Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại h...

Tài liệu Phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh hà tây

.PDF
107
6096
25

Mô tả:

Phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh hà Tây
MỤC LỤC MỤC LỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CTCP : Công ty cổ phần CT TNHH : Công ty Trách nhiệm hữu hạn CN : Công nghiệp CN-TTCN : Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp CCN : Cụm công nghiệp CĐCN : Cụm, điểm công nghiệp DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước ĐCN : Điểm công nghiệp FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài KCN : Khu Công nghiệp KCX : Khu Chế xuất ODA : Vốn phát triển châu Á TTCN : Tiểu thủ công nghiệp UBND : Uỷ Ban Nhân Dân USD : Đô la Mỹ VNĐ : Đồng Việt Nam GDP : Tổng sản phẩm quốc nội WTO : Tổ chức Thương mại thế giới DANH MỤC SƠ ĐỒ Số sơ đồ Tên sơ đồ Trang Sơ đồ 2.1 Về cơ cấu kinh tế ngành 67 Sơ đồ 3.1 Sơ đồ về cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh Hà Tây 72 DANH MỤC BẢNG BIỂU Số biểu Tên biểu bảng Trang TT bảng 1 Bảng 1.1 Tình hình phát triển các cụm điểm công nghiệp 7 làng nghề tại một số tỉnh 2 Bảng 2.1 Phát triển các làng nghề ở tỉnh Hà Tây đến năm 52 2005 và định hướng đến năm 2010 3 Bảng 2.2 Tổng hợp chi tiết phát triển làng nghề ở tỉnh 55 Hà Tây giai đoạn 2001-2005 Bảng 2.3 Tổng hợp tình hình thu hút các dự án đầu tư vào 4 các cụm, điểm công nghiệp ở tỉnh Hà Tây giai 63 đoạn 2001-2006 5 Bảng 2.4 Tổng hợp quy hoạch phát triển CN – TTCN Hà 64 Tây đến 2010, định hướng đến 2020 6 7 Bảng 2.5 Về chuyển dịch cơ cấu Công nghiệp - Xây 66 dựng Bảng 3.1 Kết quả sản xuất công nghiệp Hà Tây 20012005 71 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội của Đảng ta xác định: “Chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng, vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”. Để thực hiện được mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, điều quan trọng hàng đầu là phải cải tiến căn bản tình trạng nền kinh tế xã hội kém phát triển, chiến thắng những rào cản những lực lượng cản trở con đường và quá trình đi lên của nền kinh tế. Cương lĩnh xây dựng đất nước xác định: “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân” ... “phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ ra rằng: “Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân”. Đảng ta chủ trương “đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân”. Giai đoạn (2006 - 2010) những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. “Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển có thu nhập thấp”. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và hiệu quả, năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2020. Phát triển nhanh hơn công nghiệp - xây dựng cần chú ý mối quan hệ gắn kết hữu cơ giữa phát triển công nghiệp – xây dựng với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và phát triển về nông nghiệp hàng hóa bền vững. Đại hội X xác định: “Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước; hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo đảm các điều kiện sinh hoạt cho người lao động”. Như vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì vấn đề phát triển các cụm, điểm công nghiệp giữ vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển các cụm, điểm công nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết tốt, có hiệu quả đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Chính vì thế tác giả chọn đề tài: “Phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Hà Tây” để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu những vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; về các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam và ở một số địa phương khác. Nhìn chung các công trình nghiên cứu và các luận văn, luận án đã có nhiều đóng góp khoa học và tổng kết thực tiễn phong phú, những cách tiếp cận và phương pháp tiếp cận tập trung vào giải quyết các vấn đề cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông nghiệp nông thôn, những vấn đề về phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu và cụ thể về việc phát triển các cụm, điểm công nghiệp. Ở đề tài nghiên cứu này chúng tôi tập trung nghiên cứu phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng tiếp cận của kinh tế chính trị học. Đó là nghiên cứu những nguyên lý chung từ đó vận dụng vào việc phát triển cụm, điểm công nghiệp, gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Từ góc độ kinh tế chính trị, hướng tiếp cận và nghiên cứu gồm: - Sự hình thành và phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Làm rõ mối quan hệ kinh tế; các thành phần kinh tế; huy động nguồn lực; huy động vốn đầu tư; các vấn đề về giải quyết việc làm; nhà ở; công tác quản lý đất đai... khi phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thời gian nghiên cứu chủ yếu tập trung chủ yếu ở giai đoạn (2001 – 2006) từ đó chỉ ra phương hướng, giải pháp để phát triển các cụm, điểm công nghiệp vào năm sau. Địa điểm: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hà Tây. 4. Mục đích nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận về quá trình hình thành, phát triển các cụm công nghiệp, điểm công nghiệp; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Thực trạng về việc gắn phát triển cụm điểm công nghiệp với việc giải phóng tiềm năng sức lao động, vốn, tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật; chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Phương hướng, giải pháp để tiếp tục phát triển cụm, điểm công nghiệp tại Hà Tây. 5. Phương pháp nghiên cứu - Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp chủ đạo. Ngoài ra chúng tôi còn kết hợp với các phương pháp khác như: Phương pháp điều tra, thống kê; phương pháp phân tích tổng hợp. 6. Những đóng góp của luận văn - Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận đối với việc hình thành, phát triển các cụm, điểm công nghiệp như là một quá trình khách quan. - Làm sáng tỏ tính đặc thù của việc hình thành các cụm, điểm công nghiệp ở Việt Nam nói chung và Hà Tây nói riêng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Phân tích thực trạng, làm rõ những nguyên nhân, kết quả; những yếu kém trong phát triển cụm, điểm công nghiệp. - Định hướng các giải pháp để hình thành và thúc đẩy phát triển cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (đặc biệt là ở Hà Tây). 7. Kết cấu luận văn: Luận văn gồm 3 chương Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, một số biểu bảng số liệu, sơ đồ,… nội dung chính bao gồm khoảng 100 trang được kết cấu thành 3 chương, bao gồm: Chương 1 – Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Chương II – Thực trạng xây dựng và phát triển các cụm, điểm công nghiệp ở tỉnh Hà Tây Chương III – Phương hướng và giải pháp phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hà Tây. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CỤM, ĐIỂM CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CỤM, ĐIỂM CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA. 1.1.1. Khái niệm cụm, điểm công nghiệp Trong thời gian qua, các cơ sở công nghiệp của các nước đang phát triển phần lớn do hạn chế về vốn nên có quy mô vừa và nhỏ, phân bố phân tán, khả năng xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường thấp. Đất đai hữu hạn, dân số ngày càng tăng. Thêm vào đó chi tiêu của Chính phủ cần phải tập trung vào việc phát triển hạ tầng cơ sở về cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Để đáp ứng yêu cầu trên, việc phát triển công nghiệp cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế và phải tuân theo quy hoạch phát triển nhằm tiết kiệm trong đầu tư, tiết kiệm đất đai, có điều kiện để dễ dàng kiểm soát và có biện pháp bảo vệ môi trường một cách thuận lợi và hữu hiệu nhất. Bởi vậy, các nước cần tạo một môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư cả về môi trường pháp lý, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để thu hút đầu tư theo quy hoạch phù hợp với phát triển kinh tế – xã hội trước mắt cũng như lâu dài của đất nước. Để thực hiện mục tiêu trên, các nước đang phát triển đã thành lập các khu vực đặc biệt với những ưu đãi về tài chính, thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội để thu hút đầu tư, xuất phát từ mục tiêu đó đã dẫn tới sự hình thành các khu vực sản xuất tập trung và khái niẹm về khu, cụm, điểm công nghiệp ra đời. Cụm công nghiệp, điểm công nghiệp là khái niệm được sử dụng khá phổ biến và thường xuyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các nước tư bản, đặc biệt là sau cuộc cách mạng về khoa học công nghệ trên thế giới trong những năm 1970-1980 của thế kỷ trước. Với mô hình này đã cho phép hạ thấp chi phí sử dụng thị truờng, tạo điều kiện đổi mới các hàng hoá truyền thống và các quy trình truyền thống, Tại Việt Nam, trong quá trình phát triển của đất nước thì khái niệm cụm công nghiệp, điểm công nghiệp được ra đời từ khi có quyết định số 132/2000/QĐ-TTG ngày 24/11/2000 của Thủ Tướng chính phủ và một số ngành nông thôn. Đây là một hình thức mới với nước ta, cụm công nghiệp, điểm công nghiệp là một hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ, nó ra đời và gắn liền với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn và đặc trưng nhất là tại các làng có nghề truyền thống. Như ta đã biết sản xuất công nghiệp được tổ chức theo ba loại hình chính đó là: theo ngành, theo thành phần kinh tế, theo lãnh thổ. Tổ chức theo ngành có nghĩa là hình thành và phát triển các chuyên ngành kinh tế – kỹ thuật thuộc các lĩnh vực khai thác chế biến và dịch vụ công nghiệp. Theo thành phần kinh tế thì được hình thành trên cơ sở các cơ sở sản xuất, kinh doanh công nghiệp tồn tại dưới các hình thức: doanh nghiệp Nhà nước, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp tác xã, công ty cổ phần, CTTNHH, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể. Theo lãnh thổ thì đó chính là việc hình thành các khu, các vùng lãnh thổ nơi tập hợp các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp. Đây chính là tiền đề để ra đời khái niệm về khu công nghiệp, cụm, điểm công nghiệp, .. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì sản xuất theo lãnh thổ phát triển khá nhanh và có tác động tích cực chủ yếu như: - Tạo điều kiện tốt hơn để phát triển công nghiệp nhanh và bền vững nhờ: cải tiến kết cấu hạ tầng cơ sở kỹ thuật (đường xá, điện nước, thông tin liên lạc), giải quyết vấn đề môi trường do tách khu sản xuất công nghiệp với khu dân cư và có phương án xử lý chất thải công nghiệp một cách triệt để, có điều kiện ứng dụng khoa học kỹ thuật một các đầy đủ nhất. - Tạo ra sự phân bố công nghiệp đồng đều hơn, họp lý hơn giữa các vùng, các địa phưong của đất nước - Huy động được mọi nguồn lực của từng vùng, từng lãnh thổ vào phát triển công nghiệp. - Đây là loại hình tổ chức sản xuất đặc biệt phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đến nay việc tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ chưa có tên gọi thống nhất giữa các địa phương, nơi gọi là cụm, điểm công nghiệp (tỉnh Hà Tây), nơi gọi là cụm công nghiệp huyện (tỉnh Nam Định), nơi gọi là cụm công nghiệp (thành phố Hà Nội)... Nhưng nói chung, khá thống nhất về quan niệm cho rằng là một địa điểm phân bố sản xuất công nghiệp tập trung bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh tế gia đình nhằm khắc phục ô nhiễm môi trường, tạo kết cấu cơ sở hạ tầng tốt hơn cho phát triển sản xuất, kinh doanh công nghiệp, có ranh giới địa lý rõ ràng, có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật chung được xây dựng đồng bộ và được thành lập theo quyết định của chính quyền địa phương (tỉnh hoặc huyện). Bảng 1.1: Tình hình phát triển các cụm điểm công nghiệp làng nghề tại một số tỉnh Số cụm Diện tích công nghiệp Diện tích làng nghề (ha) (ha) đã xây dựng Số làng nghề của tỉnh Quy hoạch đến năm 2010 Hà Nội 30 8 - 3 96,1 Hà Tây 201 400 10.000 157 - Bắc Ninh 62 21 460,87 15 - Nam Định 86 17 - 15 202,69 Tỉnh Như vậy, mục tiêu phát triển sản xuất, kinh doanh công nghiệp trên cơ sở giải quyết tốt vấn đề tạo ra kết cấu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và môi trường. Đối tượng vào cụm điểm công nghiệp là cơ sở sản xuất, kinh doanh (doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh gia đình) ở làng nghề chuyển đến. Cụm, điểm công nghiệp đã Thực hiện sự tách biệt khu vực sản xuất khỏi khu vực dân cư sinh sống và được thành lập theo quyết định của Uỷ ban nhân dân địa phương (tỉnh, huyện). Trong quá trình nghiên cứu tại địa phương thì bản thân tác giả luận văn cho rằng với đặc thù là một tỉnh có số lượng làng nghề chiếm trên 20% số lượng làng nghề trên toàn quốc thì việc UBND tỉnh Hà Tây có quy định về tên gọi là cụm công nghiệp và điểm công nghiệp là khá phù hợp vói tình hình sản xuất công nghiệp của địa phương. Tóm lại, Cụm công nghiệp: là địa điểm tập trung sản xuất kinh doanh và dịch vụ phục vụ công nghiệp của các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, tách biệt với khu dân cư, có hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật chung được xây dựng đồng bộ, bảo đảm đầy đủ các điều kiện để sản xuất thuận lợi, an toàn và bền vững. Cụm công nghiệp có thể nằm trong địa bàn một hoặc một số huyện do uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định; khi lập quy hoạch xây dựng cụm công nghiệp phải bảo đảm việc kết nối đồng bộ giữa các công trình kỹ thuật hạ tầng trong và ngoài hàng rào, đảm bảo hiệu quả sử dụng đất và có một hệ thống hạ tầng xã hội tương ứng. Điểm công nghiệp: là địa điểm sản xuất và dịch vụ phục vụ cho sản xuất của các cơ sở ngành nghề ở địa phuơng (hộ gia đình, các cá nhân, tổ, nhóm hợp tác, hợp tác xã) và trong trưòng hợp cụ thể có thể có một số doanh nghiệp quy mô nhỏ tại địa phương đó các các ngành nghề phù hợp mục tiêu của điểm công nghiệp; tách bạch với khu dân cư, có hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật chung được xây dựng đồng bộ bảo đảm đầy đủ các điều kiện để sản xuất thuận lợi, an toàn và bền vững. Điểm công nghiệp chủ yếu trong địa bàn một xã (phường thị trấn), do uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định sau khi có ý kiến chấp thuận về chủ trương của UBND tỉnh. Phân biệt: cụm công nghiệp và điểm công nghiệp Nhìn vào 2 khái niệm về cụm công nghiệp và điểm công nghiệp, ta có thể thấy rằng giữa 2 khái niệm này có nét tương đồng, đó là: Về mục đích: cả cụm công nghiệp và cụm công nghiệp đều có mục đích là tập trung các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh công nghiệp vào một vùng có điều kiện hơn về chế độ vị trí để sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho sự phát triển đúng định hưóng của chính quyền địa phương: quy hoạch vùng kinh tế, bảo vệ môi trường, giảm thiểu chi phí xã hội. Về cách thức tổ chức: Cụm công nghiệp và điểm công nghiệp đều có sự tách bạch vơi khu dân cư, đây cũng chính là sự cần thiết để đảm bảo ngươi dân có cuộc sống đầy đủ, không bị ảnh hưởng bởi các chất thải công nghiệp, hay ô nhiễm môi trường. Cụm điểm công nghiệp đều có một hệ thống hạ tầng kỹ thuật chung được xây dựng đồng bộ bảo đảm đầy đủ các điều kiện để các doanh nghiệp sản xuất thuận lợi nhất, an toàn nhất. Tuy nhiên bên cạnh đó thì giữa hai khái niệm này cũng có sự khác biệt: Về cấp quản lý: Cụm công nghiệp thì do UBND tỉnh ra quyết định thành lập, còn điểm công nghiệp thì đựoc phân cấp cho cấp huyện quản lý. Có thể thấy rằng, ở đây thì khái niệm cụm công nghiệp có thể nằm trên địa bàn nhiều huyện của một tỉnh do vậy do vậy cần có sự quản lý của UBND Tỉnh, còn điểm công nghiệp do chỉ nằm trên địa bàn các xã do vậy thì cấp quản lý gần nhất là UBND huyện. Về quy mô, số luợng: Cụm công nghiệp có quy mô lớn hơn diểm công nghiệp, do cụm công nghiệp tập trung các doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn các điểm công nghiệp thì chủ yếu tập hợp các “hộ sản xuất” do vậy quy mô sẽ nhỏ hơn, Tuy nhiên thì số lượng của cụm công nghiệp lại ít hơn số lượng điểm công nghiệp, do quy mô nhỏ, mô hình gọn do vậy việc thành lập điểm công nghiệp cũng nhanh và dễ dàng hơn, điều kiện các cơ sở sản xuất kinh doanh được tham gia cũng đơn giản hơn rất nhiều. Qua sự phân biệt giữa cụm công nghiệp, điểm công nghiệp thì ta có thể thấy về cơ bản là hai loại hình tổ chức sản xuất công nghiệp này là tương đồng, có khác chăng chỉ là cấp độ và quy mô mà thôi. Điều này cũng hoàn toàn đúng vì trong phạm vi một tỉnh thì chỉ có UBND tỉnh mới có quyền có các chính sách đối với các cụm công nghiệp, điểm công nghiệp, cấp huyện và cấp xã đều phải căn cứ vào các quy định chung của tỉnh để thực hiện. Do vậy, trong luận văn chỉ tập trung đến khái niệm cụm, điểm công nghiệp để là rõ vai trò phát triển cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiẹn đại hoá. Phân biệt cụm, điểm công nghiệp với các khu công nghiệp, khu chế xuất. Khu chế xuất: Khu chế xuất có tính chất là khu vực chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của một nước được thành lập với những điều kiện, yếu tố thuận lợi về pháp lý, quản lý và kỹ thuật hạ tầng trên một địa bàn hạn chế để thu hút đầu tư của các nước phát triển đặc biệt là Công ty xuyên quốc gia. Khu chế xuất, ngày nay có các định nghĩa sau: Theo Điều lệ hợp đồng của WEPZA (Hiệp hội các Khu chế xuất thế giới) thì Khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu công nghiệp tự do hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất Khu chế xuất với khu vực WEPZA công nhận và Khu chế xuất khu vực miễn thuế. Theo Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO), Khu chế xuất thì “Khu vực được giới hạn về hành chính, có khi về địa lý, được hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu trang bị và sản phẩm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ thuế quan được ban hành với những quy định luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài”. Với định nghĩa này, hoạt động chính trong Khu chế xuất là sản phẩm công nghiệp. Theo Qui chế KCN, KCX, – ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24 tháng 4 năm 1997, Khu chế xuất là “khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập”. Như vậy, về cơ bản, Khu chế xuất ở Việt Nam cũng được hiểu theo như định nghĩa của UNIDO. Khu công nghiệp: Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài – đối tượng đầu tư chủ yếu vào KCN vì họ hy vọng vào thị trường nội địa, một thị trường mới, có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng hóa của mình. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự do hoá mậu dịch trên thế giới và khu vực... Việc cho phép tiêu thụ hàng hóa tại thị trường trong nước không những tạo nên yếu tố kích thích cạnh tranh sản xuất trong nước, từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu mà còn góp phần tích cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập khẩu lậu. Có hai quan niệm về khu công nghiệp, đó là: Thứ nhất, khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở... Về thực chất mô hình này là khu hành chính – kinh tế đặc biệt như KCN Bat Tam, In-đô-nê-xi-a, công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu. Thứ hai, khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Mô hình này được xây dựng ở một số nước như Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Đài Loan. Còn theo Nghị định 36/CP thì: KCN là “khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất”. Như vậy, KCN ở Việt Nam được hiểu giống với định nghĩa thứ hai ở trên. Phân biệt: Đối chiếu với quy định của Nghị định 36/CP của chính phủ thì tác giả cho rằng cụm, điểm công nghiệp là một hình thức biểu hiện của khu công nghiệp. Nó thích ứng với trình độ thấp của phát triển công nghiệp nông thôn ở Việt Nam hiện nay và khác hoàn toàn với khái niệm khu chế xuất – chủ yếu liên quan đến vấn đề nước ngoài. Khác với khu công nghiệp tập trung, Cụm, điểm công nghiệp có quy mô nhỏ hơn, sản xuất thường tập trung vào một loại sản phẩm mang tên của làng nghề, điều kiện và phương tiện xử lý môi trường, kết cấu cơ sở hạ tầng kém hơn và do chính quyền địa phương (tỉnh, huyện...) quyết định thành lập. Cụm, điểm công nghiệp khác với khu công nghiệp vừa và nhỏ ở chỗ: Khu công nghiệp vừa và nhỏ bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ được hình thành chủ yếu do phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ mới, do di chuyển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố, thị xã vào để khắc phục ô nhiễm môi trường. Còn cụm, điểm công nghiệp gồm các cơ sở có xuất xứ là các hộ kinh doanh gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở làng nghề. 1.1.2. Vai trò của cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việc thành lập cụm công nghiệp, điểm công nghiệp có tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đặc biệt là đối với sự phát triển ngnàh công nghiệp của một quốc gia. Việc phát triên cụm điểm công nghiệp cho phép tổ chức cơ cấu lại kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, bảo vệ môi trường, nâng cao mức sống nhân dân, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật sản xuất và xã hội cho khu vực. Vai trò phát triển cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiẹp hoá, hiện dại hoá được thể hiện trên một số mặt sau đây: 1.1.2.1.Huy động vốn đầu tư phát triển Sự hình thành và phát triển cụm, điểm công nghiệp gắn liền với những mục tiêu thành lập cụm, điểm công nghiệp và mục tiêu của nhà đầu tư. Phân tích từ giác ngộ vĩ mô, có thể tóm tắt lại mục tiêu cơ bản và thống nhất như sau: - Thu hút vốn đầu tư để phát triển theo quy hoạch Đây là mục tiêu quan trọng nhất của cụm, điểm công nghiệp. Với tính chất là “vùng lãnh thổ” hoạt động trong môi trường đầu tư chung, cụm, điểm công nghiệp trở thành công cụ hữu hiệu thu hút vốn đầu tư, để mở mang hoạt động sản xuất kinh doanh cho các hộ gia đình và các doanh nghiệp sản xuất nhỏ. Đối với các hộ sản xuất thì vấn đề mặt bằng và vốn sản xuất luôn là hai vấn đề luôn bức súc nhất. Đây chính là cái vòng luẩn quẩn của sản xuất nhỏ, các doanh nghiệp, hộ sản xuất không có điều kiện về vốn để có thể mở rộng sản xuất, đi thuê mặt bằng. Trong đó khi muốn mở rộng sản xuất, tập trung vào phát triển các sản phẩm thì lại cần vốn lớn. Việc phát triển cụm điểm công nghiệp chính là để giải quyết vấn đề này. Như ta đã biết, sự phát triển công nghiệp cần phải tuân thủ quy hoạch vùng, lãnh thổ để tránh đầu tư phân tán, lãng phí đất đai, khó kiểm soát được môi trường. Với cụm điểm công nghiệp các doanh nghiệp có điều kiện tập trung vốn để phát triển. 1.1.2.2. Giải quyết việc làm lao động Mở rộng cụm, điểm công nghiệp để tạo ra nhiều hơn chỗ làm việc là một trong những mục tiêu quan trọng của các nước phát triển. Thực tiễn cho thấy, cụm, điểm công nghiệp là công cụ hữu hiệu thực hiện chiến lược lâu dài về toàn dụng lao động ở các nước đó. Với cụm điểm công nghiệp, việc giải quyết lao động nông nhàn tại chỗ là rất phù hợp. Các doanh nghiệp trong cụm, điểm công nghiệp là các doanh nghiệp xuất phát từ sản xuất nhỏ, hộ gia đình và đặc biệt là có yếu tố làng nghề. Việc phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này có liên quan rất nhiều đến vân đề nghề truyền thống tại địa phưong đó. Đây chính là điều kiện để các doanh nghiệp có thể huy động lực lượng lao động tại chỗ một cách hiệu quả mà vấn đề đào tạo nghề không quá khó khăn. Đối với người nông dân thì đây cũng chính là nơi mà họ rất muốn đến. 1.1.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển lâu dài. Xây dựng cụm, điểm công nghiệp, theo quy hoạch phát triển tổng thể về kinh tế xã hội tại những địa điểm thuận lợi vận chuyển hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm hoặc là những nơi quy hoạch phát triển thành đô thị, khu dân cư sau này. Do vậy sẽ tạo môi trường thuận lợi cho nhà đầu tư xây dựng chiến lược phát triển lâu dài Xây dựng cụm điểm công nghiệp nhằm tạo ra năng lực sản xuất mới, thu hút lao động, tạo liên kết với các doanh nghiệp trong nước thông qua các hợp đồng gia công, cung cấp nguyên liệu là thực tế diễn ra ở nhiều doan nghiệp trong các nước. Cụm , điểm công nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện dẫn dắt công nghiệp phụ trợ, các dịch vụ cần thiết từ dịch vụ công nghiệp, tài chính, ngân hàng, cung cấp nguyên liệu đến dịch vụ dân sinh phục vụ lao động trong các ụm điểm công nghiệp. Đồng thời, thu hút lao động vào các cụm điểm công nghiệp cũng sẽ tạo nên sự tập trung dân cư tác động đến việc phân bố lại dân cư, tại những vùng có cụm, điểm công nghiệp để hình thành các đô thị, thành phố công nghiệp. 1.1.2.4. ứng dụng khoa học –công nghệ - Du nhập kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý của các Công ty tư bản nước ngoài.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan