có ảnh hưởng đến một hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong lịch sử khoa học, chúng ta gặp rất nhiều những phát hiện của nghiên cứu cơ bản thuần túy trong mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội, chẳng hạn, Newtơn phát hiện định luật hấp dẫn vũ trụ, Galileo phát hiện các vệ tinh của Sao Mộc, Marie Curie phát hiện nguyên tố phóng xạ uranium, Adam Smith phát hiện “bày tay vô hình” của kinh tế thị trường, Karl Marx phát hiện ra quy luật về thặng dư. Đó đều là sản phẩm của những nghiên cứu cơ bản thuần túy. Tác giả các phát hiện này không thể dự kiến hết được, thậm chí không hề dự kiến được những phát hiện của mình sẽ được nhằm vào mục đích áp dụng nào và dẫn đến những kết quả, những ảnh hưởng lớn lao như thế nào trong đời sống xã hội. Nghiên cứu cơ bản định hướng: Nghiên cứu cơ bản định hướng có mục tiêu để tìm ra những kiến thức mới, giải pháp mới theo yêu cầu của thực tiễn xã hội hay sản xuất, đã có sẵn địa chỉ ứng dụng. Hay nói cách khác đây là những nghiên cứu 14 cơ bản đã dự kiến trước mục đích ứng dụng. Nghiên cứu cơ bản định hướng còn được gọi là nghiên cứu thăm dò và đôi khi được hiểu là một loại hình nghiên cứu để xác định phương hướng nghiên cứu. Thí dụ, hoạt động thăm dò địa chất mỏ cũng xem là nghiên cứu cơ bản định hướng, bởi vì nó nhằm khám phá quy luật (định tính và định lượng) phân bố khoáng sản trong lòng đất. Hoạt động nghiên cứu này hướng vào mục đích phục vụ nhu cầu khai thác khoáng sản. Nghiên cứu nền tảng: nghiên cứu nền tảng là những nghiên cứu dựa trên các quan sát, đo đạc để thu thập số liệu và dữ kiện nhằm mục đích tìm hiểu và khám phá quy luật của tự nhiên. Thuộc loại hình nghiên cứu nền tảng có thể liệt kê một số dạng như nghiên cứu dịch tễ học trong y; điều tra cơ bản tài nguyên và các điều kiện thiên nhiên như điều tra địa chất, nghiên cứu đại dương, khí quyển, khí tượng; tổng hợp các hóa chất, nghiên cứu bản chất vật lý, hóa học, sinh học. Nghiên cứu chuyên đề: Nghiên cứu chuyên đề là nghiên cứu có hệ thống một hiện tượng đặc biệt của tự nhiên, ví dụ trạng thái plasma của vật chất, của bức xạ vũ trụ, gien di truyền. Những loại hình nghiên cứu cơ bản định hướng thuộc dạng này không chỉ đưa đến những cơ sở lý thuyết quan trọng, mà còn có thể dẫn đến những ứng dụng có ý nghĩa lớn lao trong kinh tế và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Chúng ta không nên hiểu đồng nhất giữa hai khái niệm nghiên cứu cơ bản và khoa học cơ bản. b) Nghiên cứu ứng dụng: Nghiên cứu ứng dụng: là hoạt động nghiên cứu vận dụng kết quả nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra công nghệ mới, đổi mới công nghệ phục vụ lợi ích của con người và xã hội [27]. Sản phẩm của nghiên cứu ứng dụng có thể là một giải pháp về công nghệ có tính mới về nguyên lý, vật liệu mới, sản phẩm mới, giải pháp hữu ích, sáng chế. Điều quan trọng nhất để phân biệt nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng là ở chỗ, nghiên cứu cơ bản thì đưa ra những tri thức mới về bản chất, quy luật vận động và hiện tượng, còn nghiên cứu ứng dụng đưa ra những nguyên lý mới về giải pháp tác động vào sự vật hoặc hiện tượng. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan