BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
ĐỖ PHƢƠNG THẢO
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT
CHO HỌC VIÊN HÀN QUỐC THEO HƢỚNG VẬN DỤNG
NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
Chuyên ngành: LL&PPDH bộ môn Văn và Tiếng Việt
Mã số: 9.14.01.11
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
HÀ NỘI - 2019
Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: 1.
GS.TS Lê A
2. PGS.TS Trịnh Thị Lan
Phản biện 1: GS.TS Nguyễn Thiện Giáp – Trường ĐHKHXHNV - ĐHQGHN
Phản biện 2: GS.TS Lê Phƣơng Nga – Trường ĐHSP Hà Nội
Phản biện 3: PGS.TS Đỗ Huy Quang – Trường ĐHSP Hà Nội 2
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm…
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc Gia, Hà Nội
hoặc Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Năng lực từ ngữ là thành tố quan trọng của năng lực ngôn ngữ, giữ vai trò
quyết định đối với khả năng giao tiếp của mỗi người
NL từ ngữ là một thành tố của NL ngôn ngữ được các nhà giáo dục học xếp
vào loại NL công cụ vì nó đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp phương tiện
để người học có thể đạt được các NL khác một cách hiệu quả. Đối với người học và
giao tiếp bằng ngoại ngữ hoặc ngôn ngữ thứ hai, NL từ ngữ có ý nghĩa tạo tiền đề cho
việc phát triển các loại NL khác, cũng là một trong những thước đo trình độ phát triển
NL ngôn ngữ, NL giao tiếp của người học. Đối với việc giảng dạy TV, đặc biệt là dạy
TV như một ngoại ngữ, từ vựng trở thành một chiếc chìa khóa quan trọng để mở cánh
cửa giúp người học đi vào thế giới ngôn ngữ và văn hóa VN.
1.2. Ngôn ngữ học tri nhận có khả năng giúp người học ngoại ngữ phát triển năng
lực ngôn ngữ, năng lực từ ngữ
Đối với việc dạy học từ vựng, vận dụng lí thuyết của NNHTN vào việc giảng
dạy từ vựng TV cho người nước ngoài giúp chúng ta vừa có một cơ sở văn hóa vững
chắc trong việc lí giải nhiều hiện tượng từ ngữ cho người học, vừa đi đúng mục tiêu
gắn liền việc học ngôn ngữ của một dân tộc với văn hóa giao tiếp của dân tộc đó. Từ
đó, có thể góp phần phát triển NL từ ngữ cho người nước ngoài học TV phù hợp với
đặc trưng của từng cá nhân và đặc trưng của ngôn ngữ, văn hóa nguồn và đích.
1.3. Thực tế giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ hiện nay chưa tận dụng được lợi
thế của Ngôn ngữ học tri nhận trong việc phát triển năng lực từ ngữ của người học
Việc ứng dụng lí thuyết của ngôn ngữ học cơ bản nói chung và NNHTN nói
riêng vào giảng dạy TV như một ngoại ngữ hiện nay còn chưa thực sự phổ biến. Bức
tranh giảng dạy Việt ngữ cho người nước ngoài nhìn chung còn chưa được soi chiếu
bởi ánh sáng của lí thuyết ngôn ngữ, đặc biệt là NNHTN. Riêng đối với việc dạy học
từ vựng, có thể nhận thấy, nhiều lợi thế của NNHTN trong việc phát triển NL từ ngữ
cho người học chưa được phát huy trong thực tiễn dạy học TV cho người nước ngoài
ở VN hiện nay.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là việc phát triển NL từ ngữ TV cho HV HQ
theo hướng vận dụng NNHTN, bao gồm việc đề xuất các biện pháp dạy học từ ngữ
TV và xây dựng hệ thống BT nhằm phát triển NL từ ngữ TV cho HV HQ.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi chỉ lựa chọn đối tượng khảo sát và thực nghiệm là HV HQ đang học
TV như một ngoại ngữ ở VN vì họ có số lượng đông đảo hơn hẳn HV đến từ các
quốc gia khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để vận dụng một số thành tựu của NNHTN vào phát triển NL từ
ngữ TV của HV HQ, nhằm nâng cao NL từ ngữ nói riêng, NL sử dụng TV nói chung
của HV HQ.
1
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, tìm hiểu tổng quan các tài liệu nghiên cứu.
Thứ hai, khảo sát thực trạng tài liệu dạy học và việc dạy học từ vựng TV cho
HV HQ, thực trạng NL từ ngữ của HV HQ ở một số cơ sở đào tạo TV hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số BP dạy học điển hình và gợi ý quy trình xây dựng một
hệ thống BT nhằm phát triển tốt nhất NL từ ngữ cho HV HQ.
Thứ tư, tiến hành TN sư phạm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong quá trình triển khai
luận án là: PP phân tích, tổng hợp tài liệu; PP điều tra, khảo sát thực tiễn; PP phỏng
vấn sâu; PP so sánh, đối chiếu; PP thực nghiệm sư phạm; PP thống kê, xử lí số liệu…
5. Giả thuyết khoa học
Mặc dù NNHTN có lợi thế rất lớn trong việc phát triển năng lực từ ngữ cho
người học ngoại ngữ nhưng thực tế vận dụng NNHTN vào việc dạy học từ vựng TV
cho HV HQ ở VN hiện nay chưa thực sự phổ biến. Nếu HV HQ được học từ ngữ TV
bằng các phương pháp và BP dạy học tích cực theo hướng vận dụng NNHTN, kết hợp
với việc luyện tập bằng một hệ thống BT phát triển NL từ ngữ mà luận án đề xuất thì
năng lực từ ngữ TV nói riêng và năng lực giao tiếp bằng TV nói chung của họ sẽ được
nâng cao một cách rõ rệt.
6. Dự kiến đóng góp của luận án
6.1. Về mặt lí luận
Kết quả của luận án dự kiến sẽ đóng góp vào việc kiểm chứng tính đúng đắn và
khả năng ứng dụng của NNHTN, đặc biệt là Ngữ nghĩa học tri nhận trong nghiên cứu
và giảng dạy ngôn ngữ thứ hai hoặc ngoại ngữ ở VN, đồng thời bổ sung thêm một số
BP hiệu quả vào hệ thống các BP dạy học từ ngữ cho người nước ngoài học TV như
một ngôn ngữ thứ hai.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ được ứng dụng trực tiếp vào việc nghiên cứu và giảng
dạy từ vựng TV cho người nước ngoài: những định hướng về mặt nội dung sẽ đóng
góp vào việc xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình TV cho người nước ngoài;
những định hướng về mặt BP sẽ góp phần hoàn thiện kĩ năng của người dạy và người
học, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả của việc thụ đắc TV.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung
chính của luận án gồm 4 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chƣơng 2: Cơ sở khoa học của việc phát triển năng lực từ ngữ tiếng Việt cho học
viên Hàn Quốc theo hướng vận dụng NNHTN
Chƣơng 3: Tổ chức phát triển năng lực từ ngữ tiếng Việt cho học viên Hàn Quốc
theo hướng vận dụng NNHTN
Chƣơng 4: Thực nghiệm sư phạm
2
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu về việc ứng dụng Ngôn ngữ học tri nhận vào dạy học ngôn
ngữ nói chung, dạy học tiếng Việt cho người nước ngoài nói riêng
1.1.1. Trên thế giới
a. Những nghiên cứu về Ngôn ngữ học tri nhận
Hiện nay, NNHTN thế giới phát triển theo hai hướng nghiên cứu chính: Ngữ
nghĩa học tri nhận và Ngữ pháp học tri nhận. Trong hai hướng nghiên cứu này,
chúng tôi tập trung tìm hiểu hướng thứ nhất: Ngữ nghĩa học tri nhận, bởi vì sự nghiên
cứu ngữ nghĩa học vẫn phong phú và đa dạng hơn, đồng thời nó cũng phù hợp với
hướng đi chính của luận án.
b. Những nghiên cứu về việc ứng dụng Ngôn ngữ học tri nhận vào dạy học ngoại ngữ
Ở châu Âu, châu Mĩ, trong khoảng 10 năm trở lại đây, nhiều tác giả đã khẳng
định mối quan hệ rõ ràng, dễ thấy của NNHTN và việc thụ đắc ngôn ngữ thứ hai,
đồng thời đề xuất những cách tiếp cận theo hướng tri nhận đối với việc giảng dạy
ngoại ngữ, tiêu biểu như: M. Archard & S. Niemeier (2004); P. Robinson & N.C.
Ellis (2008); J. Littemore (2009); De Knop et al (2010)… Ở Trung Quốc, Lưu Huýnh
(2000) có liệt kê hệ thống các phương pháp giảng dạy ngôn ngữ thứ hai, trong đó có
đề cập đến phương pháp tri nhận.
1.1.2. Ở Việt Nam
Tiêu biểu phải ghi nhận công lao của các tác giả sau: Lý Toàn Thắng (2005),
Trần Văn Cơ (2006), (2007), Lê Quang Thiêm (2006), Diệp Quang Ban (2008),
Nguyễn Lai (2010), Nguyễn Thiện Giáp (2012), Đỗ Việt Hùng (2013)…
Phần lớn các đề tài tập trung nghiên cứu về ngữ nghĩa học tri nhận với các vấn
đề nổi bật như: ẩn dụ ý niệm, đặc trưng văn hóa dân tộc của tư duy và ngôn ngữ, các
nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ (TV và các ngoại ngữ)… mà rất ít, thậm chí có thể
khẳng định là chưa có công trình nào đi theo hướng nghiên cứu ứng dụng lí thuyết
của NNHTN vào việc giảng dạy TV, đặc biệt là dạy TV như một ngoại ngữ.
1.2. Những nghiên cứu về năng lực từ ngữ và phát triển năng lực từ ngữ của người
học
1.2.1. Nghiên cứu về năng lực từ ngữ
Theo cách hiểu của một số nhà nghiên cứu, từ vựng là một trong những “bộ
mã” ngôn ngữ và NL từ ngữ là một trong những bộ phận cấu thành của “NL ngôn
ngữ” (Chomsky, 1965) hoặc “NL ngữ pháp” (Canale và Swain, 1980; Canale, 1983).
Sau đó, Richards (1976), S.P. Nation (1990), Joanna Channell (1988) đều thống nhất
quan điểm: một người “biết” (knowing) về một từ nghĩa là phải thỏa mãn các điều kiện
trên cả hai phương diện tiếp nhận và tạo lập từ: một mặt phải biết/ hiểu về dạng thức
của từ, vị trí của từ trong cấu trúc ngữ pháp, chức năng và ý nghĩa của từ trong và
ngoài ngữ cảnh; mặt khác phải biết cách tạo lập và sử dụng từ cho phù hợp với những
kiến thức về từ mà mình đã biết. Nếu thỏa mãn cả hai điều kiện trên, người đó có thể
được coi là đã thụ đắc từ (word acquisition).
1.2.2. Nghiên cứu về phát triển năng lực từ ngữ của người học
1.2.2.1. Ở nước ngoài
Trước hết, phải kể đến một số lượng lớn các chiến lược học từ vựng của
Schmitt (1997); Oxford (1990)... Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng đề xuất hàng loạt
3
các chiến lược thụ đắc từ vựng khác dựa trên khả năng hoạt động của tư duy và bộ
nhớ. Trong đó, các phương pháp liên quan đến tri nhận thường được biểu hiện dưới
dạng phương pháp so sánh tiếng mẹ đẻ với ngôn ngữ đích hoặc phương pháp sử dụng
hàm nghĩa văn hóa…
1.2.2.2. Ở Việt Nam
a. Phát triển năng lực từ ngữ tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ đẻ
Những công trình nghiên cứu tiêu biểu của ngôn ngữ học cơ bản về từ vựng
TV của các tác giả trong nước là: Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt (1981), Cơ sở ngữ
nghĩa học từ vựng (1987), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt (1999) của Đỗ Hữu
Châu; Từ vựng học tiếng Việt (2009) của Nguyễn Thiện Giáp…
Về phương pháp dạy học từ ngữ TV với tư cách là tiếng mẹ đẻ, tiêu biểu phải
kể đến công trình Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học I và II của Lê Phương
Nga (1995), Phương pháp dạy học tiếng Việt của Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi
Minh Toán (1997), Luận án Tiến sĩ Hệ thống bài tập rèn luyện năng lực từ ngữ cho
học sinh tiểu học của Lê Hữu Tỉnh (2001)…
b. Phát triển năng lực từ ngữ tiếng Việt với tư cách là một ngoại ngữ
Về phương pháp dạy học từ ngữ TV cho người nước ngoài, hiện nay đã có một
số bài viết bước đầu nghiên cứu và đề cập đến. Rất ít công trình nghiên đi theo hướng
ứng dụng lí thuyết của NNHTN vào việc định hướng phương pháp giảng dạy TV cho
người nước ngoài như hướng dự định nghiên cứu của chúng tôi.
c. Phát triển năng lực từ ngữ tiếng Việt cho học viên Hàn Quốc
Lựa chọn đối tượng người học là người HQ và đi sâu thiết kế các phương
pháp, biện pháp dạy học TV cho phù hợp với những đặc trưng về tư duy và văn hóa
của họ là nội dung của một số bài viết và công trình khoa học trong nước, còn việc
tìm ra đặc trưng văn hóa và tư duy của người Hàn có ảnh hưởng đến việc học từ ngữ
của họ như thế nào, từ đó có phương pháp dạy học phù hợp dường như vẫn là mảnh
đất trống chưa có người khai phá.
Tiểu kết chƣơng 1
Từ tất cả những phương diện đã trình bày, có thể thấy một số vấn đề nổi bật
như sau: Thứ nhất, về NNHTN và khả năng ứng dụng của NNHTN trong nghiên cứu
và giảng dạy ngôn ngữ, hướng đi của NNHTN hứa hẹn giải đáp những thách thức có
tính bản chất của ngôn ngữ cũng như tâm trí. Thứ hai, về vấn đề phát triển NL từ ngữ
của người học ngoại ngữ nói chung và học TV như một ngoại ngữ nói riêng, trên thế
giới và ở VN đã hình thành một hệ thống lí thuyết với đầy đủ những nghiên cứu về
NL từ ngữ và các chiến lược phát triển NL từ ngữ.
Tuy vậy, tình hình nghiên cứu xoay quanh đề tài vẫn còn những vấn đề chưa
được giải quyết thấu đáo như: Thứ nhất, trong phạm vi ứng dụng là việc dạy học TV
như một ngoại ngữ thì những công trình nghiên cứu mang tính tích hợp giữa phương
pháp giảng dạy và lí thuyết của NNHTN vẫn còn khá ít, chưa có nhiều công trình
nghiên cứu toàn diện và sâu sắc. Thứ hai, riêng vấn đề vận dụng NNHTN vào việc
phát triển NL từ ngữ cho HV HQ học TV thì đến nay, ở VN chưa có một nghiên cứu
độc lập nào tập trung tìm hiểu một cách thấu đáo, trọn vẹn về đối tượng này dưới ánh
sáng của NNHTN.
4
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT CHO HỌC VIÊN HÀN QUỐC
THEO HƢỚNG VẬN DỤNG NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Từ ngữ dưới góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận
2.1.1.1 Khái niệm “từ ngữ”
Nói một cách cụ thể thì “tập hợp các từ và ngữ cố định được gọi là từ vựng của
ngôn ngữ” (Đỗ Hữu Châu (1981), tr.9). Còn “vốn từ” (vocabulary) là thuật ngữ “để
chỉ một bộ phận trong tập hợp từ vựng của ngôn ngữ” (Nguyễn Thiện Giáp (2010),
tr. 483). Khái niệm “từ ngữ” được dùng để chỉ các đơn vị của từ vựng nói chung, bao
gồm từ và ngữ cố định. Cũng từ đó mà khi nói về “phương pháp dạy học” hay “rèn
luyện NL sử dụng”, người ta thường dùng đi kèm với khái niệm “từ ngữ” mà không
phải là “từ vựng”.
2.1.1.2. Nghĩa của từ theo quan điểm Ngữ nghĩa học tri nhận
a. Khái niệm “ý nghĩa” và “ý niệm”
Với ngữ nghĩa học tri nhận, “ý nghĩa của từ có được không phải do quan hệ
phản ánh (trực tiếp hoặc gián tiếp) hay biểu hiện các thực thể của thế giới khách
quan bên ngoài; mà từ có nghĩa là vì nó biểu đạt cái ý niệm có trong tâm trí chúng ta
về thực thể nào đó” (Lí Toàn Thắng (2015), tr.53).
Theo đó, các đơn vị ngôn ngữ (như từ, ngữ) chỉ biểu đạt các ý niệm và những ý
niệm này tương ứng với các ý nghĩa của những đơn vị ngôn ngữ đó. Ý niệm cũng trở
thành đối tượng nghiên cứu quan trọng nhất của ngữ nghĩa học tri nhận.
b. Cấu trúc nghĩa và cấu trúc ý niệm
Theo ngữ nghĩa học tri nhận, cấu trúc ngữ nghĩa là ngang bằng với cấu trúc ý
niệm. Vì thế, dạy học ngôn ngữ nói chung và từ ngữ nói riêng phải đặt trọng tâm vào
việc giải mã đến cùng cái cấu trúc ý niệm của người sử dụng được phản ánh trong
ngôn ngữ. Đồng thời, trong dạy học ngoại ngữ/ ngôn ngữ thứ hai, cần chỉ cho ra cái
giao thoa của cấu trúc ý niệm trong ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích của người học,
cũng như cái đặc thù của cấu trúc ý niệm trong từng ngôn ngữ.
2.1.2. Phát triển năng lực từ ngữ dưới góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận
2.1.2.1. Mối quan hệ ngôn ngữ và tư duy, năng lực ngôn ngữ và năng lực tri nhận
a. Ngôn ngữ và tư duy
Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ với tư duy, NNHTN đã có cách nhìn nhận
“rộng hơn, khác hơn và mới hơn” so với ngôn ngữ học truyền thống (Lí Toàn Thắng
(2015), tr.23).
b. Năng lực ngôn ngữ và năng lực tri nhận
Khái niệm “tri nhận” về cơ bản là: một hệ thống những khả năng và quá trình
tinh thần của con người liên quan tới tri thức như: tri giác, ngôn ngữ, chú ý, kí ức, suy lí,
5
ra quyết định, giải quyết vấn đề, tư duy, học tập, đôi khi có thêm cả xúc cảm (Lí Toàn
Thắng (2015), tr.14).
Còn khái niệm “NL ngôn ngữ” được chúng tôi hiểu như trong mô hình mô tả
NL giao tiếp ngôn ngữ của “The Common European Framework of Reference for
Languages” (CEF hay CEFR): NL ngôn ngữ nói chung là kiến thức và khả năng sử
dụng vốn ngôn ngữ để tạo thành các thông báo, nó bao gồm: NL từ vựng, ngữ pháp,
ngữ nghĩa, âm vị học, chữ viết và NL phát âm chuẩn (Council of Europe (2001).
Như vậy, ngôn ngữ được tiếp cận nghiên cứu như một khả năng (năng lực) tri
nhận, một cơ chế tri nhận, một quá trình tri nhận hay một cấu trúc tri nhận. Nói cách
khác, ngôn ngữ không phải là một khả năng/ năng lực tự trị (autonomous). Tóm lại,
“cơ chế ngôn ngữ chỉ là một phần của cơ chế tri nhận phổ quát; ngôn ngữ chỉ là một
trong số những khả năng tri nhận của con người” (Lí Toàn Thắng (2015), tr. 46)và có
thể hiểu NL ngôn ngữ là một phần của NL tri nhận.
2.1.2.2. Ngôn ngữ học tri nhận với việc phát triển năng lực từ ngữ
a. Khái niệm và cấu trúc năng lực từ ngữ
Chúng tôi hiểu: Năng lực từ ngữ là khả năng huy động tổng hợp vốn từ và các
kiến thức về từ ngữ, các kĩ năng sử dụng từ ngữ cùng với các thuộc tính cá nhân về
tâm lí, tình cảm… để tiếp nhận và tạo lập văn bản nhằm giải quyết một cách có hiệu
quả những tình huống giao tiếp xác định cũng như những tình huống giao tiếp linh
hoạt trong cuộc sống.
Cấu trúc của NL từ ngữ do chúng tôi đề xuất bám sát theo cấu trúc của NL nói
chung. Nó bao gồm ba thành tố chính:
(1) Vốn từ và các kiến thức về từ ngữ trong vốn từ
(2) Các kĩ năng sử dụng từ ngữ để tiếp nhận và tạo lập văn bản.
(3) Các thuộc tính cá nhân về tâm lí, tình cảm như động cơ, niềm tin, ý chí, xúc
cảm… liên quan đến từ ngữ.
Bao trùm lên ba thành tố này là thành tố bối cảnh hành dụng từ ngữ.
b. Ngôn ngữ học tri nhận với việc hình thành các ý niệm ngôn ngữ
Chúng tôi quan tâm nhiều hơn đến các quá trình phạm trù hóa và ý niệm hóa, ẩn
dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm trong việc hình thành các ý niệm ngôn ngữ ở người học.
c. Ngôn ngữ học tri nhận với việc sử dụng và lí giải ngôn ngữ
Trong NNHTN, có một nguyên lí cơ bản là: Kiến thức về ngôn ngữ xuất phát
từ việc sử dụng ngôn ngữ. Vấn đề này có liên quan đến tính nổi trội và sự chú ý trong
việc lựa chọn và sắp xếp thông tin đã được chúng tôi giới thuyết ở phần trên. Ngoài
ra, người ta còn cần chú ý đến một số yếu tố sau: ngữ cảnh tri nhận và mô hình tri
nhận, không gian tinh thần, khung/ miền…
2.1.3. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của người Hàn Quốc và khả năng vận dụng
Ngôn ngữ học tri nhận vào việc phát triển năng lực từ ngữ cho học viên Hàn Quốc
2.1.3.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa dưới góc nhìn tri nhận
6
NNHTN nhấn mạnh mối quan hệ đặc biệt giữa văn hóa và ngôn ngữ, đặc biệt
chú ý đến “nét riêng biệt” về mặt tinh thần, mặt tâm lí giữa các dân tộc, hay nói cụ
thể hơn là “lối nghĩ riêng”, “cách tư duy riêng” của dân tộc đó về các sự vật, hiện
tượng của thế giới xung quanh, của tự nhiên, xã hội, con người ở đất nước đó.
2.1.3.2. Đặc trưng văn hóa và ngôn ngữ của người Hàn Quốc dưới góc nhìn so sánh
với Việt Nam
a. Văn hóa
Theo Trần Ngọc Thêm, sự đồng nhất và khác biệt về nguồn gốc tự nhiên quy
định sự đồng nhất và khác biệt về hệ thống các đặc trưng tính cách của hai dân tộc
Hàn Quốc và Việt Nam: ở cả hai dân tộc đều có những tính cách như: lối sống trọng
tình, khả năng linh cảm cao và tính trọng thể diện…; tuy nhiên, vẫn có những điểm
khác biệt đáng kể tạo nên đặc trưng tính cách của từng dân tộc như: nếu người HQ đề
cao “chủ nghĩa gia đình” thì người VN lại coi trọng “tính cộng đồng làng xã”; người
HQ có “tính nước đôi” vừa dương tính vừa âm tính thì người VN lại có “tính nước
đôi” vừa cộng đồng, vừa tự trị; người HQ có lối làm việc cần cù và khẩn trương thì
người VN lại có lối làm việc chừng mực… (Trần Ngọc Thêm (2004).
b. Ngôn ngữ
Tiếng Hàn thuộc loại hình ngôn ngữ chắp dính. Từ vựng tiếng Hàn khá đa
dạng với sự hợp thành của các từ thuần Hàn, từ gốc Hán và từ ngoại lai. Trong khi đó
phần lớn từ vựng TV cũng chịu ảnh hưởng từ tiếng Hán nên khi học các từ Hán Việt,
người HQ thường dễ dàng tìm thấy sự liên hệ về âm đọc hoặc ý nghĩa với các từ Hàn
cùng có nguồn gốc Hán.
Bên cạnh đó, từ trong tiếng Hàn có biến hình, động từ không biến đổi theo
ngôi của đại từ nhân xưng mà biến đổi theo thì quá khứ, hiện tại hoặc tương lai, đặc
biệt là biến đổi theo ngữ cảnh và đối tượng giao tiếp. Chính vì thế, khi học TV, người
Hàn thường không có ý thức sử dụng các hư từ hay trật tự từ để thể hiện ý nghĩa ngữ
pháp và quan hệ ngữ pháp.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Nội dung cung cấp vốn từ và rèn luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ trong các sách
giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài hiện nay
2.2.1.1. Mẫu nghiên cứu
+ Bộ giáo trình 1: Đoàn Thiện Thuật (chủ biên), Tiếng Việt A1 (2009), Tiếng Việt A2
(2009), Tiếng Việt B (2007), Tiếng Việt C (2007), ĐHQGHN, Viện Việt Nam học và
Khoa học Phát triển, NXB Thế giới, Hà Nội.
+ Bộ giáo trình 2: Nguyễn Việt Hương (2009), Tiếng Việt cơ sở dành cho người nước
ngoài (Quyển 1, Quyển 2); Tiếng Việt nâng cao dành cho người nước ngoài (Quyển
1, Quyển 2), NXB ĐHQGHN, Hà Nội.
2.2.1.2. Nội dung khảo sát
Chúng tôi đã khảo sát trong 8 quyển sách này các nội dung sau: bố cục (số lượng
quyển/ tập, bài học); hệ thống chủ đề; số lượng từ vựng; các dạng BT về từ vựng
2.2.1.3. Kết quả khảo sát
Qua việc khảo sát hai bộ giáo trình trên, có thể thấy thực trạng cung cấp vốn từ
trong các giáo trình dạy TV hiện nay chưa có sự thống nhất giữa các bộ giáo trình và
giữa các trình độ trong cùng một bộ. Phần lớn việc đưa ra hệ thống từ vựng trong các
7
tập, các bộ mang tính ngẫu nhiên, tự phát mà chưa có sự kiểm soát về định lượng lẫn
định tính. Cần có sự tính toán về hàm lượng tri thức ngôn ngữ và tri thức văn hóa đưa
vào mỗi trình độ, từ đó đưa ra những tiêu chí để lựa chọn hệ thống từ vựng cho phù hợp.
Bên cạnh đó, thực trạng việc rèn luyện các kĩ năng sử dụng từ ngữ trong hai bộ
giáo trình trên cũng phản ánh rất rõ đặc thù của các bộ giáo trình giao tiếp, chủ yếu
chú trọng các mức độ nhận thức thấp với các PP thực hành truyền thống. Các giáo
trình cần bổ sung thêm một số dạng BT theo định hướng gắn liền phát triển NL từ
ngữ với NL tư duy của người học, ví dụ: không chỉ rèn luyện cho người học khả năng
nhận biết, hiểu và áp dụng từ ngữ mà còn biết cách tạo mới ra các từ tương tự dựa
trên công thức tư duy của người bản ngữ.
2.2.2. Việc sử dụng các phương pháp dạy và học từ ngữ tiếng Việt của GV và HV
nước ngoài hiện nay
2.2.2.1. Mẫu nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu hai nhóm mẫu là 66 GV dạy TV cho người
nước ngoài và 150 HV HQ đã hoặc đang học TV thuộc các trình độ ở Hà Nội, trong
thời gian 3 tháng (từ tháng 10 đến tháng 12/ 2016).
2.2.2.2. Công cụ khảo sát và đo lường
Để khảo sát và đánh giá thực trạng việc sử dụng các PP dạy học từ ngữ TV cho
người nước ngoài của GV hiện nay và nhu cầu của người học, người dạy, chúng tôi
đã thiết kế 2 mẫu Phiếu khảo sát (Mẫu A: dành cho GV (Phụ lục 3); Mẫu B: dành cho
HV (Phụ lục 4).
2.2.2.3. Kết quả khảo sát
+ PP dạy từ vựng TV của GV: PP giải thích nghĩa của từ mới phổ biến đối với các
GV là PP giải nghĩa bằng lời TV (42,4%), sau đó mới đến PP trực quan (27,3%) và
BP dịch sang tiếng mẹ đẻ của người học hoặc dùng ngôn ngữ trung gian (21,2%).
Các hoạt động đã được nhiều GV lựa chọn sử dụng ở mức độ thường xuyên để mở
rộng vốn từ cho HV là: mở rộng vốn từ thông qua việc liên hệ với những hiểu biết có
sẵn về văn hóa và tiếng mẹ đẻ của người học và mở rộng vốn từ thông qua các trò
chơi học tập.
+ PP học từ vựng TV của HV HQ: PP chính mà họ thường sử dụng khi cần ghi nhớ từ
mới là: Đọc đi đọc lại, viết nhiều lần một từ mới (38%). PP dịch sang tiếng Hàn (bằng từ
điển) hoặc dùng ngôn ngữ trung gian cũng được họ rất chuộng sử dụng (32%). Các PP
như PP thuần ngôn ngữ học (dùng TV để giải thích, đặt từ vào trong câu…) hay PP trực
quan cũng được dùng nhưng ở mức độ thấp hơn (khoảng hơn 10%). Riêng hoạt động
luyện tập thông qua suy nghĩ bằng TV có lẽ vẫn là một điều rất hiếm khi có đến 68% số
người được hỏi chưa bao giờ tiến hành loại hoạt động này.
2.2.3. Năng lực từ ngữ thực tế của học viên Hàn Quốc học tiếng Việt tại Việt Nam hiện
nay
2.2.3.1. Mẫu nghiên cứu và phương pháp khảo sát
Cũng trong thời gian khảo sát từ tháng 10 đến tháng 12/2016, chúng tôi đã chọn
trong 150 HV HQ ở các cơ sở đào tạo nói trên lấy 94 HV có trình độ tiếng Việt B
tham gia làm một bài khảo sát NL từ ngữ.
8
Bảng 2.6: Bảng thống kê kết quả đánh giá năng lực từ ngữ tiếng Việt của học
viên Hàn Quốc trƣớc thực nghiệm (Đơn vị: số lượng: học viên, tỉ lệ: %)
Mức độ
Số lƣợng
Tỉ lệ
3
(Thành thạo)
8,5 - 10 điểm
10
10.6
2
(Đạt)
5,5 - 8 điểm
43
45,7
1
(Còn hạn chế)
3 - 5 điểm
35
37,3
0
(Yếu kém)
0 - 2,5 điểm
6
6,4
Tổng số
94
100
Chúng tôi không chỉ thống kê và phân loại theo thang điểm mà còn khảo sát và
phân loại các lỗi từ vựng điển hình mà HV HQ mắc phải trong bài làm ở bài thi này
và hàng loạt các BT hàng ngày, bài thi định kì và cuối kì khác.
Tiểu kết chƣơng 2
Về cơ sở lí luận, chúng tôi thấy rằng, NNHTN có khả năng ứng dụng rất khả
thi và hiệu quả vào việc phát triển NL từ ngữ cho người HQ học TV. Kết quả nghiên
cứu thực tiễn đã đặt ra các vấn đề khoa học: hệ thống từ vựng được cung cấp trong
các sách giáo trình chưa được tính toán cả về định lượng và định tính; hệ thống BT
thiên nhiều về việc phát triển mức độ nhận thức thấp; phần lớn GV hiện nay vẫn sử
dụng các phương pháp truyền thống trong dạy học từ vựng như: PP dịch, PP thuần
ngôn ngữ học mà chưa chú trọng đến các biện pháp nhằm phát triển NL tư duy cho
HV; PP học từ vựng của HV HQ cũng còn khá thụ động, dẫn đến thực trạng NL từ
ngữ của họ phần lớn ở mức đạt và còn hạn chế, NL diễn đạt trong giao tiếp còn gặp
nhiều khó khăn… Như vậy, cả lí luận và thực tiễn đều đòi hỏi phải nhìn lại việc dạy
học từ vựng TV cho người nước ngoài hiện nay mà trước mắt cần vận dụng các PP
dạy học tích cực và xây dựng một hệ thống BT mới mẻ, ngoài sách giáo trình nhằm
đảm bảo cho việc dạy học từ vựng theo định hướng phát triển NL cho người học.
9
CHƢƠNG 3: TỔ CHỨC PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT
CHO HỌC VIÊN HÀN QUỐC THEO HƢỚNG VẬN DỤNG
NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
3.1. Một số nguyên tắc vận dụng Ngôn ngữ học tri nhận vào phát triển năng lực từ
ngữ tiếng Việt cho học viên Hàn Quốc
3.1.1. Phát triển năng lực từ ngữ đảm bảo tính phù hợp với việc học tiếng Việt của học
viên Hàn Quốc
3.1.1.1. Phù hợp với mỗi cá nhân người Hàn Quốc học tiếng Việt
Nguyên tắc này xuất phát từ một nguyên lí hết sức cơ bản của NNHTN là: dĩ
nhân vi trung. Trong khi giảng dạy từ vựng, với mỗi nhóm từ ngữ, chúng ta nên có sự
khảo sát những vấn đề liên quan đến từng cá nhân người học như: trạng thái tâm lí, kí
ức, kinh nghiệm sống, NL tri giác, sự chú ý…
Với riêng đối tượng là người HQ học TV, họ cũng có những cách học hay
những hành vi học tiếng đặc trưng do sự chi phối của văn hóa. Vì thế, trong khi rèn
luyện khả năng lĩnh hội và tạo lập từ ngữ trong các văn bản TV, chúng ta cần chú ý
đến những đặc trưng về tính cách cũng như tư duy và văn hóa của người học HQ.
3.1.1.2. Phát huy tối đa điểm gặp gỡ giữa tư duy, văn hóa của người Việt Nam và
Hàn Quốc
Người VN và người HQ đều có những đặc trưng tư duy riêng của từng dân tộc.
Dạy TV cho HV HQ cần làm sao để tận dụng, phát huy được những điểm mạnh,
điểm gặp gỡ của hai kiểu tư duy đó, đồng thời cũng phải giải quyết được những khác
biệt mang tính đặc thù của từng dân tộc về tư duy, ngôn ngữ và văn hóa.
3.1.2. Phát triển năng lực từ ngữ gắn liền với phát triển năng lực tri nhận
Khi dạy từ vựng TV cần tuân theo những nguyên tắc của quá trình tri nhận nói
chung như: tính kế thừa, tính cấp độ, tính phù hợp đối tượng… Và không thể bỏ qua
các yếu tố của tâm lí học tri nhận như: tri giác, kí ức, sự chú ý, kinh nghiệm nghiệm
thân… trong sự phát triển NL ngôn ngữ. Cũng theo nguyên lí này, chúng ta phải dạy
cho HV HQ khi học từ vựng TV phải tư duy bằng TV, sống trong TV và phát triển
các NL về từ ngữ TV gắn liền với việc phát triển các NL tư duy.
3.1.3. Phát triển năng lực từ ngữ gắn liền với hoạt động sử dụng ngôn ngữ
Nguyên tắc này dựa trên một nguyên lí của NNHTN là: tri thức ngôn ngữ nảy
sinh ra từ sự sử dụng ngôn ngữ. Các nhà NNHTN cho rằng: các phạm trù và các cấu trúc
ngôn ngữ đều được xây dựng trên cơ sở tri nhận của chúng ta về các phát ngôn riêng biệt
trong khi sử dụng chúng. Quá trình trừu tượng và sơ đồ hóa không làm mất đi sự khác
biệt tinh tế giữa những kết cấu ngữ pháp và những ý nghĩa từ vựng riêng biệt.
3.2. Một số biện pháp dạy học nhằm phát triển năng lực từ ngữ cho học viên Hàn
Quốc theo hướng vận dụng Ngôn ngữ học tri nhận
3.2.1. Biện pháp lập bản đồ tư duy về mạng từ
3.2.1.1. Cơ sở đề xuất biện pháp lập bản đồ tư duy về mạng từ
Biện pháp này được hình thành dựa trên lí thuyết của NNHTN về phạm trù
hóa, điển dạng và phạm trù cơ sở, phạm trù thượng danh và phạm trù hạ danh đã
10
được chúng tôi trình bày trong Chương 2, phần Cơ sở lí luận. Ngoài ra, chúng tôi còn
dựa trên một số cơ sở khác để hình thành biện pháp, đó là: lí thuyết về bản đồ tư duy
và mạng từ trong TV.
3.2.1.2. Bản chất của biện pháp lập bản đồ tư duy về mạng từ
Biện pháp sử dụng bản đồ tư duy để xây dựng mạng từ TV cho người học là biện
pháp sử dụng một hình thức đồ họa phi tuyến tính để biểu thị hệ thống các từ ngữ TV và
các quan hệ ngữ nghĩa được sắp xếp xung quanh một từ khóa hoặc ý tưởng trung tâm, có
tác dụng mở rộng vốn từ, hệ thống hóa các nội dung tri thức, thúc đẩy hoạt động ghi nhớ
và phát triển khả năng tạo lập từ ngữ mới của người học.
3.2.1.3. Cách thức thực hiện biện pháp lập bản đồ tư duy về mạng từ trong dạy học
từ ngữ tiếng Việt cho học viên Hàn Quốc
a. Các bước thực hiện chung
- Bước 1: Xác định từ khóa/ hình ảnh thể hiện ý tưởng trung tâm của bản đồ. Từ khóa
này thường tương ứng với phạm trù thượng danh.
- Bước 2: Từ ý tưởng trung tâm, triển khai ý tưởng này thành các nhánh theo nhiều
chiều. Mỗi nhánh thể hiện một khía cạnh, một phương diện cụ thể hóa cho điểm trung
tâm. Các từ khóa đại diện cho từng nhánh lớn tương ứng với phạm trù cơ sở, các từ
khóa đại diện cho các nhánh nhỏ, cụ thể tương ứng với phạm trù hạ danh.
- Bước 3: Tổ chức lại bản đồ tư duy bằng cách lược bỏ những yếu tố không cần thiết,
đánh dấu thứ tự các nhánh, nhấn mạnh các nhánh có nội dung quan trọng, khoanh
vùng hoặc vẽ thêm các đường liên hệ giữa các nhánh…
b. Các bước thực hiện trong hoạt động mở rộng và hệ thống hóa vốn từ cho người học
* Sử dụng bản đồ tư duy theo 1 kiểu quan hệ ngữ nghĩa
Kiểu bản đồ này phù hợp với những HV ở trình độ thấp, với những bài học ở
mức độ đơn giản và với hoạt động giới thiệu từ mới. Ở những mức độ này, người học
cần được cung cấp từ mới ở tốc độ từ từ, kết hợp giới thiệu từ ngữ với các hình ảnh
trực quan, theo một hệ thống chuyên về một kiểu quan hệ ngữ nghĩa.
* Sử dụng bản đồ tư duy theo nhiều kiểu quan hệ ngữ nghĩa
Kiểu bản đồ tư duy này lại phù hợp với trình độ trung cấp trở lên khi người học
đã có một vốn từ nhất định, cần phát triển NL mở rộng và hệ thống hóa vốn từ. Mục
tiêu chính là qua kiểu bản đồ này, người học sẽ thể hiện được khả năng nhớ từ, phân
loại và hệ thống hóa vốn từ.
c. Các bước thực hiện trong hoạt động hướng dẫn người học sử dụng từ ngữ trong
giao tiếp
* Sử dụng bản đồ ghi chú trong hoạt động nghe, đọc
- Bước 1: Nghe nhanh hoặc đọc lướt toàn bộ văn bản để có cảm nhận ban đầu về chủ đề
và bố cục triển khai của nó. Xác định 1 từ khóa. Từ khóa này thường được xác định dựa
trên tiêu đề văn bản.
- Bước 2: Nghe lại hoặc đọc lại văn bản lần 2. Chú ý vào các câu đầu tiên và câu cuối
cùng của các đoạn. Từ đó ghi nhanh lại các nhánh chính của bản đồ tư duy. Mỗi
nhánh được đại diện bởi một từ khóa thể hiện một chủ đề bộ phận.
- Bước 3: Nghe lại hoặc đọc lại văn bản lần 3. Chú ý vào các chi tiết để bổ sung
thông tin cụ thể hoặc các từ ngữ minh họa cho từ khóa, các từ ngữ liên hội với từ
khóa theo một kiểu quan hệ ngữ nghĩa nhất định được thể hiện trong văn bản.
11
- Bước 4: Xem lại văn bản lần cuối, so sánh với bản đồ tư duy của các bạn trong lớp
để có sự điều chỉnh cho hoàn thiện. Cố gắng ghi nhớ các từ mới đã học được qua văn
bản và hệ thống mạng lưới từ ngữ của văn bản.
* Sử dụng bản đồ sáng tạo trong hoạt động nói, viết
- Bước 1: Xác định chủ đề chính của bài nói/ bài viết, từ đó xác định từ khóa/ hình
ảnh trung tâm/ phạm trù thượng danh và vẽ nhanh các nhánh chính từ các ý tưởng lóe
lên tức thì trong đầu óc khi suy nghĩ về từ khóa.
- Bước 2: Tái lập và chỉnh sửa bản đồ tư duy đầu tiên bằng cách xem xét lại các ý chủ
đạo, ý chính, ý phụ (các cấp bậc phạm trù) và sửa chữa, bổ sung thêm các thông tin
hoặc sắp xếp lại chúng theo những mối liên hệ mới cho hợp lí và tập trung đúng
hướng của chủ đề hơn.
- Bước 3: Nhìn vào bản đồ tư duy đã lập và thực hành nói hoặc viết thành văn bản
dưới dạng hoàn chỉnh.
3.2.1.4. Một số lưu ý khi thực hiện biện pháp lập bản đồ tư duy về mạng từ
Việc vận dụng cần đảm bảo phù hợp với đối tượng người HQ, đặc biệt cần chú
ý đến các mô hình văn hóa đích và văn hóa nguồn của người học trong sự ảnh hưởng
đến việc hình thành và lựa chọn từ ngữ.
3.2.2. Biện pháp sử dụng mô hình tri nhận
3.2.2.1. Cơ sở đề xuất biện pháp sử dụng mô hình tri nhận
Lí thuyết ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphors) là một trong những đóng góp
quan trọng nhất của NNHTN, được chúng tôi lựa chọn để áp dụng vào biện pháp này
như một thao tác tinh thần cơ bản. Theo đó, bản chất của ẩn dụ là “sự ý niệm hóa một
miền tâm trí qua một miền tâm trí khác” (Nguyễn Thị Bích Hợp (2016), tr. 32), hiểu
đơn giản là tri nhận một ý niệm thông qua một ý niệm khác.
3.2.2.2. Bản chất của biện pháp sử dụng mô hình tri nhận
Chúng ta có thể hiểu biện pháp sử dụng mô hình tri nhận trong dạy học từ ngữ
TV là biện pháp tập hợp các từ ngữ có chung một cơ chế tri nhận thành các nhóm và
hướng dẫn cho người học khái quát, đúc rút ra các mô hình tri nhận của các nhóm từ ngữ
này, từ đó vận dụng các mô hình đó vào việc giải nghĩa và tạo lập các từ ngữ mới.
3.2.2.3. Cách thức thực hiện biện pháp sử dụng mô hình tri nhận trong dạy học từ
ngữ tiếng Việt cho học viên Hàn Quốc
- Bước 1: Tiếp cận các từ ngữ theo nhóm.
- Bước 2: Khái quát mô hình tri nhận chung của nhóm từ ngữ. Bước này có thể được
thực hiện theo hai hình thức quy nạp hoặc diễn dịch.
a. Hình thức quy nạp: yêu cầu người học tìm ra nét nghĩa chung hoặc đặc điểm chung
giữa các từ ngữ trong nhóm (các từ ngữ này đều dựa trên ý niệm nào?). Sau đó, có thể
rút ra một ẩn dụ ý niệm, cũng là mô hình tri nhận chung của các nhóm từ ngữ này.
b. Hình thức diễn dịch: GV sẽ đưa ra mô hình tri nhận trước rồi mới cho ví dụ minh họa,
từ đó, HV suy luận và tự chuyển di trường liên tưởng theo mô hình đã có để hiểu ý nghĩa.
- Bước 3: Mở rộng và vận dụng mô hình tri nhận. Sử dụng mô hình tri nhận của cả
nhóm từ ngữ để đi sâu tìm hiểu nét nghĩa riêng (nếu có) của từng từ ngữ, so sánh với
mô hình tri nhận tương tự của người HQ và vận dụng các từ ngữ vừa học vào hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể.
3.2.2.4. Một số lưu ý khi thực hiện biện pháp sử dụng mô hình tri nhận
12
Khi dạy học TV cho HV HQ, biện pháp này sẽ càng phát huy được tác dụng
hơn khi chúng ta biết kết hợp nó với biện pháp so sánh để chỉ ra đặc trưng về ngôn
ngữ giữa TV với tiếng mẹ đẻ của người học, đặc trưng về tư duy và văn hóa giữa
người Việt với người Hàn.
3.2.3. BP sử dụng thông tin ngữ cảnh tình huống và khung tri thức nền của người học
3.2.3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp sử dụng thông tin ngữ cảnh tình huống và khung tri
thức nền của người học
Khái niệm “ngữ cảnh” có liên quan đến khái niệm “khung” (frame), “kịch bản”
(script), “lược đồ” (scheme/ schema) của NNHTN. Vận dụng vào việc đọc hiểu văn
bản, chúng ta có thể hiểu kịch bản/ khung là những đơn vị của ý nghĩa bao gồm hàng
loạt những biến cố, sự kiện và hành động có quan hệ với nhau trong những tình
huống riêng biệt. Ngoài ra, những lí thuyết về mối quan hệ ngôn ngữ - văn hóa, mô
hình văn hóa, ngữ cảnh tri nhận và không gian tinh thần cũng là nền tảng để hình
thành biện pháp này.
3.2.3.2. Bản chất của biện pháp sử dụng thông tin ngữ cảnh tình huống và khung tri
thức nền của người học
Chúng tôi hiểu biện pháp sử dụng thông tin cảnh huống và tri thức nền trong
dạy học từ vựng TV là biện pháp huy động tổng hợp cả những kiến thức về ngữ cảnh
tri nhận rộng (bao gồm những kiến thức về thế giới, những kinh nghiệm có sẵn từ
trước và những kiến thức về cấu trúc tổng thể của văn bản, những kiến thức về ngôn
ngữ và văn hóa đích của người học) và những kiến thức về ngữ cảnh hẹp (không gian
tinh thần mà từ xuất hiện trong văn bản) vào việc hỗ trợ người học suy đoán và hiểu
nghĩa của từ khi tiếp nhận văn bản.
3.2.3.3. Cách thức thực hiện biện pháp sử dụng thông tin ngữ cảnh tình huống và khung
tri thức nền của người học trong dạy học từ ngữ tiếng Việt cho học viên Hàn Quốc
a. Trong việc lựa chọn ngữ liệu văn bản nghe và đọc
a1. Ở trình độ ban đầu
GV nên tận dụng yếu tố văn hóa nguồn (home culture) của người học (yếu tố có
sẵn ở người học, thuộc về nền văn hóa của cộng đồng dân tộc người học) để đưa vào
văn bản nghe và đọc nhằm khai thác kiến thức nền về văn hóa, những yếu tố liên hội về
mặt ngữ cảnh và kinh nghiệm cá nhân của người học. Đó có thể là những văn bản về các
nhân vật nổi tiếng hay về các phong tục tập quán phổ biến ở cả hai nền văn hóa, các bài
hát được coi là “quốc hồn quốc túy” của đất nước HQ, đã được dịch sang lời TV…
a2. Ở trình độ nâng cao
GV có thể sử dụng yếu tố văn hóa đích (target culture) (văn hóa Việt) một
cách hoàn toàn trong việc lựa chọn và sử dụng ngữ liệu. GV có thể dùng bài hát có
nhạc VN, lời TV, có chứa đựng một số yếu tố văn hóa đặc trưng của người Việt.
b. Trong việc tổ chức dạy học nghe và đọc
* Vận dụng kiến thức nền để soi xét ngữ cảnh rộng
- Bước chuẩn bị (trước khi nghe/ đọc):
+ Đặt một số câu hỏi nhằm động não các ý tưởng có thể xuất hiện trong văn bản.
+ Đưa ra các tiên đoán nội dung dựa vào tiêu đề, tranh ảnh minh họa có trong văn bản.
- Bước mở rộng (sau khi nghe/ đọc):
13
Các kiến thức nền về ngôn ngữ, văn hóa vẫn có thể tiếp tục được sử dụng trong
một số hoạt động mở rộng sau nghe/ đọc như: Thảo luận nhóm; Đóng vai…
* Vận dụng thông tin cảnh huống để tìm nghĩa của từ trong ngữ cảnh hẹp
Bước 1: GV hỏi HV từ mới có liên quan về mặt ngữ nghĩa với từ nào trong câu? Từ
đứng trước và từ đứng sau nó là gì?
Bước 2: GV hỏi HV từ mới thuộc từ loại nào (danh từ, động từ, tính từ…)?
Bước 3: GV hỏi HV từ mới có được lặp lại ở vị trí nào khác trong cả đoạn văn, ngữ
cảnh xuất hiện giống hay khác?
Bước 4: GV hỏi HV có từ nào khác gần nghĩa với từ mới cũng xuất hiện trong đoạn văn?
3.2.3.4. Một số lưu ý khi thực hiện biện pháp sử dụng thông tin ngữ cảnh tình huống
và khung tri thức nền của người học
Với một đối tượng chuyên biệt là việc dạy TV cho HV HQ tại VN, chúng ta
cần chú ý đến yếu tố ngữ cảnh là bối cảnh giao tiếp, văn hóa của VN. Cần sử dụng
bối cảnh này như thế nào để có thể phát triển NL từ ngữ TV cho HV HQ, tạo sự khác
biệt so với việc học TV tại đất nước của HV hay một quốc gia khác? Để trả lời câu
hỏi này, một điều cần lưu ý là chúng ta nên tận dụng bối cảnh ngoài lớp học nhiều
hơn, thay vì đóng khung các bài học tại lớp học.
3.3. Hệ thống bài tập nhằm phát triển năng lực từ ngữ cho học viên Hàn Quốc theo
hướng vận dụng Ngôn ngữ học tri nhận
HỆ THỐNG BÀI TẬP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỪ NGỮ TIẾNG
VIỆT CHO HV HÀN QUỐC
BT MỞ RỘNG
VÀ HỆ
THỐNG HÓA
VỐN TỪ
BT NHẬN
BIẾT VÀ
HIỂU NGHĨA
CỦA TỪ
Từ Hình
ảnh
Từ Ý
niệm
Từ Từ
Dùng
bản đồ
tư duy
Dùng
mô
hình tri
nhận
BT TÍCH
CỰC HÓA
VỐN TỪ
Hiểu từ
trong
tiếp
nhận
VB
Dùng
từ để
tạo lập
VB
Chữa
lỗi sai
về
nghĩa
của từ
Sơ đồ 3.10: Hệ thống bài tập phát triển năng lực từ ngữ tiếng Việt cho học viên
Hàn Quốc
3.3.1. Bài tập phát triển năng lực nhận biết và hiểu nghĩa của từ
3.3.1.1. Bài tập phát triển năng lực nhận biết và hiểu nghĩa của từ dựa trên quan hệ
giữa từ và hình ảnh
Loại BT này dựa vào mối quan hệ giữa từ với hình (hình ảnh, tranh vẽ, kí hiệu,
biểu tượng…) nhằm giúp HV nhận biết nghĩa của từ. Cơ sở của loại BT này là dựa
trên mối quan hệ giữa từ với vật thật trong thực tế khách quan. Sự khác nhau của hai
mô hình này nằm ở điểm xuất phát, điểm kích thích vào tri giác của HV là hình hay
14
là từ. Từ hai điểm kích thích khác nhau, chúng ta sẽ có hai kiểu BT khác nhau: BT
dựa trên mối quan hệ hình - từ và BT dựa trên mối quan hệ từ - hình.
a. Hình ảnh - Từ
Kiểu BT này bao gồm các dạng nhỏ như: nối hình với từ; điền từ vào hình và thay
thế hình bằng từ. Điểm chung của các dạng BT này là đều xuất phát từ hình ảnh, kích
thích vào tri giác của người học bằng các yếu tố về thị giác (màu sắc, đường nét, hình
khối…), đồng thời đánh vào kí ức của họ về một hình ảnh quen thuộc trong trí nhớ.
b. Từ - Hình ảnh
Ngược lại với kiểu BT Hình - Từ ở a, kiểu BT này có điểm xuất phát là từ,
buộc người học phải tư duy theo hướng ngược lại. Muốn vậy, người học phải có
những ý niệm nhất định về từ, hoặc có sự trợ giúp của từ điển hoặc GV. Việc nối
đúng với hình ảnh thể hiện cách hiểu đúng của người học về từ. Vì thế, kiểu BT này
phù hợp hơn với hoạt động củng cố vốn từ. Nó gồm hai dạng nhỏ là: nối từ với hình
và cho từ, vẽ hình.
3.3.1.2. Bài tập phát triển năng lực nhận biết và hiểu nghĩa của từ dựa trên quan hệ
giữa từ và ý niệm
Loại BT này có cơ sở dựa trên mối quan hệ giữa từ và ý niệm mà từ biểu thị.
Nếu chúng ta xuất phát từ từ để đi tìm ý niệm tương ứng thì đó là đang thực hiện
chức năng giải thích từ. Ngược lại, nếu chúng ta có ý niệm và đi tìm các từ biểu thị
nó thì đó là chức năng định danh của từ.
a. Từ - Ý niệm
Kiểu BT này gồm hai dạng nhỏ là: cho từ và ý niệm, yêu cầu HV xác lập sự
tương ứng; cho từ, yêu cầu HV chọn ý niệm tương ứng và cho từ, yêu cầu HV miêu
tả ý niệm của mình về từ đó.
b. Ý niệm - Từ
Kiểu BT này có hai dạng là: cho ý niệm, chọn từ phù hợp trong các từ cho sẵn
và cho ý niệm, tự viết từ.
3.3.1.3. Bài tập phát triển năng lực nhận biết và hiểu nghĩa của từ dựa trên quan hệ
giữa từ và từ
a. Dựa vào từ đồng nghĩa
Kiểu BT này dùng các từ có ý niệm tương đương nhưng đơn giản, dễ hiểu hơn
và có thể đã được người học biết đến để giải thích cho những từ mới. Có thể chia nhỏ
kiểu bài này thành hai dạng là: nối các cặp từ đồng nghĩa và chọn từ đồng nghĩa để
thay thế từ.
b. Dựa vào từ trái nghĩa
Tương tự như kiểu bài dựa vào từ đồng nghĩa, chúng tôi cũng chia kiểu BT này
thành hai dạng là: nối các cặp từ trái nghĩa và điền/ viết từ trái nghĩa với từ cho trước.
3.3.2. Bài tập phát triển năng lực mở rộng và hệ thống hóa vốn từ
3.3.2.1. Bài tập phát triển năng lực mở rộng và hệ thống hóa vốn từ bằng bản đồ tư duy
a. Bản đồ thiếu: Có hai dạng BT nhỏ: BT dùng bản đồ tư duy thiếu cả đường nhánh
và từ ngữ của nhánh; BT dùng bản đồ tư duy đã có đầy đủ các đường nhánh nhưng
thiếu từ ngữ (có thể là từ ngữ nhánh hoặc cả từ ngữ nhánh và từ trung tâm).
15
b. Bản đồ câm: Đây là kiểu BT lập bản đồ tư duy chỉ có sẵn từ trung tâm, có thể cho
trước số lượng nhánh hoặc không cho trước. HV căn cứ vào nội dung của từ trung
tâm, hiểu biết về từ trung tâm của mình để vẽ bản đồ tư duy cho phù hợp.
c. Bản đồ bất hợp lí: Có hai dạng BT nhỏ là: BT dùng bản đồ bất hợp lí do từ ở
nhánh nhỏ không phù hợp với từ ở nhánh lớn và BT dùng bản đồ bất hợp lí do từ ở
các nhánh không phù hợp với từ trung tâm.
3.3.2.2. Bài tập phát triển năng lực mở rộng và hệ thống hóa vốn từ bằng mô hình tri
nhận
a. Từ từ ngữ đến mô hình: Kiểu BT này gồm ba dạng nhỏ là: nối từ ngữ với mô hình
tri nhận; sắp xếp từ ngữ thành nhóm theo mô hình tri nhận; và từ các từ ngữ cho sẵn,
tự hoàn thiện mô hình tri nhận.
b. Từ mô hình đến từ ngữ: Ngược lại với kiểu BT quy nạp là kiểu BT theo hướng
diễn dịch với cấu trúc chung là: cho trước mô hình khái quát, yêu cầu HV dựa vào
mô hình để lựa chọn hoặc hoàn thiện từ ngữ. Nhờ các mô hình này, HV sẽ nắm được
chìa khóa để thiết lập các từ ngữ theo đúng cách tư duy của người bản ngữ.
3.3.3. Bài tập phát triển năng lực tích cực hóa vốn từ trong giao tiếp
Hai quá trình chính của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là quá trình tiếp
nhận và quá trình tạo lập ngôn bản. Dựa vào đó, chúng tôi chia nhóm BT phát triển
NL tích cực hóa vốn từ trong giao tiếp thành ba loại: hiểu từ khi tiếp nhận ngôn bản,
dùng từ để tạo lập ngôn bản và phát hiện, chữa lỗi sai về nghĩa của từ trong ngôn
bản. Mỗi kiểu BT trên lại được chia thành các dạng BT cụ thể căn cứ vào nội dung và
hình thức luyện tập.
3.4. Vận dụng các biện pháp và hệ thống bài tập phát triển năng lực từ ngữ vào thực
tiễn dạy học tiếng Việt cho học viên Hàn Quốc
3.4.1. Vận dụng theo trình độ của người học
* Trình độ TV cơ bản (A1, A2, B, C):
- Ưu tiên lựa chọn các biện pháp có tính cụ thể, sinh động, kết hợp hình ảnh và
âm thanh, “chơi mà học” như: BP trực quan hành động, BP sử dụng bản đồ tư duy,
BP thực hành (sử dụng bài hát, trò chơi học tập)…
- Ưu tiên lựa chọn các hình thức BT dựa trên mối quan hệ giữa từ với hình, từ với
ý niệm; các BT có sử dụng bản đồ tư duy và mô hình tri nhận ở mức độ đơn giản để mở
rộng vốn từ; các BT rèn kĩ năng hiểu từ và dùng từ trong hoạt động nghe và nói.
* Trình độ TV nâng cao:
- Ưu tiên lựa chọn các biện pháp có tính khái quát hóa, mô hình hóa, tổng hợp
cao như: BP sử dụng bản đồ tư duy, BP sử dụng mô hình tri nhận, BP sử dụng thông
tin cảnh huống và khung tri thức nền của người học …
- Ưu tiên lựa chọn các hình thức BT dựa trên mối quan hệ giữa từ với ý niệm,
từ với từ; các BT có sử dụng bản đồ tư duy và mô hình tri nhận ở mức độ nâng cao để
mở rộng vốn từ; các BT rèn kĩ năng hiểu từ và dùng từ trong hoạt động đọc và viết.
16
3.4.2. Vận dụng theo các giai đoạn của bài học
* Giai đoạn giới thiệu bài mới: BP sử dụng thông tin cảnh huống và khung tri
thức nền của người học
* Giai đoạn hình thành kiến thức, kĩ năng mới cho HV: BP sử dụng mô hình tri
nhận, BP sử dụng bản đồ tư duy; nhóm BT phát triển NL nhận biết nghĩa của từ ngữ
* Giai đoạn luyện tập, thực hành trên lớp: BP sử dụng thông tin cảnh huống và
khung tri thức nền của người học, BP sử dụng bản đồ tư duy, BP sử dụng mô hình tri
nhận; nhóm BT phát triển NL sử dụng từ ngữ trong giao tiếp
* Giai đoạn mở rộng, củng cố, nâng cao: BP sử dụng bản đồ tư duy, BP sử
dụng thông tin cảnh huống và khung tri thức nền của người học; nhóm BT phát triển
NL mở rộng và hệ thống hóa vốn từ ngữ
* Giai đoạn luyện tập, thực hành ở nhà: nhóm BT phát triển NL sử dụng từ
ngữ trong giao tiếp
Tiểu kết chƣơng 3
Trong chương này, chúng tôi đã đi từ bộ nguyên tắc của việc phát triển NL từ
ngữ TV cho người HQ theo hướng vận dụng NNHTN đến việc đề xuất hai giải pháp
nhằm thực hiện việc phát triển này. Giải pháp thứ nhất là đổi mới biện pháp dạy học
từ vựng TV. Chúng tôi đã đưa ra ba biện pháp tiêu biểu cho quan điểm NNHTN vào
dạy học từ ngữ cho người HQ: BP sử dụng bản đồ tư duy về mạng từ, BP sử dụng mô
hình tri nhận, BP sử dụng thông tin cảnh huống và khung tri thức nền của người học.
Giải pháp thứ hai mà luận án đưa ra là xây dựng hệ thống BT phát triển NL từ ngữ
cho người HQ theo quan điểm của NNHTN. Hệ thống BT này giúp phát triển từng
thành tố trong NL từ ngữ của người học, bao gồm ba nhóm: BT phát triển NL nhận
biết và hiểu nghĩa của từ ngữ, BT phát triển NL mở rộng và hệ thống hóa vốn từ ngữ,
BT phát triển NL tích cực hóa vốn từ trong giao tiếp. Trong mỗi nhóm, chúng tôi lại
có các loại, kiểu, dạng BT cụ thể.
17
CHƢƠNG 4: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
4.1. Mục đích thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thử nghiệm dạy học một số nhóm từ ngữ TV cho người
HQ nhằm kiểm chứng tính hiệu quả, độ khả thi của các biện pháp dạy học và hệ
thống BT mà luận án đề xuất ở Chương 3. Chúng tôi sử dụng biện pháp TN so sánh
giữa hai nhóm đối tượng: Thực nghiệm và Đối chứng.
4.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian thực nghiệm
4.2.1. Đối tượng thực nghiệm
Về phía HV, đối tượng mà TN của chúng tôi hướng đến là HV HQ học TV ở
cả hai trình độ: TV cơ bản và TV nâng cao.
4.2.2. Địa bàn thực nghiệm
- Trường Đại học Văn hóa Hà Nội: Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Quốc tế
- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Khoa Việt Nam học và Khoa Ngữ văn
4.2.3. Thời gian thực nghiệm
* Trình độ TV cơ bản (A2)
- Đợt 1: Thời gian 01 tháng, từ 1/12/2016 đến 30/12/2016
- Đợt 2: Thời gian 01 tháng, từ 1/12/2017 đến 30/12/2017
* Trình độ TV nâng cao (hệ Cử nhân nước ngoài)
- Đợt 1: Thời gian 03 tháng, từ 1/1/2018 đến 31/3/2018
- Đợt 2: Thời gian 03 tháng, từ 1/1/2019 đến 31/3/2019
4.3. Nội dung, mục tiêu, phương pháp dạy học và cách thức tiến hành thực nghiệm
4.3.1. Nội dung dạy học
Chúng tôi tiến hành dạy học TN 6 tiết, chia thành 2 trình độ với sự chọn lựa
các đơn vị bài học và kiến thức như sau:
- Trình độ TV cơ bản: 2 tiết
Trình độ A2, giáo trình “Tiếng Việt - Trình độ A - Tập 2” (Đoàn Thiện Thuật (chủ
biên), ĐH Quốc gia HN, Viện VN học và khoa học phát triển, NXB Thế giới, H.2009)
Bảng 4.3: Nội dung dạy học trình độ tiếng Việt cơ bản
STT
Bài học
Đơn vị kiến thức TN
Số tiết
Bài 23: “Cho tôi thêm
Sự chuyển nghĩa của từ:
1 tiết
1
một cốc bia nữa”, tiết 2
Ăn uống Tình cảm
Từ nhiều nghĩa: Từ chỉ bộ phận
Bài 26: “Tôi bị ốm”,
1 tiết
2
cơ thể người Từ chỉ bộ phận
tiết 2
vật
- Trình độ TV nâng cao (TV chuyên ngành): 4 tiết
Môn “Từ vựng tiếng Việt hiện đại”, giáo trình “Từ vựng tiếng Việt thực hành”
(Trịnh Đức Hiển, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H.2005)
Bảng 4.4: Nội dung dạy học trình độ tiếng Việt nâng cao
STT
Bài học
Đơn vị kiến thức TN
Số tiết
Bài 5: Thành ngữ (Nhóm
2 tiết
3
thành ngữ tiếng Việt có
Thành ngữ ẩn dụ
từ chỉ “động vật”)
Bài 5: Thành ngữ (Nhóm
2 tiết
4
Thành ngữ ẩn dụ và hoán dụ
thành ngữ tiếng Việt có
18
- Xem thêm -