Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngo...

Tài liệu Phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việt nam

.PDF
113
189
106

Mô tả:

Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp TRỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI -------***------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ NHẰM TĂNG CỜNG THU HÚT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM Sinh viên thực hiện Lớp Khóa Giáo viên hƣớng dẫn : Nguyễn Thị Phương Thảo : Anh 12 : 43C - KT&KDQT : ThS. Trần Thị Ngọc Quyên Hà Nội – 06/2008 1 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp Danh mục các chữ viết tắt Chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ASEAN Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á FDI Foreign direct investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài Multinational Coporation Công ty đa quốc gia Small and medium-sized Enterprises Doanh nghiệp vừa và nhỏ MNC SMEs CNH-HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa CNPT Công nghiệp phụ trợ DN Doanh nghiệp ĐTNN Đầu tư nước ngoài TNHH Trách nhiệm hữu hạn VN Việt Nam 2 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp Danh mục bảng biểu Bảng 1: 20 mặt hàng có kim ngạch xuất – nhập khẩu nhiều nhất của ASEAN ....................................................................................................... 13 Bảng 2: Cơ cấu mua sắm các linh phụ kiện của các nhà lắp ráp xe máy Nhật Bản (tính đến năm 2007) ............................................................... 46 Bảng 3: Số lượng các doanh nghiệp thuộc ngành dệt và may mặc phân loại theo loại hình sở hữu. .................................................................................69 Bảng 4: Đặc thù của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam........................69 Bảng 5: Tình hình phát triển của ngành xe máy .......................................... 71 Bảng 6: Tình hình sản xuất và thực hiện nội địa hóa của Honda VN .......... 72 Bảng 7: Thị phần các nhà lắp ráp xe máy .................................................... 73 Bảng 8: Danh sách các doanh nghiệp liên doanh sản xuất FDI ........................74 Bảng 9: Tổng giá trị sản xuất các sản phẩm điện, điện tử của một số nền kinh tế 82 3 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp Lời mở đầu 1. Lý do lựa chọn đề tài: Thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” mặc dù xuất hiện khá lâu tại các quốc gia khác nhưng tại Việt Nam, thuật ngữ này chỉ trở nên phổ biến kể từ năm 2003, khi Chính phủ chỉ đạo các công đoạn chuẩn bị để tiến tới ký kết “Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Trong đó, hạng mục đầu tiên là nhằm phát triển CNPT ở Việt Nam. Với sự kiện này, CNPT bước đầu đã đạt được một số thành tựu nhất định. Mặt khác, trong xu thế tự do hóa thương mại và đầu tư hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa 100% đã trở nên không thích hợp nữa và chính sách này đang dần được bãi bỏ trước sức ép của toàn cầu hóa. Không một quốc gia nào có thể sản xuất hoàn toàn trong nước theo kiểu kết hợp chiều dọc như một nền kinh tế đóng. Để tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh toàn cầu, ngành công nghiệp của Việt Nam cần phải kết hợp các đầu vào tốt nhất từ khắp nơi trên thế giới. Nhưng câu hỏi then chốt là làm thế nào để để đạt được tỷ lệ nội địa hóa tối ưu – nên nội địa hóa bộ phận nào và nên nhập khẩu bộ phận nào? Hay nói khác đi, ngành CNPT nên được phát triển theo hướng nào để có thể tận dụng được tất cả những lợi thế so sánh của Việt Nam và mang lại hiệu quả cao nhất của ngành này? Câu hỏi này có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi mua sắm của các doanh nghiệp FDI. Ngành CNPT được coi là phát triển khi nó có thể đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của các doanh nghiệp FDI này. Hơn nữa, khi xem xét trên quan điểm “động cơ nội địa hóa” của các doanh nghiệp FDI thì các doanh nghiệp này đều thể hiện mong muốn có thể thu mua các linh – phụ kiện nội địa nhằm giảm chi phí sản xuất, chi phí hậu cần, từ đó giảm giá thành sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. Do vậy, phát triển CNPT nhằm đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp lắp ráp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, từ đó tăng cường thu hút FDI là một hướng đi đúng đắn. Xuất phát từ những lí do trên, em 4 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp đã chọn đề tài “Phát triển Công nghiệp phụ trợ nhằm tăng cƣờng thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của nghiên cứu của khóa luận: Mục tiêu của khóa luận là chỉ ra con đường nào và đề xuất các giải pháp phát triển CNPT nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu trên, khóa luận cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ngành CNPT ở Việt Nam. - Đánh giá thực trạng phát triển CNPT và khả năng đáp ứng nhu cầu về sản phẩm phụ trợ đối với các doanh nghiệp FDI của Việt Nam trong thời gian vừa qua. - Trên cơ sở những phân tích trên, đề xuất một số giải pháp phát triển CNPT từ đó tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Ngành CNPT ở Việt Nam trong mối liên hệ với đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Phạm vi nghiên cứu: + Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu ngành CNPT từ những năm 1990, khi CNPT bắt đầu trở nên phổ biến tại các nước Đông Á. + Về không gian: Ngành CNPT ở Việt Nam., cụ thể là ngành sản xuất ô tô, ngành xe máy, ngành điện – điện tử, và ngành dệt may. 4. Phương pháp nghiên cứu: Để làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của khóa luận, trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương pháp: kết hợp điều tra, thống kê, tổng hợp, so sánh, và dự báo trong quá trình nghiên cứu. 5 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp 5. Bố cục luận văn: Luận văn được cấu trúc thành 3 chương với phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, chữ viết tắt, tài liệu tham khảo và mục lục. Chương I: Tổng quan về ngành CNPT và đầu tư trực tiếp nước ngoài Chương II: Thực trạng phát triển ngành CNPT nhằm tăng cường thu hút FDI tại Việt Nam Chương III: Giải pháp phát triển ngành CNPT nhằm thu hút FDI tại Việt Nam trong thời gian tới Do kiến thức còn nhiều hạn chế, nên trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, khóa luận không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn Th.S Trần Thị Ngọc Quyên đã tận tình hướng dẫn giúp em hoàn thành luận văn này. 6 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp Chƣơng I: Tổng quan ngành công nghiệp phụ trợ và đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài 1.1 Tổng quan về ngành công nghiệp phụ trợ 1.1.1 Khái niệm CNPT: 1.1.1.1. Sự ra đời của thuật ngữ CNPT: “CNPT”-“Supporting Industries” là một thuật ngữ tiếng Anh do người Nhật Bản nghĩ ra và được các doanh nghiệp Nhật Bản sử dụng đầu tiên rất lâu trước khi trở thành một thuật ngữ chính thức. “CNPT” trở nên phổ biến ở Nhật Bản vào giữa những năm của thập niên 1980 khi thuật ngữ này được sử dụng trong một văn bản chính thức là “Sách trắng về hợp tác kinh tế 1985” (“White Paper on Economic Cooperation 1985”) của Bộ Công Nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản. Theo đó, thuật ngữ “Công nghiệp phụ trợ” được sử dụng để đề cập đến “các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp vào việc củng cố cơ sở hạ tầng công nghiệp tại các nước châu Á trong trung và dài hạn”, hoặc có thể được đề cập theo một nghĩa khác là “các doanh nghiệp sản xuất các bộ phận hoặc thành phần”. Mục đích của Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản lúc đó là nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa và sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các nước ASEAN, đặc biệt là các quốc gia trong ASEAN 4 (Inđô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Philipines, và Thái Lan). Hai năm sau, Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản lại một lần nữa giới thiệu thuật ngữ này tới các nước ASEAN thông qua Kế hoạch Phát triển Công nghiệp Châu Á mới. Kế hoạch là sự hợp tác kinh tế toàn diện dựa trên ba lĩnh vực: viện trợ, đầu tư và thương mại. Trong khuôn khổ bản Kế hoạch, Chương trình phát triển CNPT Châu Á đã được công bố trong năm 1993 nhằm giải quyết sự mất cân bằng thương mại, cơ sở hạ tầng còn chưa phát triển, sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chuyên môn tại các quốc gia thuộc ASEAN 4 và đẩy mạnh hợp tác công nghiệp giữa Nhật Bản và các quốc gia này. Theo Chương 7 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp trình này, phạm vi của ngành CNPT được mở rộng từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ sang thành một ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm trung gian và máy móc, trang thiết bị cho ngành công nghiệp lắp ráp mà không đề cập đến quy mô công ty. Một câu hỏi được đặt ra là tại sao thuật ngữ này xuất hiện ở Nhật Bản mà không phải là một quốc gia nào khác, và vào giữa những năm 1980 mà không phải là một thời điểm sớm hơn hay muộn hơn. Sự kiện đồng Yên lên giá và nỗ lực phát triển nền tảng công nghiệp của Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại các nước châu Á có thể coi là sự giải đáp cho câu hỏi này. Đồng Yên đã lên giá một cách đột ngột sau Hiệp ước Plaza vào tháng 9 năm 1985, từ mức giá 240 Yên đổi một Đô là Mỹ vào tháng 9 năm 1985 đã lên mức 160 Yên đổi một Đô la Mỹ. Chính điều này đã có ảnh hưởng to lớn lên các doanh nghiệp xuất khẩu Nhật Bản. Đồng Yên lên giá làm cho các doanh nghiệp Nhật Bản giảm xuất khẩu các sản phẩm hoàn thiện và chuyển việc sản xuất sang các quốc gia có mức chi phí lao động thấp hơn. Mặc dù vậy, các nhà máy của Nhật Bản tại nước ngoài phải nhập khẩu bộ phận và thành phần từ các nhà thầu phụ của họ tại Nhật Bản vì các nhà cung cấp các bộ phận và thành phần thiết yếu không có sẵn tại các nước đang phát triển, bao gồm các nước ASEAN 4. Theo đó, thuật ngữ “CNPT” được sử dụng để chỉ sự thiếu hụt của các ngành công nghiệp này tại các quốc gia đó. Có thể nói, sự lên giá của đồng Yên và nỗ lực của Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản là điều kiện cần và đủ cho sự ra đời của thuật ngữ CNPT tại Nhật Bản và các nước Châu Á. 1.1.1.2. Khái niệm Công nghiệp phụ trợ: “Supporting Industries” theo nghĩa tiếng Việt có nghĩa là “Công nghiệp phụ trợ”. Mặc dù thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia, nhưng vẫn còn rất mơ hồ và không có đồng nhất trong định nghĩa. Việc “CNPT” được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm tất cả các ngành công nghiệp sản xuất các thành phần và bộ phận của một sản phẩm hay là được hiểu theo nghĩa hẹp là các ngành 8 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp công nghiệp chỉ cung cấp các bộ phận, thành phận và các dụng cụ cho các ngành công nghiệp nhất định phụ thuộc nhiều vào cách hiểu của người sử dụng thuật ngữ. Tuy nhiên, trên thực tế, mỗi quốc gia có một cách hiểu khác nhau và không thống nhất về khái niệm CNPT. Tại Thái Lan, người ta định nghĩa CNPT là các doanh nghiệp sản xuất các thành phần và bộ phận được sử dụng trong quá trình lắp ráp cuối cùng của ngành công nghiệp ô tô, máy móc và sản xuất điện tử (Nguồn Ratana, 1999:2). Trong khi khái niệm “CNPT” của Thái Lan chỉ bó hẹp trong một số ngành công nghiệp nhất định, Phòng Năng lượng của Mỹ định nghĩa CNPT là ngành công nghiệp cung cấp nguyên liệu cần thiết để hình thành hoặc chế tạo nên các sản phẩm trước khi được tung ra thị trường bán cho người tiêu dùng. Ngoài ra còn có một cách hiểu khác về CNPT mang tính tổng quát nhất. Nhìn hình 1 ta thấy khái niệm ngành CNPT có 3 phạm vi:  Phạm vi cốt lõi là phạm vi nhỏ nhất;  Phạm vi rộng 1 bao gồm phạm vi cốt lõi và các dịch vụ sản xuất;  Phạm vi rộng 2 bao gồm phạm vi cốt lõi và máy móc, nguyên vật liệu 9 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp Hình 1: Phạm vi ngành công nghiệp phụ trợ Nguồn: “Tổng quan về khái niệm và sự phát triển ngành CNPT”- Nguyễn Thị Xuân Thủy thực hiện (2006) Theo cách hiểu này, khái niệm cốt lõi định nghĩa CNPT là ngành công nghiệp cung cấp bộ phận (parts), thành phần (components) và dụng cụ (tools) để sản xuất ra hàng hóa cuối cùng (Assembly/Sub-assembly). Có hai phạm vi khái niệm rộng hơn: i) Khái niệm rộng 1 (broad scope 1): theo khái niệm này thì CNPT được định nghĩa là ngành cung cấp các bộ phận, thành phần, dụng cụ để sản xuất ra các bộ phận và thành phần đó, và các dịch vụ sản xuất như dịch vụ hậu cần, dự trữ, phân phối và bảo hiểm. ii) Khái niệm rộng 2 (broad scope 2): CNPT là ngành công nghiệp bao gồm tất cả các đầu vào mang tính vật chất, bao gồm các bộ phận, thành phần, dụng cụ, máy móc và nguyên vật liệu. Khái niệm này 10 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp giống như khái niệm mà Nhật Bản đã đưa ra trong Chương trình phát triển CNPT tại các quốc gia châu Á vào năm 1993. Mặc dù mỗi quốc gia có một cách hiểu khác nhau về CNPT nhưng có một điểm chung: phạm vi cốt lõi của ngành CNPT là tạo ra các bộ phận, thành phần cấu tạo trực tiếp nên sản phẩm lắp ráp cuối cùng. Trong hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam, với nguồn vốn đầu tư hạn chế, cơ sở cho ngành công nghiệp (như hạ tầng cơ sở, nguồn nhân lực, công nghệ-kĩ thuật…) còn chưa phát triển, sức ép từ phía hội nhập và cạnh tranh quốc tế, khái niệm cốt lõi phù hợp với mục đích sử dụng để huy động mọi nguồn lực cho sự phát triển của CNPT. Tuy nhiên, để phục vụ cho việc nghiên cứu và hoạch định chính sách ở Việt Nam thì cần phải kết hợp một cách linh hoạt hai khái niệm rộng đã đề cập bên trên. Khi đề cập đến CNPT tại Việt Nam, chúng ta cần phải đề cập đến sản phẩm vốn (công cụ và máy móc) và các dịch vụ sản xuất (dịch vụ hậu cần, lưu kho, phân phối và bảo hiểm) vì hai lĩnh vực này còn rất yếu và kém tính cạnh tranh. Khi hai phạm vi này được bao hàm trong khái niệm CNPT thì các nhà hoạch định chính sách sẽ cần phải hoàn thiện sản phẩm vốn và các dịch vụ sản xuất nếu như muốn phát triển ngành CNPT. Nói một cách khác, CNPT là một thuật ngữ đề cập đến một nhóm các hoạt động công nghiệp cung cấp các đầu vào trung gian (không phải là nguyên vật liệu thô và không phải là sản phẩm hoàn thiện). Các đầu vào trung gian này sẽ được cung cấp cho các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm đầu ra cuối cùng. Khi đó, CNPT được đặt ở giữa quá trình sản xuất theo chiều dọc. Mặc dù được gọi là một ngành công nghiệp nhưng CNPT không thể được hiểu như là một ngành cụ thể giống như ngành điện tử, ô tô, may mặc,...mà ngành CNPT là ngành có mối liên hệ mật thiết với tất cả các ngành này. 11 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp Hình 2: CNPT theo ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm đầu ra Nguồn: Phát triển ngành CNPT trong quá trình công nghiệp hóa tại Việt NamDevelopment of Supporting industries for Vietnam’s industrialization (Submitted by Junichi Mori)-2003 Trong hình 2, ngành lắp ráp điện tử và ngành lắp ráp xe máy có chung ngành CNPT là ngành chế biến nhựa và kim loại; ngành may mặc và da giầy chung ngành CNPT là ngành dệt vải, làm da, và sản xuất phụ tùng; ngành chế biến thức ăn sử dụng các hàng hóa nông-lâm-ngư nghiệp. Một điều đáng chú ý nữa là phạm vi của CNPT không đề cập chính xác tới quy mô của các doanh nghiệp trong ngành, chế độ sở hữu hoặc kiến trúc nền sản xuất. Hình 3: Ngành CNPT theo quy mô và chế độ sở hữu Doanh nghiệp vừa và nhỏ DN nƣớc ngoài & DN liên doanh Doanh nghiệp vừa và nhỏ khác DN xuất khẩu, DN lắp ráp và các DN nƣớc ngoài khác Doanh nghiệp nước ngoài và liên doanh trong ngành CNPT DN nhà nước trong ngành CNPT DN vừa và nhỏ trong ngành CNPT DN và nhỏ trong ngành CNPT Nguồn: “Tổng quan về khái niệm và sự phát triển ngành CNPT”- Nguyễn Thị Xuân Thủy (2006) 12 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp Các doanh nghiệp này có thể là các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, các doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Vì mục đích của CNPT là nâng cao tính cạnh tranh của ngành công nhiệp nên CNPT thường chỉ bao gồm những công ty có thể thỏa mãn tiêu chuẩn cao về chất lượng, chi phí và phân phối. 1.1.2. Đặc điểm của ngành CNPT 1.1.2.1. Là một ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn: Trên thực tế, ngành CNPT đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn hơn ngành lắp ráp cuối cùng. Trong khi các quy trình lắp ráp cuối cùng đòi hỏi nhiều nhân công thì ngành CNPT lại đòi hỏi nhiều máy móc hơn và ít nhân lực hơn. Trong ngành sản xuất bộ phận ô tô, sơn là một trong số hàng ngàn các bộ phận khác cấu tạo nên một chiếc ô tô hoàn chỉnh. Sơn tưởng như là một khâu đơn giản, phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng sơn và không tốn kém về mặt máy móc và công nghệ, nhưng trên thực tế, khi trả lời báo Vietnamnet, công ty Xuân Kiên cho biết họ đã phải chi ra 120 tỷ đồng cho công nghệ sơn điện li. Ngoài ra, chi phí chuyển giao công nghệ cho mỗi mẫu xe cũng có thể lên đến hàng trăm nghìn USD. Hơn nữa, những máy móc trong ngành này lại không thể chia nhỏ được (một công ty không thể mua 1/5 chiếc máy để tiết kiệm chi phí được). Một khi những máy móc này được lắp đặt, chi phí vốn cho nhà máy sẽ không thay đổi dù cho chúng có được hoạt động 24 tiếng một ngày và 365 ngày một năm, hay chỉ là trong một khoảng thời gian nhỏ. 1.1.2.2. Đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao: Nếu nhân công trong ngành lắp ráp, chế biến hay may mặc có thể là các lao động phổ thông vì công việc lắp ráp hay may mặc là những công việc đơn giản và có tính tuần hoàn, nhưng nhân công làm việc trong ngành CNPT hoàn toàn khác. Trong các ngành CNPT có sử dụng đến máy móc thì nhân công chủ yếu là những người vận hành máy móc, giám sát chất lượng, kĩ thuật viên hoặc kĩ sư. Tất cả họ đều phải trải qua trường lớp đào tạo để có thể có đủ năng lực làm việc với máy móc. Trong một số ngành như đúc, chế biến kim loại và phun 13 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp nhựa, một số khâu còn đòi hỏi các nhân công có trình độ tay nghề cao và có thậm chí phải khả năng tưởng tượng tốt.Cùng với sự phát triển của công nghệ kĩ thuật thì nguồn nhân lực cũng cần phải có sự tiến bộ về năng lực để có thể bắt kịp được với sự phát triển đó. Chính vì đòi hỏi vốn lớn và nhân công có trình độ nên ngành CNPT tại các nước đang phát triển có xu hướng kém cạnh tranh. Các nước này không đủ vốn hoặc nhân công không có đủ năng lực để có thể hoạt động tốt các máy móc sản xuất này. 1.1.2.3. Là ngành bao cung cấp đầu vào và máy móc, thiết bị cho các ngành công nghiệp khác Một sản phẩm lắp ráp hoàn thiện là kết quả của một quá trình sản xuất phức tạp bao gồm nhiều bộ phận khác nhau. Mỗi bộ phận lại mang những đặc điểm khác nhau, thuộc các ngành công nghiệp khác nhau. Chính vì vậy, thật dễ hiểu khi nói rằng ngành CNPT là một ngành bao trùm một lượng lớn các ngành công nghiệp khác. Trên thực tế, ngành công nghiệp điện tử, xe máy hoặc ô tô có chung ngành CNPT như ngành phun nhựa, ép kim loại,…Các sản phẩm điện dân dụng và xe máy đều sử dụng các bộ phận bằng nhựa được sản xuất thông qua một quy trình sản xuất giống nhau được gọi là quá trình ép phun. Các bộ phận kim loại nén được sử dụng cho các hàng hóa điện tử, xe máy và ô tô. Do đó ngành CNPT có thể là một nguồn cung cấp ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của các ngành sản xuất khác. Hình 4: Những ngành CNPT cơ bản bao trùm nhiều ngành công nghiệp 14 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp Trong hình vẽ trên, các bộ phận sản phẩm như: phụ tùng và linhh kiện, đúc, rèn, khuôn nhựa và nguyên liệu là những sản phẩm trung gian thuộc ngành CNPT và chúng là sản phẩm đầu vào trong nhiều ngành công nghiệp sản xuất khác nhau: ô tô, điện tử, điện. Những sàn phẩm phụ trợ kể trên được coi là các sản phẩm phụ trợ cơ bản vì chúng là sản phẩm đầu vào cho một số lượng lớn các ngành công nghiệp khác. 1.1.2.4. Là ngành có giá trị gia tăng cao: Giá trị gia tăng là khoản giá trị chênh lệch giữa đầu ra vào đầu vào của một quá trình sản xuất công nghiệp. Tại các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất, giá trị gia tăng tạo ra sẽ khác nhau. Hình 5: Chuỗi giá trị trong một ngành công nghiệp Nguồn: Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt NamGiáo sự Trần Văn Thọ (2005) Biểu đồ trên biểu diễn chu trình sáng tạo giá trị gia tăng trong một ngành công nghiệp. Lí do khiến giá trị gia tăng trong ngành sản xuất linh-phụ kiện lớn hơn trong ngành lắp ráp chính là do ngành CNPT có hàm lượng chất xám cao và công nghệ hiện đại. Chính giá trị gia tăng cao đã lôi kéo được ngày càng nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực CNPT. Nếu như trước đây, các nước ASEAN và Trung Quốc chủ yếu phụ trách công đoạn lắp ráp, công đoạn giá trị gia tăng 15 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp thấp nhất, thì bây giờ họ đã leo thang lên trên thượng nguồn của chuỗi giá trị, đặt biệt là giai đoạn sản xuất bộ phận, linh kiện (tức là di chuyển từ D lên C). Với công nghệ ngày càng tiên tiến hiện đại, cộng với số lượng doanh nghiệp phụ trợ ngày càng tăng, số lượng sản phẩm CNPT tại các quốc gia này ngày càng tăng, không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu nội địa mà còn được xuất khẩu sang các nước khác. Bảng 1: 20 mặt hàng có kim ngạch xuất – nhập khẩu nhiều nhất của ASEAN . Trên đây là 20 mặt hàng có kim ngạch xuất-nhập khẩu nhiều nhất của ASEAN, phần lớn trong số này các sản phẩm CNPT, bao gồm các sản phẩm trung gian và các sản phẩm máy móc. Điều này chứng tỏ ngành CNPT đang 16 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp khẳng định vai trò của nó trong nền kinh tế cũng như sức hấp dẫn của nó đối với các nhà đầu tư. 1.1.2.5. Khả năng cạnh tranh của một sản phẩm phụ trợ phải đáp ứng được ba yếu tố: chất lượng, chi phí và vận chuyển. Theo như tiêu chuẩn của các nhà sản xuất Nhật Bản, tính cạnh tranh của sản phẩm phụ trợ phụ thuộc vào chất lượng, chi phí và vận chuyển (QCD). Trong ngành sản xuất lắp ráp máy móc, chi phí các bộ phận chiếm một phần lớn trong tổng chi phí của các nhà sản xuất cuối cùng. Ví dụ, trong một bản điều tra của Junichi Mori với các MNC trong lĩnh vực điện tử tại Ma-lai-xia và Việt Nam năm 2004, đối với một nhà lắp ráp điện tử, chi phí các bộ phận cấu tạo chiếm 80% của chi phí sản xuất, trong khi đó thì chi phí lao động chỉ chiếm khoảng 2%. Nói một cách khái quát hơn nữa thì chi phí bộ phận thường chiếm khoảng 70-90% so với chi phí lao động chỉ chiếm khoảng 10%. Theo đó, khả năng cạnh tranh về mặt chi phí sẽ không thể đạt nếu như chi phí sản xuất ra các bộ phận đó không được giảm. Hơn nữa, các doanh nghiệp lắp ráp, đặc biệt là các doanh nghiệp lắp ráp đến từ Nhật Bản yêu cầu vận chuyển với mật độ thường xuyên và đúng giờ nhằm tối thiểu hóa chi phí lưu kho và thời gian quy trình sản xuất. Bình thường thì các nhà lắp ráp luôn yêu cầu vận chuyển diễn ra hàng ngày, thậm chí đến hàng giờ đối với nhiều doanh nghiệp sản xuất sản phẩm lắp ráp lớn. Việc vận chuyển nhanh và kịp thời sẽ là không thể nếu các bộ phận này được nhập khẩu vài tháng một lần hoặc là phải mất hàng nhiều ngày để có thể mang các bộ phận này đến nhà máy. Vì vậy, các nhà lắp ráp cuối cùng muốn các nhà cung cấp được đặt ở gần họ. Một vấn đề nữa cũng ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của ngành CNPT là chất lượng sản phẩm. Thậm chí nếu như các bộ phận được sản xuất ra với giá rẻ thì các nhà lắp ráp cũng sẽ không bao giờ mua nếu như chất lượng (và cả vận chuyển nữa) không được đảm bảo vì chất lượng sản phẩm phụ trợ ảnh hưởng trực tiếp và nhiều nhất đến chất lượng sản phẩm cuối cùng. 17 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp 1.1.3. Vai trò của ngành CNPT đối với sự phát triển của quốc gia: 1.1.3.1. Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa theo hướng mở rộng và chuyên sâu: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực chất là quá trình cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại nhằm phát triển lực lượng sản xuất và thúc đẩy hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý để đạt được tới năng suất lao động cao”. Vì một trong những tính chất của ngành CNPT là ngành cung cấp đầu vào cho một số lượng lớn các ngành công nghiệp khác, nên ngành CNPT phát triển chắc chắn sẽ góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của toàn bộ nền công nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung. Theo khái niệm của CNH, HĐH thì các yếu tố sau cần được thỏa mãn: “Quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại”, hay nói khác đi thì đây chính là quá trình chuyên môn hóa. Phát triển CNPT giúp các doanh nghiệp không phải thực hiện mọi khâu trong quá trình sản xuất ra một sản phẩm với khoản chi phí khổng lồ. Các doanh nghiệp sẽ chuyển từ sản xuất theo chiều dọc sang sản xuất theo chiều ngang. Với sự phát triển của CNPT, các doanh nghiệp chỉ cần tập trung vào chuyên môn hóa vào khâu mà mình có khả năng làm tốt nhất với một mức đầu tư chi phí hợp lý nhất. Các nhà lắp ráp hay chế biến sản phẩm cuối cùng sẽ không phải lo nhập khẩu hoặc sản xuất đầu vào nữa vì họ có thể yên tâm vào các sản phẩm đầu vào mua ngay trong nước. Kết quả là xã hội có sự phân công lao động ngày càng sâu sắc. “Sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại”: CNPT là một ngành đòi hỏi chi phí cho máy móc, công nghệ lớn hơn bất kì một ngành công nghiệp nào khác. Yếu tố công nghệ là một trơng những yếu tố quan trọng trong sự phát triển của ngành CNPT. Những ngành như sản xuất linh kiện điện tử, linh kiện ô tô, xe máy,… là những ví dụ điển hình của nhu cầu sử dụng công nghệ trong ngành CNPT. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, cùng với sự phát triển của công nghệ đang diễn ra hàng ngày trên toàn thế giới thì việc chuyển giao 18 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp công nghệ càng trở nên dễ dàng hơn. Với những nước đang phát triển, thì ngành CNPT cần phải tận dụng lợi thế của người đi sau, tiết kiệm thời gian phát triển công nghệ, mà thay vào đó là tiếp thu trực tiếp từ các nước có nền công nghiệp phát triển thông qua hình thức FDI hoặc viện trợ ODA,… Chính vì thế, trong quá trình HĐH-CNH, ngành CNPT là ngành có nhu cầu lớn nhất trong việc sử dụng công nghệ hiện đạ lớn nhất. “Hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý” Một cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu kinh tế trong đó tỷ lệ nông nghiệp giảm, tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ tăng lên. CNPT là ngành bao trùm số lượng lớn các ngành công nghiệp khác nên ngành này đang thu hút một số lượng lao động đáng kể. Hơn nữa, lao động trong ngành này đòi hỏi phải là những lao động có tay nghề, có trình độ được đào tạo, tiếp thu tốt công nghệ mới. Cùng với sự gia tăng của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, sẽ có một lượng lớn lao động trong nông nghiệp sẽ chuyển sang làm việc cho các công ty trong ngành công nghiệp này vì thu nhập của họ sẽ được cải thiện hơn. Người dân nhận thấy được lợi ích của đào tạo, giáo dục từ đó làm động lực cho thế hệ sau không ngừng trau dồi thêm kiến thức. Kết quả là cơ cấu lao động thay đổi, từ đó thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý hơn. 1.1.3.2. Một ngành CNPT cạnh tranh sẽ giúp nền kinh tế tăng trưởng trong dài hạn: Nếu như ba nhân tố cấu tạo nên tính cạnh tranh của một sản phẩm phụ trợ được giải quyết thì ngành CNPT sẽ trở nên cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn,vì: Thứ nhất, một quốc gia với ngành CNPT cạnh tranh có thể duy trì nguồn vốn FDI cho ngành lắp ráp cuối cùng tương đối lâu hơn một quốc gia không có ngành CNPT cạnh tranh. Với xu hướng chi phí lao động ngày càng chiếm một tỷ lệ nhỏ thì dù một nền kinh tế đang nổi với chi phí nhân công rẻ cũng không thể đạt được công nghệ để sản xuất các đầu vào ở một mức giá cạnh tranh ngay lập tức được. Theo đó, một nhà lắp ráp đa quốc gia có thể vẫn ở lại một quốc gia cho dù quốc gia đó đang mất đi lợi thế về chi phí lao động, miễn là lợi ích mà họ 19 Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp nhận được từ việc sử dụng các đầu vào cạnh tranh có thể bù đắp được chi phí lao động đang tăng cao. Thứ hai, sản phẩm của ngành CNPT có thể được xuất khẩu tới các quốc gia mà ngành lắp ráp cuối cùng ở đó đang có nhu cầu. Hình 6: Khả năng xuất khẩu của ngành CNPT Nguồn: Báo cáo của Diễn đàn phát triển Việt Nam về CNPT tại Việt Nam từ triển vọng của các doanh nghiệp sản xuất Nhật Bản (2006) Có hai cách để xuất khẩu sản phẩm của ngành CNPT. Cách thứ nhất là xuất khẩu gián tiếp. Các nhà cung cấp bộ phận sẽ cung cấp đầu vào cho các nhà lắp ráp. Sản phẩm được xuất khẩu sẽ là sản phẩm hoàn chỉnh do các nhà lắp ráp sản xuất. Khi đó một ngành CNPT cạnh tranh sẽ tạo ra các sản phẩm là các bộ phận có chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh và vận chuyển đúng thời gian, là cơ sở tốt để các nhà lắp ráp có thể sản xuất ra các sản phẩm có đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Cách thứ hai là xuất khẩu trực tiếp. Khi đó các bộ phận sản xuất ra sẽ được xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài. Với khả năng cạnh tranh cao, các bộ phận xuất khẩu sẽ đạt được giá cao và uy tín trên thị trường quốc tế. Cuối cùng, sự phát triển của ngành CNPT sẽ tạo nên ảnh hưởng tích cực trong việc thúc đẩy đổi mới công nghệ, từ đó cải thiện phúc lợi của một quốc gia. Trong lý thuyết Khối kim cương, cùng với các yếu tố: điều kiện các yếu tố sản xuất, các ngành hỗ trợ và có liên quan, điều kiện về cầu thì CNPT và các 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng