Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại ở các ngân hàng thương mại Việt Nam Những vấn đề cần quan tâm (Số 22/2007)
Phương Mi
Với một ngân hàng hiện đại thì việc cung cấp kịp thời các dịch vụ tiện ích, đa
dạng là điều kiện cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt
động. Các dịch vụ đó có thể chia làm hai nhóm: các dịch vụ ngân hàng truyền
thống và các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Các dịch vụ ngân hàng truyền thống có
quá trình hình thành và phát triển lâu dài như cho vay thương mại, huy động
vốn, chiết khấu thương phiếu, bảo quản vật có giá, tài trợ các hoạt động của
Chính phủ, cung cấp các dịch vụ uỷ thác,… Các dịch vụ ngân hàng hiện đại
thường là các dịch vụ gắn liền với sự phát triển, tiến bộ của công nghệ hiện đại
như các dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ ngân hàng trực tuyến, dịch vụ ngân
hàng bán lẻ, các dịch vụ tư vấn và môi giới tài chính, bảo hiểm…
Sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng hiện đại không hoàn toàn là sự thay
thế các sản phẩm truyền thống mà nó mang tính kế thừa, thậm chí là sự nâng
cấp của các sản phẩm truyền thống. Với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện
đại thì những quan hệ giao dịch trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng ngày
càng thu hẹp lại và thay thế vào đó là các giao dịch ngân hàng tại nhà (Home
Banking), ngân hàng qua Internet (Internet Banking), ngân hàng qua điện thoại
(Phone/Mobile Banking)... y lớn. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam
có thể thấy các nhu cầu này chưa nhiều, song trong định hướng lâu dài thì nhu
cầu này sẽ không ngừng tăng lên theo tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, doanh
số và lợi nhuận của mảng hoạt động này sẽ dần chiếm tỷ trọng đáng kể và trở
nên quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
1. Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại
1.1. Khuôn khổ pháp lý
Trên cơ sở tham mưu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Chính
phủ đã từng bước củng cố khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán ngân
hàng nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển một nền kinh tế ổn định và
vững chắc. Năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định về hoạt động thanh
toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (Nghị định 64/2001/NĐ-CP)
tạo khuôn khổ pháp lý chung cho các hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán, làm cơ sở cho các tổ chức này ban hành các văn
bản cụ thể hướng dẫn nghiệp vụ thanh toán trong từng hệ thống của mình, giúp
hoạt động thanh toán an toàn và nhanh chóng, ổn định.
Đặc biệt đối với ứng dụng công nghệ tin học vào lĩnh vực thanh toán của các
ngân hàng, Chính phủ đã rất chú trọng đến việc tạo lập một hành lang pháp lý rõ
ràng cho các hoạt động thanh toán có ứng dụng công nghệ điện tử. Khi chưa có
Luật giao dịch điện tử, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép ngân hàng, tổ chức tín
dụng được sử dụng dữ liệu thông tin trên vật mang tin để làm chứng từ kế toán
và thanh toán, việc sử dụng chứng từ điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán
và thanh toán vốn của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cũng đã được quy
định, sau khi Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội phê duyệt Chính phủ đã ban
hành các văn bản hướng dẫn về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng,
tài chính, lĩnh vực thương mại…
Một trong những mục tiêu của Chính phủ và NHNN là giảm thanh toán bằng
tiền mặt trong nền kinh tế bằng việc thúc đẩy sử dụng các phương tiện thanh
toán không dùng tiền mặt, ngày 29/12/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định 291/2006/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án thanh toán không dùng tiền mặt
giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020” do NHNN chủ trì phối hợp
cùng các Bộ, ngành xây dựng. Để triển khai Đề án, ngày 28/12/2006, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 161/2006/NĐ-CP Quy định về thanh toán bằng tiền
mặt và NHNN đã ban hành Thông tư số 01/2007/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện
Điều 4 và Điều 7 của Nghị định 161.
Ngày 15/5/2007, Thống đốc NHNN đã ký ban hành Quyết định số
20/2007/QĐ-NHNN về Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch
vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng thay thế Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN
về việc ban hành Quy chế phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ ngân hàng.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh đã rộng hơn, với các tổ chức tín
dụng là ngân hàng, việc phát hành thẻ không cần phải xin cấp phép từ NHNN,
nhưng để phát hành hoặc thanh toán thẻ, các tổ chức phát hành hoặc thanh
toán thẻ phải đáp ứng những điều kiện cụ thể được Quy chế quy định, và NHNN
đánh giá sự tuân thủ của các tổ chức đó. Đối tượng phát hành thẻ không chỉ là
các ngân hàng, mà còn là các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, các tổ chức
không phải tổ chức tín dụng có hoạt động ngân hàng cũng có thể được phát
hành thẻ. Ngày 03/7/2007, Thống đốc NHNN đã ký ban hành Quyết định số
32/2007/QĐ-NHNN Quy định hạn mức số dư đối với thẻ trả trước vô danh (tại
Khoản 2 Điều 3 Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ
trợ hoạt động thẻ ngân hàng). Do thẻ trả trước vô danh là sản phẩm có những
đặc thù riêng, chỉ để sử dụng thanh toán hàng hoá, dịch vụ có giá trị nhỏ và phục
vụ cho bộ phận có thu nhập thấp không có tài khoản tại ngân hàng nên trong
điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay thì hạn mức số dư của một thẻ không vượt
quá 5 triệu đồng là hợp lý.
Ngày 24/8/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 20/2007/CT-Tg về
việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước. Theo đó, kể từ ngày 01/01/2008, việc trả lương qua tài khoản được thực
hiện cho công chức làm việc tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh,
thành phố lớn và từ ngày 01/01/2009, thực hiện trên phạm vi cả nước. Đây là
một chủ trương có ý nghĩa lớn không chỉ về kinh tế mà cả xã hội, tạo thói quen
sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt cho người dân.
Nhìn chung, với chức năng đầu mối tham mưu của NHNN, Chính phủ đã
không ngừng tạo dựng và củng cố cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh toán đáp
ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế nói chung và hoạt động thanh toán
qua ngân hàng nói riêng, tạo điều kiện cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán thực hiện công tác thanh toán tới công chúng được nhanh chóng, an toàn
và thuận tiện. Từ đó, các ngân hàng thương mại (NHTM) chủ động cung ứng ra
thị trường những sản phẩm, phương tiện và dịch vụ thanh toán phong phú, hiện
đại, góp phần đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại và đẩy
nhanh tốc độ thanh toán, phù hợp với các quy định về áp dụng các điều ước
quốc tế trong hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho các NHTM Việt Nam tiến
nhanh hơn trên con đường hội nhập.
1.2. Các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng hiện đại
Các ngân hàng thương mại
Từ những năm 1990, nhiều dịch vụ ngân hàng hiện đại đa dạng do các ngân
hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) cung cấp và cho tới thời điểm hiện nay,
các NHTMCP vẫn rất năng động trong việc tạo ra các sản phẩm, dịch vụ phong
phú đáp ứng nhu cầu của khách hàng cá nhân như: tiết kiệm (tiết kiệm dự
thưởng, tiết kiệm tính lãi định kỳ, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm linh hoạt,…); thẻ
(thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ liên kết,…); cho vay tiêu dùng (cho vay trả góp, cho
vay mua nhà, ô tô, cho vay du học,…); sản phẩm ngân hàng điện tử (Internet
banking; Home banking; Phone/Mobile banking)…
Hiện tại, bên cạnh khối các NHTMCP, thị trường đã có sự tham gia tích cực
của các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN). Các NHTMNN có những
ưu thế hơn cho việc phát triển mảng dịch vụ bán lẻ. Với lợi thế về vốn và việc
đầu tư thích đáng cho việc phát triển hệ thống công nghệ hiện đại, sẵn có mạng
lưới rộng khắp với uy tín lâu năm trong hoạt động, các NHTMNN đã tạo dựng
một nền tảng khách hàng cá nhân đáng kể cho thị trường tài chính, tạo đà vững
chắc cho sự thâm nhập ngày càng sâu rộng dịch vụ bán lẻ trong dân chúng. Tuy
nhiên, mặc dù có những ưu thế mang tính quyết định như trên, trong việc phát
triển và làm chủ thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ, các NHTMNN vẫn chưa có
sự nhanh nhạy, năng động như các NHTMCP. Trên thực tế, các NHTMCP có các
sản phẩm phái sinh phong phú, tập trung vào các phân đoạn thị trường cụ thể,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Ngoài sự tham gia của các NHTM trong nước, một trong những sự kiện tác
động mạnh đến thị trường dịch vụ ngân hàng hiện đại trong thời gian gần đây là
việc các chi nhánh tại Việt Nam của một số ngân hàng hàng đầu thế giới về lĩnh
vực bán lẻ như ANZ, HSBC, CitiBank cũng bước đầu tham gia vào thị trường
này. Với những lợi thế về tài chính, sản phẩm, dịch vụ, quản trị, công nghệ và
kinh nghiệm quốc tế, rõ ràng các ngân hàng này sẽ là những đối thủ cạnh tranh
rất lớn trên thị trường. Chính sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài là một
động lực tốt, tạo áp lực cho các ngân hàng trong nước chú trọng đầu tư hơn nữa
cho dịch vụ này.
Nhìn chung, thị trường dịch vụ ngân hàng hiện đại tại Việt Nam đang có
những bước phát triển nhanh chóng và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế.
Mặc dù quy mô của thị trường được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh song
song với sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng mức độ cạnh tranh cũng được dự
báo là sẽ ngày càng quyết liệt hơn trong bối cảnh ngày càng nhiều ngân hàng cả
trong và ngoài nước quan tâm đầu tư vào lĩnh vực này.
- Các công ty cung cấp dịch vụ hỗ trợ thanh toán không dùng tiền mặt
Cùng với những nỗ lực của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để cung
cấp dịch vụ thanh toán qua mạng cho khách hàng với nhiều sản phẩm tiện ích,
các công ty làm dịch vụ kết nối trung gian cũng ra đời nhằm đón đầu xu thế
thanh toán không dùng tiền mặt. Một số tổ chức công nghệ thông tin rất năng
động trên thị trường dịch vụ thanh toán với tư cách là các nhà cung ứng dịch vụ
kết nối điện tử như Paynet, VinaPay, VASC Payment, VietPay… nhắm tới vai trò
làm trung gian kết nối và xử lý thông tin giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ đang
cần phát triển mạng lưới thanh toán điện tử đến người sử dụng. Một ví dụ cụ thể
là Paynet, với mạng lưới cung cấp dịch vụ phân phối điện tử, có thể xử lý các
hóa đơn thanh toán điện tử cho một số ngân hàng.
1.3. Các sản phẩm dịch vụ cung ứng
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam không những gia tăng
về số lượng ngân hàng mà chất lượng hoạt động kinh doanh cũng được nâng
lên, cơ sở vật chất cho các dịch vụ ngân hàng ngày càng đầy đủ và hiện đại, cơ
hội tiếp xúc, học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển về dịch vụ ngân hàng
ngày càng mở rộng. Hoạt động của các NHTM ngày càng mang tính chuyên
nghiệp và có uy tín hơn đối với trong nước và quốc tế. Hầu hết các NHTM đều
kinh doanh đa năng, các chủng loại dịch vụ đa dạng hơn và có chất lượng cao
hơn, đặc biệt là các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Thành công lớn nhất có thể thấy rõ về sự phát triển dịch vụ ngân hàng là dịch
vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ ngân hàng trực tuyến với những tiện ích vượt
trội, khách hàng có thể mở tài khoản ở một nơi nhưng thực hiện giao dịch ở bất
kỳ chi nhánh nào thuộc hệ thống NHTM đó trên toàn quốc. Dịch vụ ngân hàng
trực tuyến là tiền đề cho sự phát triển của các dịch vụ thanh toán hiện đại trên thị
trường Việt Nam.
Các dịch vụ thanh toán tiếp tục duy trì xu hướng gia tăng, đặc biệt là các dịch
vụ thanh toán có ứng dụng công nghệ cao, trong đó dịch vụ thẻ vẫn tiếp tục
phát triển mạnh, đến nay cả nước có 29 ngân hàng đã triển khai phát hành thẻ
thanh toán, với khoảng 7 triệu thẻ. Hiện nay, có 120 loại thẻ ngân hàng đã phát
hành, trong đó thẻ nội địa có 71 loại, thẻ quốc tế có 41 loại, thẻ ghi nợ có 73 loại,
thẻ tín dụng có 44 loại và thẻ trả trước có 03 loại. Các ngân hàng không ngừng
đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho công nghệ thẻ, đến nay đã có khoảng
20 ngân hàng đã trang bị máy giao dịch tự động (ATM) với khoảng hơn 4.000
máy, thiết bị chấp nhận thẻ (POS/EDC) lên đến khoảng hơn 22.000 chiếc và tiếp
tục tăng nhanh trong thời gian tới. Thị trường dịch vụ thẻ hiện đang chứng kiến
một trào lưu ra đời của một loại thẻ mới, hiện đại - thẻ trả trước, với sự hiện diện
của đông đảo các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ. Mục tiêu phát
hành thẻ đến cuối năm 2010 đạt mức 15 triệu thẻ, 70% các trung tâm thương
mại, siêu thị, nhà hàng, khách sạn, cửa hàng tự chọn… lắp đặt các thiết bị chấp
nhận thanh toán thẻ; phấn đấu đến năm 2020 con số này đạt lần lượt là 30 triệu
thẻ và 95%.
Về dịch vụ mở và thanh toán qua tài khoản cá nhân đang trong xu thế phát
triển nhanh chóng, với sự tham gia ngày một gia tăng lượng khách hàng vào thị
trường chứng khoán. Việc trả lương, bảo hiểm xã hội qua tài khoản vẫn được
tiếp tục triển khai tại một số tỉnh, thành phố, với sự chủ động, tích cực của một
số NHTMNN lớn và đạt được những thành công tại một số địa bàn như thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và có thể triển khai ở một số tỉnh
khác. Mục tiêu đến năm 2010 đạt mức 20 triệu tài khoản cá nhân; 70% cán bộ
hưởng lương ngân sách và 50% công nhân lao động trong khu vực doanh
nghiệp, tư nhân thực hiện trả lương qua tài khoản. Đến năm 2020, đưa những
con số này lên lần lượt là 45 triệu tài khoản cá nhân; 95% cán bộ hưởng lương
ngân sách và 80% lao động được trả lương qua tài khoản.
Hiện nay, đã có nhiều ngân hàng đang tiến hành nghiên cứu và triển khai
Internet Banking. NHTMCP Kỹ thương trong tháng 5 vừa qua đã triển khai thanh
toán qua mạng và các ngân hàng khác cũng đang trong quá trình triển khai. Diễn
đàn Banking lần thứ 6 vừa mới diễn ra cũng đã khẳng định vị thế của dịch vụ
ngân hàng điện tử, hứa hẹn thanh toán điện tử sẽ phát triển mạnh trong thời
gian tới.
Bên cạnh đó, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ ngày càng được các
NHTM Việt Nam quan tâm phát triển với nhiều chủng loại đa dạng và tiên tiến.
Nhiều tiện ích của sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ đã được khai thác áp
dụng cho toàn bộ các sản phẩm chuyển tiền, tiền gửi, tiền vay, đầu tư dài hạn
vào giấy tờ có giá, các nghiệp vụ giao dịch ngoại hối như: Hợp đồng giao ngay
(Spot), Hợp đồng tương lai (Forward), Hợp đồng hoán đổi (Swap),... Đây là
những dịch vụ tiên tiến đã được kiểm chứng và đánh giá là an toàn về chất
lượng cung ứng dịch vụ, tiện lợi trong giao dịch, hiệu quả trong kinh doanh, đầu
tư.
2. Lộ trình phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại giai đoạn 2007 - 2010
2.1. Đối với các dịch vụ tín dụng, dịch vụ thanh toán, các hoạt động quản lý và
hoạt động hỗ trợ khác
- Tham gia thị trường mua bán nợ thông qua hình thức chứng khoán nợ;
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ứng dụng công nghệ điện tử - tin học trong
quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, quản trị ngân hàng;
lưới kênh phân phối cả về lượng và về chất nhằm mở rộng địa bàn hoạt động,
phát triển thêm các kênh phân phối mới (qua ATM, Internet, điện thoại,…) giúp
khách hàng dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng;
- Phát triển các dịch vụ tài chính phái sinh như: giao dịch mua bán giao ngay,
tương lai, quyền chọn tiền tệ (currency option), quyền chọn vàng (gold option),
hoán đổi lãi suất,…
- Phát triển dịch vụ bảo hiểm, hoạt động đầu tư… để từng bước thành lập tập
đoàn ngân hàng đa năng;
- Thực hiện tốt các giao dịch thanh toán điện tử, chuyển tiền điện tử, giao dịch
tại nhà; các giao dịch thanh toán thẻ;
- Phát triển dịch vụ thanh toán và quyết toán các tài sản tài chính. Bao gồm
các chứng khoán, các sản phẩm tài chính phái sinh và các công cụ thanh toán
khác;
- Cung cấp và chuyển tải thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính và các
phần mềm của các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính khác;
- Mở rộng dịch vụ ngân hàng quốc tế đến các doanh nghiệp, tầng lớp trung
lưu;
- Tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty cho thuê
tài chính. Đây là mô hình phù hợp với nền kinh tế hiện nay bởi khả năng đáp
ứng vốn trung, dài hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tư vấn, trung gian môi giới các dịch vụ tài chính phụ trợ khác như: môi giới
mua bán chứng khoán, uỷ thác đầu tư,…;
2.2. Đối với dịch vụ giữ hộ và quản lý hộ tài sản
- Các tổ chức tín dụng, ngân hàng nhận uỷ thác của khách hàng, giữ hộ
chứng khoán, thu hộ tiền lãi, tiền gốc khi đến hạn phải thu với một lệ phí hợp lý
giúp khách hàng tiết kiệm thời gian đi nhận tiền lãi, tiền gốc khi chứng khoán đáo
hạn;
- Mở rộng các dịch vụ giữ hộ giấy tờ có giá, dịch vụ môi giới mua bán nhà đất,
hợp thức hoá chủ quyền nhà, đất, đóng thuế trước bạ và các khoản thuế khác
theo yêu cầu uỷ quyền của khách hàng;
- Ngoài ra, các tổ chức tín dụng còn có thể mở dịch vụ thay mặt khách hàng
mua hộ, bán hộ chứng khoán theo uỷ quyền của khách hàng nhằm giúp khách
hàng sử dụng các khoản thặng dư tài chính có lợi ích cao nhất để đầu tư vào
các chứng khoán mong muốn.
3. Những vấn đề cần quan tâm để phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại
3.1. Đối với các ngân hàng thương mại
Thứ nhất, xây dựng một hệ thống ngân hàng đủ mạnh về vốn, về công nghệ
hạ tầng kỹ thuật, về năng lực tài chính, năng lực quản lý,… để cạnh tranh với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Về quy mô vốn của NHTM Việt Nam
hiện nay không thể bằng các ngân hàng lớn trong khu vực. Nhưng mục tiêu đặt
ra cho các ngân hàng Việt Nam là phải có đầy đủ các dịch vụ ngân hàng hiện đại
như các ngân hàng nước ngoài. Khả năng các NHTM Việt Nam sẽ đạt quy mô
vốn đủ sức cạnh tranh với nước ngoài vào giai đoạn sau năm 2010.
Thứ hai, đẩy nhanh cổ phần hoá các NHTMNN tạo nền tảng nguồn cho việc
hình thành các tập đoàn ngân hàng đa năng Việt Nam, tăng cường ảnh hưởng
trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế.
Thứ ba, tính chuyên nghiệp trong cung cấp dịch vụ là yếu tố quan trọng để
phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại trong điều kiện cạnh tranh, hội nhập. Tính
chuyên nghiệp được thể hiện ở phương thức, quy trình, tốc độ xử lý nghiệp vụ,
cách thức giao tiếp, thậm chí cả hình thức bên ngoài,… cũng cần được quan
tâm vì tất cả các yếu tố này thể hiện khả năng tổ chức công việc có chuyên
nghiệp hay không, có tạo được lòng tin nơi khách hàng hay không.
Thứ tư, hệ thống giám sát lành mạnh và tích cực là nhân tố tạo môi trường
thuận lợi cho các dịch vụ ngân hàng hiện đại phát triển. Một hệ thống tài chính
hoạt động có hiệu quả và ổn định sẽ bảo đảm nhiều cơ hội cho việc phát triển,
tiếp cận các dịch vụ ngân hàng tài chính có chất lượng cao với chi phí thấp. Hệ
thống tài chính như thế chỉ tồn tại trong điều kiện có một hệ thống giám sát lành
mạnh và tích cực. Mục tiêu của giám sát không chỉ để ngăn chặn khủng hoảng
tài chính mà còn đảm bảo sự ổn định bền vững của nền tài chính quốc gia. Một
trong những nội dung cơ bản nhất cần được quan tâm đó là khả năng chống đỡ
rủi ro của toàn hệ thống - khả năng thanh khoản. Nó có ý nghĩa quyết định đến
sự tồn vong của hệ thống ngân hàng.
Thứ năm, phát triển và hoàn thiện hệ thống thanh toán. Hầu hết các dịch vụ
ngân hàng trong đó có dịch vụ ngân hàng hiện đại đều gắn liền với hoạt động
thanh toán. Vì thế nếu hoạt động thanh toán càng phát triển, càng hiện đại, càng
tiện lợi, nhanh chóng và chính xác thì càng góp phần nâng cao hiệu quả của các
hoạt động dịch vụ. Điều đó có nghĩa là hệ thống thanh toán được tổ chức tốt hơn
thì không chỉ làm tăng doanh số thanh toán, làm cho dịch vụ thanh toán ngày
càng trở nên hoàn thiện hơn trong mắt của người tiêu dùng mà còn góp phần hỗ
trợ tích cực cho các hoạt động của các dịch vụ khác phát triển.
Thứ sáu, dịch vụ ngân hàng hiện đại được phát triển dựa trên cơ sở những
tiến bộ về công nghệ thông tin. Hệ thống hạ tầng công nghệ là yếu tố nền tảng
cho việc triển khai các sản phẩm dịch vụ mới, phát triển hệ thống chi nhánh cũng
như ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại. Theo đó, phải xây dựng Trung tâm
xử lý chính nhằm tập trung hóa cơ sở dữ liệu hoạt động ngân hàng; Trung tâm
xử lý dự phòng nhằm đảm bảo an toàn dữ liệu hoạt động khi trung tâm xử lý
chính gặp sự cố; Mạng truyền thông giữa các chi nhánh. Công nghệ được ứng
dụng phải đảm bảo các yếu tố sau: (i) Quản trị rủi ro trong hoạt động; (ii) Quản trị
thanh khoản; (iii) Phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại.
3.2. Đối với Chính phủ, NHNN Việt Nam
Thứ nhất, Chính phủ từng bước phân định rõ ràng quyền hạn quản lý nhà
nước của Chính phủ và NHNN trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách
tiền tệ, đổi mới cơ cấu tổ chức của NHNN. Trong mối quan hệ với Chính phủ,
NHNN Việt Nam cần có một vị trí độc lập tương đối.
Thứ hai, xây dựng môi trường pháp lý hoàn chỉnh tạo điều kiện đảm bảo cho
hoạt động dịch vụ ngân hàng điện tử, thương mại điện tử phát triển phù hợp với
thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Thứ ba, xây dựng hệ thống thông tin tài chính hiện đại, đảm bảo cho hệ thống
ngân hàng hoạt động an toàn hiệu quả, dễ giám sát, đồng thời lập một chương
trình về hội nhập quốc tế về tài chính trên mạng internet để cập nhật thông tin tài
chính, tiền tệ thế giới.
Thứ tư, có định hướng phát triển công nghệ thông tin cho ngành Ngân hàng,
trên cơ sở đó các ngân hàng xây dựng hệ thống công nghệ thông tin, phát triển
các dịch vụ, tiện ích ngân hàng.
Thứ năm, tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế nhằm khai thông các hoạt
động ngân hàng ra nước ngoài và tận dụng được nguồn vốn, công nghệ từ các
nước và các tổ chức quốc tế, trao đổi thông tin về lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt
về đào tạo, phổ biến kiến thức và kinh nghiệm hội nhập cho những cán bộ của
NHNN và một số NHTM.n
Ngày 07/12/2007
- Xem thêm -