Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Pie đệ nhất

.PDF
735
383
105

Mô tả:

PIE ĐỆ NHẤT
PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy Aleksey Nikolaievich Tolstoy PIE ĐỆ NHẤT Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương Tiểu sử & chú thích Dịch theo bản tiếng Pháp của Alice Orena, Nhà xuất bản Ngoại văn Moskva. Aleksey Nicolaievich Tolstoy sinh ngày 10-1-1883 tại thành phố Nikolaievsk, tỉnh Samara miền hạ lưu sông Volga, trong một gia đình quý tộc nhỏ có truyền thống văn học. Năm 1901, ông lên Petersburg theo học trường kỹ thuật, năm 1907 xuất bản tập thơ đầu tiên, nhưng ít lâu sau chuyển sang viết văn xuôi. Năm 1914-1916, ông làm phóng viên chiến tranh. Từ 1918 ông sống lưu vong ở Pháp. Năm 1923 ông trở về nước Nga, tình nguyện đứng vào hàng ngũ những trí thức tham gia công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông mất ngày 23-2-1945 tại nhà an dưỡng Barkhivinsky, ngoại ô Moskva, thọ 63 tuổi. Chú thích: Piotr (tiếng Nga) là tên gọi vua Pie (tiếng Pháp). Trong khi gõ truyện nầy, chúng tôi cố gắng sửa đúng địa danh theo tiếng Nga. Tuy nhiên, bìa sách, chúng tôi không thay đổi. Các đơn vị đo lường cổ của Nga: 1 versok ( вершок ) bằng 4,445cm 1 arsin bằng 0,71 mét 1 xagien ( сажень ) bằng 2,134m 1 versta (dặm Nga) ( верста ), bằng 1,06 km PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy 1 dexiatin (mẫu Nga) = bằng 1,0925 hecta 1 kruk bằng bốn héc ta. 1 pud bằng 16,38 kg. 1 phun-tơ Nga ( фунт ) bằng 0,409kg = 1/40 pud 1 phun-tơ Anh bằng 453,6 gam 1 zolonich ( золотник ) bằng 4,26 gram) 1 mera bằng khoảng 26,24 lít. (ND) 1 ao-xơ ( унция ) bằng 29,86 gam 1 thùng ( бочка ) thùng tono, thùng phuy, thùng tròn; bằng 491,96 lít 1 xô ( ведро ) bằng 12,3 lít Aleksey Nikolaievich Tolstoy PIE ĐỆ NHẤT Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương Chương 1 Dịch theo bản tiếng Pháp của Alice Orena, Nhà xuất bản Ngoại văn Moskva. Xanka nhảy từ ổ nằm trên bếp lò(1) xuống đất, lấy người đẩy cánh cửa ẩm sũng. Sau Xanka đến Laska, Gavrinka và Artamoska cũng tụt nhanh xuống đất, bỗng cả bọn đều thấy khát; chúng nhảy ùa vào lối cửa đi tối om, theo làn hơi và khói từ ngôi nhà gỗ thum thủm mùi chua bay ra mù mịt. Ánh sáng xanh mờ xuyên qua làn tuyết phủ kín khuôn cửa sổ nhỏ lọt vào nhà. Trời rét như cắt. Chậu PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy nước và chiếc gáo gỗ đã bị băng phủ kín. Mấy đứa trẻ chân không nhảy choi choi; đầu Xanka choàng khăn vuông; Gavrinka và Artamoska phong phanh chiếc áo lót cũn cỡn đến ngang rốn. Từ trong ngôi nhà gỗ, bà mẹ tru tréo: - Đóng cứa lại, đồ quỷ sứ! Bà ta đang đứng trước lò. Trong lò, những thanh củi nhỏ bắt lửa, hắt ánh sáng rực lên khuôn mặt nhăn nheo. Dưới chiếc khăn vuông rách, đôi mắt mờ đi vì khóc nhiều, lúc nầy sáng ngời, khủng khiếp y như mắt tượng thánh. Xanka, đột nhiên thấy rờn rợn, chẳng hiểu tại sao, liền ráng hết sức đóng sầm cánh cửa lại, sau đó, cô múc nước thơm uống một hớp, nhấm nhấm một cục nước đá rồi cho các em uống. Cô thì thầm: - Chúng mầy có rét lắm không? Nếu không đi ra sân mà xem, bố đang đóng ngựa đấy… Ngoài sân, ông bố đang đóng ngựa vào xe trượt tuyết. Từ vòm trời nặng trĩu, những bông tuyết nhỏ lặng lẽ rơi; những con quạ khoang đậu trên hàng rào cao; ở đây đỡ giá hơn lối vào ngôi nhà gỗ. ông bố là Ivan Artemist - bà mẹ thường gọi như vậy, còn mọi người thì gọi bác ta là Ivaska và chính bác cũng tự xưng như thế ở nơi công chúng - biệt hiệu là Brovkin, đầu đội chiếc mũ lông cao, nhọn hoắc, ấn sụp xuống tận cặp lông mày cau có. Bộ râu hung hung đỏ chưa được nhát lược nào kể từ ngày lễ Kháng cáo… Đôi bao tay thò ra ở chỗ hở của chiếc áo dài bằng len thô, thắt trễ ngang lưng một sợi dây thừng; đôi giầy bện bằng vỏ gai của bác bực dọc bước lạo xạo trên tuyết trộn lẫn phân: bác không làm sao gỡ nổi bộ yên cương. Bộ yên cương nát quá, chỗ nào cũng chắp nối. Bác bực mình, mắng con ngựa nhỏ đen nhẫy, chân ngắn cũng như chân chủ, bụng to tướng. - Rồi tao sẽ cho mầy giỡn, đồ chết tiệt? Mấy đứa trẻ ra ngay chân thềm nhà tè một bãi và co ro nép vào nhau ở trên thềm nhà đóng băng mặc dầu chúng rét căm căm. Artamoska, đứa nhỏ nhất lắp bắp: - Không sao cả, lát nữa chúng mình lại vào sưởi ở bếp lò! Đóng ngựa xong, Ivan Artemist cho ngựa uống nước chứa trong một cái thùng. Con ngựa uống một hơi dài, đôi sườn lông lá căng lên như muốn bảo chủ: "Ông đã không cho tôi ăn no thì ít ra tôi cũng phải được uống thoả thuê…". Ivan xỏ bao tay vào, rút lấy chiếc roi để trong xe, dưới lớp rơm. Bác quát bọn trẻ: - Muốn sống vào trong nhà ngay lập tức! - Bác nghiêng mình ngồi phịch xuống xe, cho xe đi qua cổng rồi cho ngựa chạy nước kiệu theo dọc hàng tùng cao vút lốm đốm tuyết phủ, về phía dinh cơ của lãnh chúa trẻ Volkov. - Chà, sao mà rét thế nầy, thật buốt thấu xương! - Xanka nói. Mấy đứa trẻ ùa vào ngôi nhà gỗ tối mò và leo lên ổ trên bếp lò, hai hàm răng lập cập. Dưới trần nhà đen kịt, làn khói ấm, hanh hanh, bốc lên cuồn cuộn, rồi thoát qua cửa sổ lùa khoét ở trên phía cửa ra PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy vào: cái bếp lò không có ống khói. Bà mẹ đang nhào bột. Dẫu sao thì gia đình cũng đủ ăn: họ có một ngựa, một bò cái và bốn gà mái. Mọi người vẫn bảo Ivaska Brovkin là một bác nông dân khá giả. Khi những thanh củi trên giá đèn(2) cháy lụi, tàn rơi lả tả xuống chiếc cóng nhỏ đựng nước kêu xèo xèo, Xanka kéo chiếc áo lông cừu đắp lên người mình và cho các em, rồi lại thì thào kể tiếp đủ mọi thứ chuyện khủng khiếp: cô kể cho các em nghe về những cái giống, - lạy Chúa, ai mà dám gọi đến tên thật của chúng - cứ lào xào dưới sàn nhà lúc đêm khuya… - Thì mới đây thôi, tao mà nói dối thì tao mù mắt, tao đã bị một mẻ sợ hết hồn?… Cạnh bậu cửa, có một đống rác và trên đống rác, có một cái chổi bện bằng cành bạch dương. Tao nhìn thì, ôi lạy Chúa tôi! Tao thấy cái thằng lông lá ấy từ dưới cái chổi lù lù hiện ra, râu như râu mèo. - Ối ối, ối! - bọn trẻ hoảng sợ chúi đầu vào trong cái áo lông cừu kêu ầm lên. Chú thích: (1) Bếp lò ở Nga thường xây cao, bằng gạch hoặc bằng đá, để sưởi ấm nhà và để nấu ăn. Mặt bếp lò phẳng. người Nga hay kê ván làm giường nằm lên trên cho ấm. (2) Nông dân Nga thời xưa thắp những thanh củi nhỏ (thường bằng gỗ thông) để thay đèn. Aleksey Nikolaievich Tolstoy PIE ĐỆ NHẤT Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương Chương 2 Con đường lờ mờ trên tuyết, xuyên qua rừng. Những cây thông cổ thụ che lấp cả vòm trời. Quãng nầy thật là khó đi lại chỗ thì cây cối đổ rạp, chỗ thì bụi rậm um tùm. Năm kia, khu vực nầy về tay Vaxili tức là Volkov trẻ, - con một nhà quý tộc làm quan ở Moskva, khi hắn ta ra ở riêng. Bộ công thổ đã cấp cho Vaxili bốn trăm năm mươi dexiatin (1) với ba mươi bảy nông dân và gia đình họ. Vaxili đã cho dựng một ngôi nhà nhưng vì mắc nợ nên phải đem ruộng đất cầm cho tu viện. Các tu sĩ cho hắn vay lãi rất nặng - những hai mươi kopeik (2) một rúp. Mà bổn phận hắn lại là phải phục vụ Sa hoàng, hắn phải có một con ngựa tốt, một bộ áo giáp, một thanh gươm, một khẩu súng hoả mai và đem theo ba chiến binh, cũng cưỡi ngựa, nai nịt áo chẽn và mang gươm, cung cùng một túi tên đầy… PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy Với số tiền vay được của tu viện, Vaxili phải vất vả lắm mới sắm nổi ngần ấy trang bị. Nhưng rồi lại còn phải nuôi bọn gia nhân. Rồi trả lãi cho các tu sĩ nữa. Ngân khố của Sa hoàng chẳng tha gì ai. Mỗi năm lại thêm một lệnh mới, nhiều thứ thuế mới - nào thuế lương thực, thuế đường xá, nào tiền cống nạp, tiền đảm phụ. Như vậy thử hỏi còn gì nữa? Và bao giờ thì anh lãnh chúa cũng là có lỗi: người ta trách anh nhu nhược không chịu đốc thuế. Nhưng khốn nỗi người nông dân chỉ có một làn da: làm thế nào đòi tuốt da hắn những hai lần được. Những vụ loạn lạc, những cuộc chiến tranh thời cố Sa hoàng Aleksey Mikhailovich đã làm cho Nhà nước nghèo khốn. Từ khi tên cuồng khấu đã bị rút phép thông công là Xtenka Razin (3) hoành hành khắp nơi thì nông dân đã quên khuấy mất Chúa Trời. O ép quá chút nữa, họ sẽ nhe răng ra như chó sói cho mà xem. Để tránh sưu cao thuế nặng, họ đã phải trốn xuống vùng sông Đông, chẳng làm cách nào mà lôi được họ về, dù có ra lệnh hoặc điều quân đến cũng vậy thôi. Con ngựa băm ton lon, tuyết phủ đầy mình. Cành cây vướng vào vai cổ ngựa làm tung lên một đám bụi tuyết Những con sóc đuôi bùm tum, mình dán vào các thân cây, giương mắt nhìn người khách qua đường - trong rừng lúc nhúc những con vật nhỏ nầy. Ivan Artemist ngả mình trên xe suy nghĩ; người nông dân chỉ còn lại có thế thôi: suy nghĩ… "Thế đấy… hết dâng cái nầy lại cúng cái khác… Hết nộp cho ông nọ, lại đóng tiền cho ông kia… Nhà nước mà như nhà nước chúng ta thì thật là một cái vực thẳm! Tài nào mà đổ cho đầy được? Dân ta đâu có ngại việc dân ta làm cật lực không hề ta thán. Còn như bọn quý tộc ở Moskva thì lúc nầy đây vẫn đang nghênh ngang xe ngựa thếp vàng. Thế là tại phải trả tiền xe cho chúng nữa, cho cái bọn quỷ ăn no phưỡn bụng ấy. Thôi được rồi… Cần cái gì thì cứ việc mà lấy, nhưng đừng có cắt cổ người ta… Là vì các ông bạn ạ, lăm le lột da con người ta những hai lần là ăn cướp đấy. Bọn viên chức của Sa hoàng lúc nầy đông như kiến cỏ. Cứ nhổ một bãi là nhất định trúng phải một thằng thơ lại hoặc một thằng chủ quán rượu, thằng nào cũng viết đơn viết từ được cả… Và người nông dân thì thân cô thế cô. Ồ, các ông bạn ạ, tớ cũng đến phải chuồn mất thôi dù cho thú rừng có cắn gãy xương đi chăng nữa, thì chết vẫn còn hơn chịu cái cảnh bị cướp bóc nầy… Cứ cung cách nầy thì không tài nào cung phụng các bố được lâu nữa đâu". Ivaska Brovkin suy nghĩ như vậy và có lẽ bác ta còn suy nghĩ khác nữa kia. Bỗng có một chiếc xe trượt tuyết từ trong rừng đổ ra đường cái. Digan (biệt hiệu của người đó), - một nông dân khác của Volkov - tóc đen có một mớ đã hoa râm, đang quỳ trên xe. Mười lăm năm ròng rã, bác ta đã bỏ trốn đi tha phương, gặp đâu có công việc thì làm. Nhưng rồi người ta ban hành một đạo dụ: trả lại cho các chúa đất tất cả các nông dân đi trốn, dù dã bỏ trốn từ bao nhiêu lâu rồi cũng mặc. Người ta tóm được Digan ở vùng lân cận Voronez là nơi bác đang làm ruộng và đem trả lại cho Volkov bố. Bác lại bỏ trốn lần nữa, - nhưng rồi lại bị bắt, có lệnh trên truyền xuống là lấy roi quất cho bác một trận không thương tiếc rồi đem tống giam, - trong dinh cơ của Volkov - và đợi đến bao giờ da đã liền sẹo thì lại PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy quất cho một trận nữa không thương tiếc và lại tống giam lần nữa, để cho thằng khốn kiếp cái thằng kẻ cướp ấy, chừa hẳn cái thói đào tẩu đi. Digan phải xin vào làm trong lãnh địa của Vaxili mới thoát được tội. - Chào bác, - Digan vừa cất tiếng, vừa trèo sang xe trượt tuyết của Ivan. - Chào bác. - Có chuyện gì lạ không? - Chuyện nào thì cũng chẳng có gì tốt cả… Digan rút một bên bao tay ra, đưa tay lên vuốt ria mép, rồi đến râu cằm để cho một nụ cười hóm hỉnh. - Tôi gặp một người ở trong rừng: hắn bảo rằng Sa hoàng đang hấp hối. Ivan Artemist kinh hãi, nhỏm dậy, bác dừng ngựa lại: "Hở…", bỏ mũ ra và làm dấu: - Vậy ai sẽ được đưa lên ngôi Sa hoàng bây giờ? - Chỉ có mỗi chú bé Piotr Alekseevich thôi, hắn bảo thế. Nhưng chú bé ấy mới rời vú mẹ chưa được bao lâu. - Vậy thì, người anh em ạ! - Ivan kéo sụp chiếc mũ lông xuống, tuyết đọng trên mí mắt trắng xoá vậy thì, người anh em ạ… Thời kỳ thống trị của bọn chúa đất sắp bắt đầu rồi… Thế là chết cả nút thôi… - Có thể là như thế, mà cũng có thể là sẽ không phải như thế, - Digan ngồi sát vào người bạn đồng hành và nháy mắt, - Người đó nói với tôi rằng, rồi sẽ có loạn cho mà xem, chắc chắn là như vậy… Cũng có thể đời sống còn tươi, còn có bánh mì trắng mà ăn. - Chúng mình đâu có phải là bọn non nớt gì… - Digan nhe hèm răng dã thú ra, phá lên cười và ho vang động cả khu rừng. Một chú sóc buông mình rời khỏi thân cây, vọt qua đường; tuyết rơi lả tả; một luồng cơ man những kim nhỏ li ti lấp lánh trong tia nắng xiên khoai. Vầng trái dương to lồ lộ, đỏ chói, lơ lửng ngay trên đầu đường, bên trên một quả đồi, trên những hàng giậu cao, những mái nhà dốc đứng và những làn khói từ dinh cơ của Volkov bốc lên. Chú thích: (1) Đơn vị đo lường Nga bằng 1,09 hecta. (2) Đơn vị tiền bằng một phần trăm rúp. (3) Lãnh tụ nông dân người Cô-dắc khởi nghĩa chống bọn chúa đất hoạt động ở vùng biển Kaspien có lần tiến sang tận địa phận Ba Tư. Năm 1670, Razin ngược dòng sông Đông, tiến đến vùng Volga đánh chiếm các thành phố Saratov và Samara và xúi giục người các dân tộc Tarta, Mocsvo, Cheremix và Chuvats nổi dậy chống lại chính quyền Moskva. Razin bị tướng George Baratinski PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy đánh bại ở gần Simbirsk, bỉ bắt và bị xử tử phanh thây ở Moskva năm 1670. Aleksey Nikolaievich Tolstoy PIE ĐỆ NHẤT Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương Chương 3 Ivaska và Digan dừng ngựa trước cổng lớn trên có cái nóc hai mái che một cây thánh giá. Chung quanh dinh cơ có một hàng rào kiên cố bao bọc, có thể đương đầu nổi một cuộc cướp phá của quân Tarta. Hai bác nông dân bỏ mũ ra… Ivaska nhấc chiếc vồ gõ cửa và theo tục lệ nói: - Lạy đức Chúa Jesus là con của đức Chúa Trời hãy rủ lòng thương chúng con… Người gác cổng Averian, chân dận ủng gai kêu lạo xạo từ trông lều đi ra. Lão ngó qua khe cửa: đúng là người nhà rồi. Lão nói "amen" rồi mở cổng. Hai bác nông dân đánh ngựa vào sân. Họ đứng đầu trần, liếc nhìn về phía những khuôn cửa sổ nhỏ gắn mica ở ngôi nhà gỗ của chúa đất. Một cái thềm dốc đứng, xinh xắn, bằng gỗ chạm trổ, nóc hình củ hành dẫn vào các phòng. Phía trên là cái mái giống như nóc lều, hai bên khum khum hình thùng rượu bổ đôi với một cái chóp thếp vàng. Tầng dưới ngôi nhà làm bằng những khúc gỗ tròn chắc nịch: Vaxili Volkov muốn dùng nhà nầy làm nơi chứa lương thực cho mùa đông và mùa hạ - lúa, thức ăn, muối các loại. Nhưng hai bác nông dân biết rõ là trong kho chỉ có chuột thôi. Còn cái thềm lên xuống sang trọng kia, thì đến một vị vương hầu cũng phải lấy làm danh giá. - Bác Averian, lãnh chúa cho gọi chúng tôi mang theo cả ngựa đến để làm gì thế, có phải để làm tạp dịch không? - Ivaska hỏi. - Hình như chúng tôi có còn nợ đức ông gì nữa đâu? - Các bác sẽ đưa một số chiến binh đi Moskva đấy… - À ra lại chuyện ấy, họ sẽ lại quần ngựa của chúng tôi kiệt sức phen nữa chăng? Digan bước lại gần, hỏi: - Có tin gì thế? Sẽ đánh nhau với ai à? Hay là có loạn chăng? - Chuyện ấy đâu có phải của bác hay của lão, - Averian, mái tóc bạc phơ, cúi chào. - Khi nào có lệnh là cứ việc đưa họ đi. Hôm nay người ta mới cho đánh tới đây một xe chở đầy roi, để dành phần cho các người đấy… PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy Averian, đôi chân cứng đờ, quay vào trong lều. Đây đó một khuôn cửa sổ nhỏ có thắp đèn lóe sáng trong buổi hoàng hôn mùa đông. Cái sân ngổn ngang nào là chuồng bò, chuồng ngựa, nào là kho chứa đồ, nhà ở bằng gỗ và một cái lò rèn nữa. Nhưng có đến một nửa số nhà đó vô dụng. Volkov chỉ giữ lại một số gia nô trong nhà mà ngay cả số người đó cũng chỉ có bánh mì và nước kvas (1) ăn uống qua ngày thôi. Dĩ nhiên là họ phải làm việc, cày ruộng được chăng hay chớ, gieo hạt, vào rừng kiếm củi. Nhưng như thế liệu có sống nổi không? Thật là một công việc của nông nô. Người ta đồn rằng Vaxili còn cho một người trong bọn họ đi Moskva giả bộ ăn xin ở cửa các nhà thờ, người nầy kiếm được tiền. Còn hai người nữa thì đi rong ở Moskva bán thìa, ủng gai và còi… Nhưng dẫu sao thì cơ sở vẫn là nông dân. Chính họ nuôi sống Volkov… Ivaska và Digan đứng giữa sân trải bóng hoàng hôn, suy nghĩ. Họ không vội gì. Có điều gì tốt lành đâu mà chờ đợi. Theo lời các cụ kể lại thì quả thực là ngày xưa đời sống có dễ chịu hơn: không bằng lòng ở với lãnh chúa của mình thì cứ việc bỏ đi làm cho một lãnh chúa khác. Bây giờ thì điều đó đã bị cấm lệnh cho ở đâu thì phải ở đó. Đã có lệnh là phải nuôi Vaxili Volkov vậy thì hãy xoay xở mà nuôi cho được lãnh chúa. Mọi người đều trở thành nông nô cả. Và rồi ra có thể còn có những việc cực khổ nữa kia… Bỗng có tiếng kẹt cửa đâu đấy; một nữ nông nô đầu trần, trơ trẽn, chạy hộc tốc trên tuyết đến: - Đức ông ra lệnh tháo ngựa ra. Các bác sẽ ngủ lại ở đây. Nhưng lạy Chúa, chớ có lấy cỏ khô của đức ông cho ngựa ăn đấy… Digan sắp đánh một roi vào cặp mông núng nính của cô ả thì nó đã bỏ chạy mất… Hai người thủng thẳng tháo ngựa rồi vào trong ngôi nhà gỗ dành riêng cho kẻ ăn người ở, để ngủ đêm. Đám nông nô có tám người tất cả - xoáy được của lãnh chúa một cây nến mỡ liền đánh bài với những lá bài nhờn nhụa; họ vật bài đen đét xuống bàn: họ chơi ăn kopeik… Họ quát tháo, cãi lộn nhau; có người tìm cách giấu tiền trong mồm áp vào một bên má, người khác đã móc rách môi hắn ra toàn là đồ vô công rồi nghề, nhưng lại được nuôi béo! Một đứa trẻ mặc áo dài bằng vải thô, đi ủng gai đã mòn vẹt, ngồi trên một chiếc ghế dài, lánh ra một nơi, đó là alioska con trai Ivan Artemist. Mùa thu qua, trong nhà đói quá, bố mẹ nó buộc phải gán nó làm nô lệ chung thân cho lãnh chúa để trang trải những khoản nợ còn khất lại. Đứa bé có đôi mắt to giống mẹ. Cứ trông mái tóc bù xù của nó cũng đoán được là ở đây nó thường bị đánh đòn. Ivan liếc nhìn con, bác thương nó nhưng lặng ngắt. alioska lẳng lặng cúi rạp đầu chào Ivan làm hiệu gọi con lại và thì thầm hỏi: - Ở đây đã ăn uống gì chưa? - Đã ạ! - A, thế mà bố lại không mang bánh đi (bác Ivan láu cá nói dối vì chính ra bác có một mẩu bánh bọc PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy trong một mánh vải thủ trong áo). Liệu con có thể xoay được cái gì không? alioska, bố có chuyện nầy muôn nói với con. Đến sáng mai, bố sẽ phục xuống chân đức ông. Bố còn nhiều việc phải làm. Biết đâu đức ông lại không ru lòng thương hố, để con thay bố đi Moskva? Alioska nghiêm trang gật đầu: "Được thôi, bố ạ". Ivan tháo ủng ra và nói thật nhanh như thể mình vui vẻ no nê vậy: - Thế nào, các người anh em, ra ở đây hôm nào cũng cứ vui như hội thế nầy à? A, quá là các người sống dễ chịu thật, phè phỡn ung dung thật! Một gã to lớn, dáng người thô kệch, bỏ bài xuống bàn, quay mặt lại phía bác: - Nầy tên kia, mầy là đứa nào mà dám trách móc chúng tao? Ivan không đợi đến lúc người ta vả vào miệng, vội leo lên ổ ván nằm. Chú thích: (1) Một thứ nước uống hơi chua chua, cất bằng lúa mì, tựa như rượu nếp của ta song nhẹ hơn. Aleksey Nikolaievich Tolstoy PIE ĐỆ NHẤT Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương Chương 4 Vaxili Volkov có một ông khách ngủ lại đêm là anh bạn láng giềng Mikhail Tyktov, con một lãnh chúa nhỏ. Chủ và khách đã ăn bữa sáng từ sớm. Bên cạnh chiếc lò sưởi bằng sứ tráng men, có đặt thảm dạ, gối, áo khoác bằng da gấu trên mấy chiếc ghế dài to bản. Nhưng hai chàng thanh niên không thấy buồn ngủ. Trong phòng oi bức. Ngồi trên ghế dài, mình chỉ mặc mỗi bộ quần áo lót, họ chuyện trò trong buổi hoàng hôn, thỉnh thoảng vừa ngáp vặt vừa làm dấu trên miệng. Khách nói, nghiêm trang, nhỏ giọng: - Cậu thế mà còn khá, thậm chí có nhiều người còn ước ao được như cậu nữa cơ đấy, Vaxili ạ. Nhưng còn mình, cậu thử đặt vào địa vị mình xem. Ông cụ nhà mình có mười bốn đứa con. Bảy đứa đã ra ở riêng và được chia một số đất bỏ hoang; đứa thì có hai nông nô, đứa thì có ba - còn những đứa khác thì bỏ trốn sạch. Mình là thứ tám, ngày mai họ sẽ cấp cho mình một mảnh đất. Chắc sẽ thí cho mình một cái thôn chết dẫm đã cháy lụi và một bãi lầy toàn một giống ếch nhái… Như vậy thì làm thế nào mà sống nổi? Hả? PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy - Hiện nay thì ai cũng có khó khăn, - Vaxili nói, tay lần một chuỗi tràng hạt bằng gỗ trắc bá để lòng thòng giữa hai đầu gối. Mọi người ai cũng phải vật lộn gay go… Không biết sống ra làm sao? - Ngày trước ở viện Duma (1), ông mình ngồi trên Golixyn kia đấy, - Tyktov nói - Cụ đã túc trực mấy ngày đêm liền bên linh cữu Mikhail Fedorovich. Thế mà bây giờ bọn mình ở nhà phải đi ủng gai… Nhục như thế mà rồi cũng cứ phải quen đi! Chẳng có cách nào kiếm cho đủ ăn thì còn biết nhục với nhã là gì nữa. Ông bố mình đã phải dập đầu chào sướt trán ra để đệ đơn thỉnh cầu lên Bộ công thổ: thời buổi nầy mà không tốt lễ thì đừng có hòng được gì. Phải đút lót cho thằng thơ lại, thằng phó thơ lại, cả thằng phụ việc của thằng phó thơ lại nữa. Mà nào có phải bao giờ chúng cũng nhận ngay cho đâu, chúng còn chê ỏng chê eo… Nhà mình có nhờ tên phó thơ lại Xtiovka Remezov thu xếp cho một việc nhỏ, phải đấm mõm hắn trước 10 antin (2), - thật là vất vả lắm mới chạy được đủ số tiền đó, - và một pud (3) cá kim ngư khô. Tiền thì cái thằng oắt con nát rượu ấy nhận; nhưng còn cá thì hắn vứt vào sọt rác… Có những kẻ khác khéo luồn lọt hơn thì muốn gì được nấy. Như Volotka Romodanov đã lần mò lên đến tận Sa hoàng để đệ đơn thỉnh cầu. Thế là nó được cấp hai thôn lớn hưởng thụ vĩnh viễn. Vậy mà ai chẳng biết rằng lần đánh nhau vừa qua với quân Ba Lan, nó đã bỏ chiến trường chạy bán sống bán chết và cả cái lão bố nó nữa cũng thế, trước thành Smolensk cũng đã ba lần chuồn khỏi chiến trường… Thế mà, đáng lẽ phải thu hồi phần đất và tống cổ chúng ra khỏi lãnh địa của chúng, thì đằng nầy người ta lại tặng thưởng thêm cho chúng mấy thôn. Thật là chẳng còn công lý gì nữa… Hai người ngồi im lặng một lúc. Chiếc lò sưởi toả hơi nóng sực. Tiếng dế gáy coong coong. Không khí yên ắng, nặng trĩu u buồn. Đến cả đàn chó ngoài sân cũng thôi không sủa nữa. Volkov trầm ngâm nói: - Giá thử có một ông vua nào sẵn lòng chiêu nạp chúng mình ở Vơnizơ, ở Rome hoặc ở Viên nhỉ… Nhất định là mình sẽ đi, không thèm ngoái cổ nhìn lạỉ… Vaxili Vaxilievich Golixyn có cho ông bố đỡ đầu mình mượn một quyển sách; mình đã được đọc… Thì ra hết thảy mọi dân tộc đều giàu có, sống phong lưu thừa thãi, chỉ có chúng mình là sống như bọn khố rách áo ôm. Mới đây mình có đi Moskva để tìm một người thợ làm súng. Người ta khuyên mình đi tìm người Đức, ở xloboda (4) Kukui. Họ không theo chính giáo, đức Chúa Trời sau nầy sẽ phán quyết về họ. Nhưng mình chỉ mới bước chân vào trong làng thì mắt mình đã trông thấy những gì sao? Phố xá quét tước sạch sẽ, nhà cửa vui mắt và gọn gàng, hoa nở trong vườn… Mình chân bước đi mà lòng bỡ ngỡ thấy gì cũng lạ, y như trong giấc chiêm bao ấy… Mà người nào người nấy đều ân cần niềm nở. Ấy thế mà họ ở ngay sát nách với chúng mình đấy! Mà họ mới giàu làm sao! Nguyên một mình xloboda Kukui cũng giàu hơn tất cả Moskva với các vùng lân cận… - Đi buôn, thì cũng phải có tiền, - Mikhail nhìn vào đôi chân không của mình. - Xin đăng vào đội xtreletz (5) chăng? Cái nghề ấy cũng chẳng ăn thua gì đâu. Đợi cho đến lúc leo lên được cái chức PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy bách binh trưởng thì cũng đã om xương rồi. Mới đây Mania Melsikov, giám mã của Sa hoàng có tới thăm ông bố mình, ông ta cho biết là Ngân khố còn nợ của các trung đoàn xtreletz tới hai năm rưỡi tiền lương. Nhưng có mở miệng kêu ca thì lập tức bị tống vào ngục tối ngay. Đại tá Puzot đưa quân xtreletz của hắn về dinh cơ riêng ở gần phụ cận Moskva, về đấy họ phải nai lưng ra làm cho hắn như thể bọn nông nô vậy… Họ khiếu nại, thế là người ta quất cho họ một trận ở trước trụ sở cảnh sát. Quân xtreletz rất uất ức. Melsikov bảo rằng: Hãy đợi xem, họ sẽ cho biết họ không phải tay vừa đâu. - Nghe nói không thể mặc áo kiểu quý tộc sang bên kia sông Moskva được có phải không? - Làm thế nào được? Ai nấy đều đói rách cả… Người nào cũng ngóc đầu lên không nổi vì sưu cao thuế nặng. Thật chỉ muốn trốn đi đâu cho biệt tăm, không ngoái lại nữa… Melsikov nói với tụi mình rằng bọn người nước ngoài thì họ đi buôn kia; ở Arkhagensk, ở Kholmogory, họ xây được nhà gạch. Họ mua hàng một rúp ở ngoài thì đem bán lại cho mình lấy ba rúp… Còn bọn nhà buôn nước mình thì để hàng mục ra vì cái tính biển lận. Để trốn trách cái xuất sưu nặng còng lưng, dân chúng ở các vùng ngoại ô đã bỏ trốn, người thì về các quận, kẻ thì đi vào vùng đồng cỏ hoang. Bây giờ đến đục một cái lỗ qua lớp băng đóng trên mặt sông để lấy nước cũng phải trả thuế… Tất cả những số tiền ấy chui vào đâu? Melsikov kể cho tụi mình biết là Vaxili Vaxilievich Golixyn đã cho xây một dinh thự trên bờ sông Neglinnaia. Tường bên ngoài thì dát đồng, còn bên trong thì lót da thép vàng… Vaxili ngẩng đầu lên nhìn Mikhail. Mikhail đã co chân vào dưới ghế và cũng đang nhìn Vaxili. Từ một con người hiền lành một lát trước đây, hắn đã thay đổi khác hắn hắn cười nhạt, ngó ngoáy chân, chiếc ghế dài cũng rung theo. - Cậu làm sao thế? - Vaxili khẽ hỏi. - Tuần lễ trước, họ lại mới cướp một đoàn xe trượt tuyết ở gần làng Vorobievo. Cậu không nghe thấy chuyện ấy à? (Vaxili sầm mặt lại, cầm lấy chuỗi tràng hạt). Có một bọn lái buôn len dạ vận chuyển nhiều hàng tắm đẹp… Họ vội đến Moskva trước bữa ăn tối nên không muốn nghỉ lại dọc dường và họ đã không về được tới nơi tới chốn… Một người trong bọn lái buôn sống sót đã hô hoán lên. Thế là người ta đuổi theo bọn cướp nhưng chỉ thấy một vết xe mà vết xe đó thì cũng bị tuyết phủ gần kín rồi… Đôi vai Mikhail rung rung, hắn phá lên cười: - Cậu đừng sợ, mình không dự gì vào chuyện đó đâu. Đó là Melsikov kể chuyện lại cho mình đấy thôi… Hắn nghiêng mình về phía Vaxili: - Người ta đồn rằng vết xe mòn đó dẫn thẳng đến phố Vacvaka, trong sân nhà Xtiovka Odoievski, con út của vương hầu Odoievski… Hắn trạc tuổi bọn mình đấy. - Thôi chúng ta đi nằm đi, đã đến giờ ngủ rồi, - Vaxili nói, nét mặt tối sầm. Mikhail lại cười, gượng gạo không vui: PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy - Phải, nói đùa đủ rồi, ngủ thôi- Hắn nhẹ nhàng đứng dậy, vươn vai làm các khớp xương kêu răng rắc. Hắn rót bước kvas vào chiếc bát gỗ rồi uống một hơi dài và ngoái mắt qua thành bát nhìn Vaxili. - Xtiovka Odoievski trang bị gươm súng cho hai mươi lăm nông nô của hắn… Toàn một bọn liều lĩnh sẵn sàng làm hất cứ một việc gì. Hắn huấn luyện bọn chúng theo cách nầy: hắn để cho bọn chúng đói rã họng ròng rã một năm trời; đêm đến hắn mới thả chúng ra cho đi ăn cướp… Thật là một đàn sói. Mikhail nằm xuống ghế dài, kéo chiếc áo khoác bằng da gấu đắp lên mình, luồn một tay xuống dưới gáy mắt hắn bỗng long lanh: - Cậu có đi tố giác mình không? Có đi kể lại những chuyện mình vừa nói đó không? Vaxili treo chuỗi tràng hạt lên, lẳng lặng nằm xuống, mặt quay về phía bức tường bằng gỗ thông còn chảy nhựa. Mãi một lúc sau hắn mới đáp: Không, mình không đi tố giác cậu đâu! Chú thích: (1) Hội đồng các đại biểu quý tộc. (2) Một antin ăn ba kopeik (tiền cổ) (3) Một pud bằng 16,3 kg. (4) Làng lớn. (5) Xtreletz: cấm quân, binh sĩ thuộc các đơn vị quân thường trực đặc biệt, bắt đầu có từ thế kỷ 16,17 ở địa khu Moskva. Aleksey Nikolaievich Tolstoy PIE ĐỆ NHẤT Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương Chương 5 Qua khỏi cổng luỹ Zemlianoi Val, đường phố lồi lõm gồ ghề chạy ngoằn ngoèo giữa những ngôi nhà gỗ hai tầng, cao và hẹp. Người ta vứt ra ngoài đường thôi thì đủ mọi thứ. Chỗ nào cũng thấy những đống tro, xác xúc vật, chai lọ vỡ, giẻ rách. Alioska tay cầm cương ngựa, đi bên cạnh chiếc xe trượt tuyết có ba nông nô ngồi, đầu đội mũ quân đội bằng vải bông nhồi sợi gai thô vụn, mình mặc áo dài cổ cao bằng dạ trần, lụng thụng cứng đơ những chiếc áo tigeleis. Họ là chiến binh của Vaxili Volkov. Không đủ tiền sắm áo giáp, Vaxili đã PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy trang bị cho họ những chiếc áo tigeleis nhưng trong bụng vẫn nơm nớp lo khi duyệt binh, người ta sẽ làm nhục hắn, nhiếc móc hắn không đưa đến những vũ bị đã quy định và cho hắn là biển lận… Vaxili và Mikhail ngồi trên chiếc xe do Digan dắt. Theo sau là mấy nông nô với hai con ngựa: ngựa của Vaxili thắng toàn đồ sang trọng, trên lưng mang một cái yên Ba Tư, còn con ngựa thiến của Mikhail đã thấm mệt thì yên cương xộc xệch. Mikhail cau mày. Nhiều tay quý tộc và con nhà lãnh chúa đã vượt qua, miệng hò hét tay ra roi. Họ mặc những bộ áo giáp của ông cha để lại, hoặc mặc áo choàng mới may, áo nịt, áo nẹp kiểu Thổ Nhĩ Kỳ - mọi người trong quận đều đến quảng trường Lubianka, nơi duyệt binh để xin cấp đất mới hoặc chia đất cũ. Bất kỳ ai đi ngang qua, trông thấy con ngựa thiến của Mikhail cũng phá lên cười: "Nầy dẫn nó đến làm mồi cho quạ đấy à? Coi chừng đấy, ngữ nó đến toi mạng dọc đường thôi!". Khi vượt qua con ngựa thiến của Mikhail họ giơ roi quất vào mình nó, làm nó khuỵu chân xuống, giữa tiếng hò reo cười đùa, tiếng huýt sáo… Cả bọn Mikhail vượt qua chiếc cầu bắc ngang sông Yauza trên bờ sông cao, hàng trăm chiếc cối xay gió cỡ nhỏ đang quay. Theo sau những xe trượt tuyết và những đoàn xe khác, họ cho ngựa phi nước kiệu vượt qua quảng trường, tiến dọc theo một bức tường trắng vừa trát đã tróc ra từng mảng; phía trên bức tường là những tháp canh xây vuông có đặt đại bác ở các lỗ châu mai. Trước cổng thấp phố Miaxnitskaia, tiếng quát tháo, chửi rủa ầm, người ta chen nhau đến chết bẹp: ai cũng muốn tranh đi trước; thế là xảy ra cảnh đấm đá nhau, kẻ mất mũ, người gẫy xe, ngựa lồng. Phía trên cổng có một ngọn đèn dong đêm thắp thường xuyên trước một bức tranh vẽ các thánh tối mờ mờ. Dưới làn mưa rơi. Alioska rơi mất mũ; không hiểu làm sao nó lại sống sót được? Cả bọn đã vào được phố Miaxnitskaia, Alioska đưa tay lên lau máu mũi chảy ròng ròng và đưa mắt nhìn từ phía; khiếp thật, đến thế là cùng! Đám người đông đúc ùa vào đường phố chật hẹp ngập ngụa phân súc vật. Đứng trong những gian hàng dựng bằng ván, bọn lái buôn nhoài người qua quầy, lớn tiếng gọi, tay vươn ra níu lấy vạt áo những người qua đường, giật mũ lông của họ hoặc chào khách mua hàng. Phía bên dãy rào cao, người ta thấy những ngôi nhà gạch, những mái nhà dốc người, cái thì đỏ, cái thì thép bạc, những nóc nhà thờ hình củ hành màu sặc sỡ Nhà thờ thì có tới hàng nghìn. Loại nhà thờ lớn có năm nóc tròn và ở các ngã ba ngã tư là loại nhà thờ bé con con, bé đến mức một người phải chật vật mới lách qua được cửa, bên trong thì chỉ mươi người đứng là hết chỗ nhúc nhích. Nhìn qua cửa chính của nhà thờ bỏ ngỏ, người ta trông thấy ngọn lửa nhỏ sáng rực của những cây nến. Các bà lão đang quỳ cầu kinh ngủ thiếp luôn. Lũ ăn mày râu tóc xồm xoàm trông gớm chết, có cái thói giũ áo quần rách bươm và túm lấy chân những người qua lại, rồi lè nhè kể lể, phô ra cái thân thể đầy máu me hoặc chi chít mụn nhọt đang nung mủ. Có những cha cố mất giáo khu, mắt trợn trừng, gí một chiếc bánh kalats (1) vào mặt khách qua đường, miệng kêu "Nầy anh lái buôn, hãy cùng ta vào nhà thờ hát mừng một lễ - nếu PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy không ta sẽ cắn chiếc bánh kalats nầy…". Bên trên các nhà thờ nhỏ, hàng đàn quạ khoang bay lượn… Bọn Vaxili phải chật vật lắm mới chen được một lối đến quảng trương Lubianka, lúc nầy đã đông nghịt chiến binh cưỡi ngựa túm tụm lại thành từng nhóm. Xa xa, trước cửa ô Nikokskie, người ta trông thấy chiếc mũ lông chồn đen, cao ngất nghểu như ống khói của một vị đại thần, những chiếc mũ lông của bọn thơ lại và những chiếc áo dài sẫm màu của một số người cao sang. Một người gày gò, cao ngẳng, có bộ râu dài đứng ở đó miệng hô to, tay vung vẩy một tờ giấy. Mỗi lần hắn hô lại có một gã quý tộc vũ trang sơ sài hoặc rất đầy đủ, đi một mình hoặc có chiến binh đi theo - phi ngựa lại gần chỗ cái bàn để trình diện. Đến nơi, gã xuống ngựa, kính cẩn cúi chào vị đại thần và bọn thơ lại. Bọn nầy xem xét kỹ càng từ vũ khí cho đến ngựa, rồi đọc bản danh biểu để kiểm soát lại số đất trước đây đã cấp cho gã quý tộc đó. Tiếp đấy là cuộc tranh luận. Có tên quý tộc đấm ngực thùm thụp, miệng thề sống thề chết; có tên thì lạy van, khóc lóc, kêu ca đất đai cằn cỗi cấp cho họ đã làm cho họ lụn bại, lâm vào cảnh chết đói chết rét. Cứ như thế, hàng năm, trước khi mở những chiến dịch mùa xuân, theo một tục lệ rất lâu đời, người ta duyệt lại các chiến binh, đoàn vệ binh quý tộc phục vụ Sa hoàng. Vaxili và Mikhail lên mình ngựa. Ngựa của Digan và của Alioska được tháo ra khỏi xe để cho hai nông nô của Volkov cưỡi không yên. Tên nông nô thứ ba được lệnh phải nói rằng ngựa của nó đã bị thương ở chân trên đường đi. Còn hai chiếc xe thì họ bỏ lại. Digan níu chặt lấy chiếc bàn đạp: "Đem ngựa của tôi đi đâu thế nầy? Thưa lãnh Chúa! Xin lãnh chúa hãy rủ lòng thương!…" Vaxili giơ roi chỉ vào mặt Digan đe doạ: "Mầy có câm ngay mồm đi không!…". Khi Vaxili đã đi khỏi, Digan nguyền rủa không tiếc lời, quẳng vòng cổ ngựa và vai ngựa lên xe, rồi hậm hực chui vào đống rơm nằm. Người ta quên khuấy mất Alioska. Thu dọn xong bộ yên cương để vào trong xe, Alioska đứng đợi, đầu trần, mình khoác một tấm da cừu đã thủng lỗ chỗ, chẳng bao lâu nó rét cóng. Nhưng số phận của nông dân là thế: phải kiên nhẫn chịu đựng. Bỗng mũi nó ngửi thấy một mùi vị ngon lành. Một bác bán hàng rong đi qua, béo tròn trùng trục, mắt ti hí, đầu đội mũ lông thỏ rừng, đeo ở bụng một cái mẹt đựng nhiều bánh chả nhỏ nóng hổi, trên phủ một mảnh vải cũ nát. Bác bán hàng tinh quái liếc nhìn về phía Alioska, lật một góc mảnh vải che, nói: "Bánh chả nóng sốt vàng ngậy đây!". Mùi bánh thơm lôi cuốn Alioska. Nó bước theo người bán bánh hỏi: - Bao nhiêu tiền một cái thế bác? - Nửa kopeik một đôi. Ngon chết đi được! Alioska ngậm trong mồm, áp vào bên trong má, đồng nửa kopeik của mẹ cho trước kia để dỗ nó khi đem bán nó cho lãnh chúa làm nông nô. Nó tiếc không muốn mất tiền nhưng lại đói đau cả bụng. - Thôi, cho một đôi, - Alioska xẵng giọng nói. PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy Nó mua bánh rồi ăn ngay; quả thật, từ trước đến nay nó chưa bao giờ được ăn thức gì ngon như vậy! Nhưng khi nó trở lại chỗ xe thì chẳng thấy roi lẫn vòng cổ ngựa, đai da buộc ngựa vào xe đâu nữa có kẻ đã lấy cắp mất rồi. Nó chạy vội đến chỗ Digan hỏi, bác ta nằm lì trong đống rơm chửi rủa. Alioska hoảng sợ, bủn rủn chân tay, đầu óc choáng váng. Nó ngồi xuống thành xe khóc rồi lại nhổm dậy, chạy xổ ra đón những người qua lại hỏi: "Các bác có trông thấy đứa lấy trộm những thứ của tôi không?". Mọi người cười rộ. Biết làm thế nào bây giờ đây? Alioska chạy vụt qua quảng trường đi tìm lãnh chúa. Volkov ngồi trên ngựa, một tay chống nẹ, đầu đội mũ đồng; bộ giáp sắt che kín ngựa và bụng, phủ một lớp sương giá. Thật không tài nào nhận ra Volkov nữa: trông hắn không khác một con chim ưng! Đứng sau Volkov là hai nông nô cũng cưỡi ngựa, mặc áo dạ dài, béo tròn như những cái chum, vai vác gậy. Quả là chiến sĩ hiên ngang! Trông chúng thật lố bịch, ngốc nghếch. Bản thân chúng cũng nhận thấy thế nên chúng cười hềnh hệch. Alioska vừa lau nước mắt vừa kể lại tai hoạ của mình, giọng lè nhè thảm hại. - Chỉ tại mầy thôi? - Vaxili mắng. - Bố mầy sẽ quật cho mầy một trận. Nếu bố mầy không mua đền bộ đồ thắng ngựa khác tao sẽ cho đánh róc xác bố mầy ra. Xéo ngay, đừng có luẩn quẩn trước ngựa tao nữa! Vừa lúc đó, gã thơ lại cà khẳng cà kheo, tay vung vẩy tờ giấy, gọi đến Vaxili. Volkov lập tức phi nước đại mấy nông nô thúc gót ủng gai vào bụng ngựa theo sau, cả bọn lao về phía cửa ô Nikolskie, tới chỗ vị vương hầu khét tiếng oai nghiêm Fedor Yurievich Romodanovski đang ngồi bên bàn, đầu đội mũ lông cao ngất nghểu, mình khoác hai chiếc áo choàng: một chiếc bằng nhung mặc ở trong và choàng ra ngoài là một chiếc bằng da cừu, mặt có lông quay vào trong. "Làm thế nào bây giờ đây? Mũ đã mất mà bộ đồ thắng ngựa cũng chẳng còn" - Alioska ti tỉ khóc thầm, đi lang thang khắp quảng trường. Mikhail Tyktov lên tiếng gọi nó. Từ trên mình ngựa cao chót vót, Mikhail cúi xuống, nắm lấy vai Alioska: - Nầy Alioska! - Mikhail nói, mắt đẫm lệ, môi run run. - Hãy vì Chúa, chạy ngay đến cửa ô Tverkie, hỏi thăm đến nhà giám mã Danila Melsikov. Vào được rồi mầy hãy sụp xuống chân ông ra, lậy ba lậy. Mầy sẽ nói thế nầy: ông Mikhail xin ông ra ơn cho một việc… Ngựa của ông ta bị thương… thật là một sự nhục nhã… Ông ta khẩn khoản xin ông cho mượn một con ngựa trong một ngày để ông ta có thể cưỡi đi trình diện. Mầy không quên đấy chứ? Bảo ông ấy rằng ta sẽ đền ơn. Nếu cần phải giết một người để có ngựa ta cũng làm. Mầy cứ khóc lóc, van lạy nhiều vào… - Con sẽ van lạy ông ta như đức ông bảo nhưng nếu ông ấy chối từ thì làm thế nào? - Alioska hỏi. - Thế thì tao sẽ chôn sống mầy đến tận cổ! - Mikhail trợn mắt phồng mũi nói. Sợ cuống cả người, Alioska cắm đầu cắm cổ chạy đi làm cho xong việc Mikhail sai bảo. Suốt cả ngày, Mikhail chưa hề ăn tí gì, nên rét cóng trên mình ngựa… Mặt trời lặn dần trong đám PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy sương mù lạnh lẽo. Tuyết ngả màu phơn phớt xanh. Tiếng vó ngựa nghe càng giòn giã hơn. Hoàng hôn đã xuống; từ các gác chuông và tháp nhà thờ khắp Moskva, tiếng chuông báo giờ cầu kinh chiều vang lên. Vaxili vẻ mặt ủ rũ, đầu cúi gằm, cho ngựa đi thủng thẳng bước một, qua chỗ Mikhail mãi không thấy Alioska về. Nó không trở lại nữa. Chú thích: (1) Kalats: bánh mì nhỏ hình khoá. Aleksey Nikolaievich Tolstoy PIE ĐỆ NHẤT Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương Chương 6 Trong căn phòng thấp nóng hầm hập, những ngọn đèn trong đêm thắp trước tranh thánh rọi ánh sáng lên trần nhà xây cuốn tò vò và những bức hoạ âm u phủ kín trần, vẽ chim muông ở thiên đường và cành lá xoáy cuộn trôn ốc. Nằm trên chiếc bục rộng, dưới những bức tranh thánh tối sầm, Sa hoàng Fedor Alekseevich đang hấp hối, cái thân hình bạc nhược của lão chìm trong đống đệm nhồi lông thiên nga. Người ta đã chờ đợi việc nầy từ lâu: Sa hoàng mắc bệnh hoại huyết, cả hai chân phù thủng. Hôm đó lão không thể đứng nghe đọc kinh buổi sáng được nữa, lão phải ngồi xuống ghế, rồi bỗng ngã lăn quay ra. Người ta vội vàng vực lão dậy nhưng tim lão chỉ còn thoi thóp, lão được đặt nằm dưới chỗ treo tranh thánh. Đôi chân lão phù thủng to như cột nhà, rồi đến lượt bụng lão chướng lên. Viên thầy thuốc người Đức được triệu đến chữa bệnh, đã chích rút nước ra, lão đã bớt đau, rồi cứ thế thỉu dần, lỗ mắt trũng thâm quầng, đầu mũi nhọn hoắc. Có một lúc lão lẩm bẩm cái gì đó nhưng chẳng ai hiểu lão nói gì. Viên thầy thuốc người Đức cúi xuống, ghé tai sát đôi môi nhợt nhạt không còn hột máu của lão. Sa hoàng giọng thều thào ú ớ đọc những vần thơ bằng tiếng la-tinh. Viên thầy thuốc tưởng chừng như nghe thấy trong những tiếng lẩm bẩm của lão một câu thơ của Ovide (1)… Đọc thơ Ovide trong giờ hấp hối? Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, Sa hoàng đã mê man bất tỉnh… Bây giờ thì đến hơi thở của lão cũng không còn nghe thấy nữa. Giáo trưởng Ioakim, khuôn mặt khắc khổ, vàng ệch, đang ngồi trên một chiếc ghế gập kiểu Ý bên cạnh cửa sổ phủ một lớp sương giá, ánh PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy trăng lấp lánh trên những ô kính nhỏ hình tròn. Mình mặc áo khoác đen và áo tu sĩ có đính cây thánh giá trắng tam cánh, vị giáo trưởng ngồi đấy, người còng xuống, không nhúc nhích, như hiện thân của tứ thần. Hoàng hậu Marfa Matveevna đứng một mình gần tường đưa cặp mắt mờ lệ nhìn về phía chồng đang hấp hối, chỉ trông thấy vầng trán hẹp và cái mũi nhọn hoắc giữa đống chăn đệm nhồi lông chim. Hoàng hậu mới có 17 tuổi. Gia đình nàng - gia đình Apraxin - vốn nghèo, nàng được chọn đưa vào cung vì có nhan sắc. Nàng lên ngôi hoàng hậu mới được có hai tháng. Khuôn mặt bé nhỏ hơi đần của nàng, có đôi mày đen, sưng húp vì khóc. Nàng khóc nức nở như trẻ con và bẻ ngón tay kêu răng rắc: nàng không dám khóc to. Ở cuối phòng, dưới những vòm tối tăm, đám họ hàng đông đúc của Sa hoàng đang xì xào bàn tán thôi thì đủ mặt: chị, em, cô, dì, chú, bác và có cả đám cận thần của Sa hoàng: Ivan Maximovich Yazykov, người thấp bé, đẫy đà, tốt bụng, ăn nói ngọt ngào, rất khôn khéo và sành sỏi về những nghi thức trong triều; Aleksey Timofeevich Likbasev, một bực lão thành đạo mạo, mặt hốc hác, học vấn uyên thâm, đại thị thần của Sa hoàng, và vương hầu Vaxili Vaxilievich Golixyn đẹp như tranh, mặc y phục kiểu Ba Lan, chòm râu cằm loăn xoăn có đường ngôi ở giữa, bộ ria vểnh người, tóc cắt ngắn kiểu Ba Lan, người tầm thước, chân đi ủng ngắn da mềm gót cao. Cặp mắt xanh của vương hầu Vaxili Vaxilievich Golixyn, sáng quắc vì xúc động. Giờ phút quyết định đã đến: phải chỉ định một Sa hoàng mới. Nhưng chọn ai? Piotr hay Ivan? Con của Narytakina hay con của Miloslavskaia? Cả hai đều còn là trẻ con chưa hiểu gì cả nhưng có thế mạnh ở chỗ quan hệ gia đình. Piotr rất thông minh, thân thể cường tráng, Ivan thì ngớ ngẩn, ốm yếu, bảo sao nghe vậy… Trong hai người ai hơn? Chọn ai? Vaxili Vaxilievich, nghiêng người tựa vào cái cửa có hai cánh bịt đồng, dán tai vào đó chăm chú nghe: trong đại diện bên cạnh, bọn đại thần đang bàn cãi om sòm. Từ sáng đến giờ, phe Narytskin và phe Miloslavski, cùng vây cánh của họ, vã mồ hôi ra như tắm trong áo lông, chẳng ăn chẳng uống gì. Căn phòng chật ních người: bọn đại thần lăng mạ lẫn nhau, trút oán hờn lên đầu nhau; họ cảm thấy rằng hôm nay có người sẽ thăng quan tiến chức đồng thời cũng có kẻ sẽ lâm cảnh tù đày. - Nghe kìa, ồn ào như cái chợ, - Vaxili Vaxilievich lẩm bẩm, rồi đi đến chỗ Yazykov nói khẽ bằng tiếng Ba Lan: - Ivan Maximovich nầy, dù sao thì ông cũng nên hỏi ý kiến cụ giáo trưởng xem cụ tán thành ai. Yazykov, tóc quăn, râu vàng hoe mọc lan cả lên má, miệng đỏ như son, vừa ngọt ngào mỉm cười vừa đưa mắt nhìn từ dướỉ lên trên. Tiết trời nóng nực đã làm cho Yazykov toát mồ hôi, người toả ra mùi dầu thơm hoa hồng: - Giáo trưởng và cả chúng tôi nữa đang đợi ý kiến của ngài đấy, thưa vương hầu quý mến… nhưng tôi cho rằng sự lựa chọn của chúng ta đã dứt khoát rồi… Likhasev bước lại gần, cất tiếng thở dài, bàn tay trắng muốt nhẹ nhàng đặt lên chòm râu: PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy - Trong giờ phút nghiêm trọng nầy, chúng ta không nên chia rẽ, Vaxili Vaxilievich ạ. Chúng tôi đã suy nghĩ như thế nầy: Ivan mà làm Sa Hoang thì khó đấy và cũng chẳng được bao lâu vì yếu đuối quá. Chúng ta cần có một Sa hoàng tráng kiện. Vaxili Vaxilievich nheo mắt, đôi môi duyên dáng thoáng nở một nụ cười bên mép. Hắn hiểu rằng, trong lúc nầy tranh luận là một điều nguy hiểm. - Vậy ta cứ quyết định thế, - Vaxili Vaxilievich nói - Piotr sẽ lên ngôi Sa hoàng. Hắn người nhìn lên, bỗng cặp mắt xanh của hắn chớp chớp dào dạt yêu thương. Vị vương hầu nhìn công chúa Sofia, người em gái thứ sáu của Sa hoàng, vừa tới. Công chúa không bước vào phòng thong thả như một thiên nga đang bơi, đúng cung cách một tiểu thư. Không, Sofia xồng xộc đi vào, chiếc áo dài mùa nực màu sặc sỡ tuột cúc nơi bộ ngực đồ sộ, tà áo phanh ra, những dãy băng đỏ trên mũ miện có sừng bay phấp phới. Dưới lớp phấn trắng, phấn hồng, khuôn mặt không đẹp của công chúa lấm chấm tàn hương. Công chúa có một thân hình vạm vỡ, béo lùn, chắc nịch và đầu to. Cái trán dô, cặp mắt xanh lá cây và cái miệng với đôi môi mím chặt là của một người đàn ông hơn là của một thiếu nữ. Công chúa nhìn Vaxili Vaxilievich và hình như đã hiểu vương hầu vừa nói gì và đã trả lời gì. Lỗ mũi phập phồng lộ vẻ khinh bỉ, Sofia quay về phía giường kẻ hấp hối, chắp mạnh hai bàn tay kêu thành tiếng, co ngón tay lại rồi quỳ xuống thảm, tì trán vào chiếc chăn. Vị giáo trưởng ngâng đầu lên, cặp mắt lờ đờ nhìn chằm chặp vào gáy Sofia và những mớ tóc tết đuôi sam bỏ xoã. Mọi người có mặt trong phòng lo lắng chờ đợi. Năm công chúa kia đưa tay lên làm dấu. Vị giáo trưởng đứng dậy, nhìn Sa hoàng hồi lâu. Hất ngược đôi tay áo đen lên, lão làm dấu thánh giá ban phép lành cho kẻ sắp chết, rồi bắt đầu đọc bài kinh của những kẻ hấp hối. Sofia đưa hai bàn tay lên ôm lấy gáy, rú lên một cách man rợ rồi bắt đầu kêu gào, giọng trầm trầm. Mấy người chị Sofia cũng phụ hoạ theo. Hoàng hậu Marfa Matveevna, ngồi thụp xuống mặt áo vào bục. Fedor Matveevich Apraxin, người anh cả của nàng cao lớn, béo phệ, mặc áo lông dài đến tận gót, bước lại gần, lấy tay vuốt ve lưng nàng. Yazykov chạy vội đến chỗ vị giáo trưởng đứng, hôn tay lão rồi đỡ cánh tay lão dìu đi. Vị Giáo trưởng, Yazykov, Likhasev và Golixyn đi vội sang bên đại diện. Bọn đại thần ùa ra đón, tay áo vung vẩy, chòm râu vểnh người, mắt dương dương, trâng tráo, hỏi: "Sao, thế nào, thưa Đức Cha?" - Sa hoàng Fedor Alekseevich đã qua đời yên lành… Chư vị đại thần, chúng ta hãy thương khóc hoàng thượng đã quá cố? Chẳng ai buồn nghe lời giáo trưởng, bọn đại thần xô đẩy chen nhau qua cửa, hối hả chạy đến chỗ người chết, quỳ xuống, dập đầu xuống thảm, rồi nhỏm dậy hôn hai bàn tay Sa hoàng nhợt nhạt như sáp đã chắp lại trên ngực. Bầu không khí ngột ngạt đến nỗi các ngọn đèn dong đêm nổ lép bép và bắt đầu lụi. Sofia được dìu ra khỏi phòng Vaxili Vaxilievich đã biến mất. Người ta thấy hai anh em Piotr và Boris Alekseevich, - vương hầu xứ Golixyn, lão vương hầu Yakov PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy Dolgoruki, trông gớm chết với mớ tóc đen và cặp lông mày rậm, cùng với lũ anh em của hắn: Luka, Boris, Grigori, tiến lại gần Yazykov. Yakov nói: - Bọn tôi có mang dao găm và áo giáp dưới làn quần áo ngoài… Thế nào, có cần phải suy tôn Piotr lên ngôi không? - Các vị hãy ra ngoài thềm cho dân chúng thấy. Đợi lúc giáo trưởng ra đứng cùng với các vị, lúc bấy giờ chúng ta sẽ suy tôn Sa hoàng… Và nếu có kẻ nào nêu tên Ivan Alekseevich thì cứ đâm chết lũ kẻ cướp ấy đi. Một giờ sau, vị giáo trưởng bước ra đứng trên Thềm Đỏ ban phước lành cho đám dân chúng tụ tập trên quảng trường - bọn xtreletz, con em quý tộc, chiến binh, nhà buôn, thợ thủ công - và hỏi ý kiến họ xem trong hai hoàng tử ai là người đáng lên ngôi Sa hoàng. Người ta chất củi đốt lửa cho sáng. Phía sau sông Moskva, mặt trăng đang lặn dần, ánh sáng lờ mờ lạnh lẽo, lấp lánh trên nóc nhà hình tròn. Trong đám đông có người hô: - Chúng tôi muốn Piotr Alekseevich. Một giọng khàn khàn kêu: - Chúng tôi muốn Ivan… Nhiều người xông về phía có tiếng nói đó và tiếng nói im bặt. Thế là đám đông hô to hơn: "Piotr, Piotr!…" Chú thích: (1) Nhà thơ thời La-mã cổ (43 trước Công nguyên -16 sau công nguyên) Aleksey Nikolaievich Tolstoy PIE ĐỆ NHẤT Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương Chương 7 Trong sân nhà Danila, hai con chó giữ nhà điên cuồng đến nghẹt thở, lăm le chồm lên cắn Alioska. Một con bé con môi dầy vẩy, chiếc áo lông tàng trùm lên đầu, bảo Alioska lên cầu thang có phủ một PIE ĐỆ NHẤT Aleksey Nikolaievich Tolstoy lớp băng mỏng dẫn đến buồng khách. Con bé cười gằn, chẳng ai hiểu tại sao, rồi chui tọt vào gầm thềm nhà ở tầng dưới cùng tối om, trong đó mấy thanh củi to đang lập lòe cháy trong lò. Alioska vừa leo lên cầu thang, vừa lắng tai nghe: trên gác có tiếng người kêu như bị lột da. "Phen nầy mình khó mà sống sót thoát khỏi nơi đây" - Alioska nghĩ thầm. Nó rút cái chốt con buột lòng thòng ở đầu một sợi dây rồi gắng sức kéo cánh cửa ẩm sũng bật ra khỏi khuôn: một luồng không khí nóng và mùi củ cải đen lẫn mùi rượu vodka xộc vào mũi. Dưới chỗ treo tranh liệt thánh, hai người đàn ông đang ngồi trước một cái bàn có bày thức nhắm: một thầy tu, tóc tết đuôi sam nhỏ, râu hung hung đỏ xòe ra như cái quạt và một người béo lùn mặt rỗ, mũi lõ. Họ vừa cầm cốc sắt gõ chan chát xuống bàn vừa hét: - Nhét vào đít cho nó một ít trí khôn! Nhân vật thứ ba là một lão to béo, mặc áo lót rộng thùng thình màu quả dâu, đang kẹp một người vào giữa hai đầu gối, lấy dây lưng da quất vào mông đít lột trần. Đôi mông còm nhom, lằn vết roi, dãy dụa, tìm cách tránh đòn - "Ái, ái, lạy bố!", kẻ bị quất kêu toáng lên. Alioska sững sờ cả người. Trông thấy nó, người mặt rỗ chớp chớp đôi mi trụi sạch hết lông. Lão thầy tu bá miệng rộng hoác, cất giọng lè nhè quát: - Lại một thằng nhãi nữa, tiện tay cho nó một trận đi thôi! Alioska đứng xoạc hai chân đi ủng gai, vươn cổ ra. "Phen nầy thì thật chết…". Lão to béo quay người lại. Một thằng bé, mắt tròn xoe, màu xanh nhạt, luồn qua háng lão, hai tay đỡ quần, chạy tọt ra cửa rồi biến mất. Alioska bèn làm theo lệnh Mikhail đã bảo, thụp ngay xuống chân lão to béo và dập đầu xuống sàn nhà ba lần. Lão ta túm lấy cổ áo Alioska, nhấc nó đứng dậy, kéo nó lại sát cái mặt đỏ như gấc, nhễ nhại mồ hôi và phì phò vào mặt thằng bé một hơi thở nóng hổi sặc sụa mùi rượu mạnh: - Mầy đến đây làm gì? Ăn cắp à? Dò la à? Hay định xoáy cái gì ngoài sân? Alioska hai hàm răng lập cập trình bày là Tyktov sai đến. Mạch máu của lão mặt đỏ căng phồng lên: lão chẳng hiểu gì cả… "Tyktov nào? Ngựa nào? A, ra mầy đến lấy một con ngựa phải không? Mầy là một thằng ăn trộm ngựa…" Alioska khóc sướt mướt, thề sống thề chết, ba ngón tay chụm lại làm dấu. Lão mặt đỏ như gấc liền điên tiết túm tóc Alioska lôi xềnh xệch, tiếng ủng nện thình thịch, giơ chân đạp tung cửa rồi quẳng Alioska xuống chân cầu thang phủ băng giá. - Tống cổ thằng ăn cắp ra khỏi sân, - lão hét lên, chân bước loạng choạng. - Sarok, Brovka, cắn nó đi! Danila Melsikov, cúi đầu xuống như con bò mộng, bước qua cửa trở vào ngồi cạnh bàn. Lão vừa thở hồng hộc, vừa rót rượu đầy hai cốc sắt, rồi bốc một nhúm củ cải đen: - Nầy anh bạn tu sĩ, anh đã từng đọc kinh thánh nhiều, chắc anh phải nắm vững vấn đề. - Lão càu nhàu nói. - Thằng con tôi không chịu vâng lời… Nó thật là một thằng kẻ cướp, một thằng nhãi ranh
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan