Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch ở quảng ninh...

Tài liệu Phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch ở quảng ninh

.PDF
202
23
90

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Ngô Quang Duy PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở QUẢNG NINH Chuyên ngành: Quản lý văn hóa Mã số: 9319042 LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA Hà Nội - 2020 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Ngô Quang Duy PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở QUẢNG NINH Chuyên ngành: Quản lý văn hóa Mã số: 9319042 LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Cẩm Thơ TS. Đỗ Thị Thanh Hoa Hà Nội - 2020 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận án tiến sĩ Phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh là do tôi viết và chưa công bố. Các trích dẫn, số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận án Ngô Quang Duy ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i MỤC LỤC ............................................................................................................................ ii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ..........................................................................................iii DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ ............................................................................................. iv MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH ............ 9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 9 1.2. Cơ sở lý luận về phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch..... 30 Chương 2. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở QUẢNG NINH....................................................57 2.1. Tổng quan về di sản văn hóa Quảng Ninh và thực trạng phát triển du lịch Quảng Ninh ..................................................................................................... 57 2.2. Đánh giá khả năng và thực trạng phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh.............................................................................. 72 2.3. Đánh giá chung về thực trạng phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh............................................................................ 100 Chương 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở QUẢNG NINH ................................................................ 107 3.1. Căn cứ đề xuất giải pháp phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch............................................................................................................ 107 3.2. Đề xuất nhóm giải pháp về tổ chức quản lý di sản văn hóa trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh .................................................................................... 114 3.3. Đề xuất nhóm giải pháp phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh ......................................................................................... 124 KẾT LUẬN...................................................................................................................... 145 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .. 147 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 148 PHỤ LỤC.......................................................................................................................... 160 iii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ACCU : The Asia/pacific Cultural Centre for UNESCO (Trung tâm Văn hóa châu Á/Thái Bình Dương phục vụ UNESCO) BQL : Ban Quản lý CMCN : Cách mạng công nghiệp CNTT : Công nghệ thông tin DSVH : Di sản văn hóa DSVH PVT : Di sản văn hóa phi vật thể HDV : Hướng dẫn viên HTX : Hợp tác xã ICOMOS : Hội đồng Di tích và Di chỉ Quốc tế LVThS : Luận văn thạc sĩ LATS : Luận án tiến sĩ NCS : Nghiên cứu sinh Nxb : Nhà xuất bản PGĐ : Phó giám đốc PVT : Phi vật thể ThS : Thạc sĩ TS : Tiến sĩ UNESCO : United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc) VHTTDL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch iv DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ Bảng 1.1. Bảng phân hạng nhóm chỉ tiêu cấp 1.............................................. 51 Bảng 1.2. Bảng đánh giá khả năng thu hút du khách của điểm có DSVH ..... 51 Bảng 1.3. Bảng phân hạng nhóm chỉ tiêu cấp 2.............................................. 54 Bảng 1.4. Bảng đánh giá khả năng cung ứng của điểm du lịch có DSVH ..... 54 Bảng 1.5. Bảng tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá khả năng khai thác du lịch tại điểm du lịch có di sản văn hóa ........................................................................ 55 Bảng 1.6. Bảng đánh giá khả năng khai thác du lịch của điểm du lịch có di sản văn hóa ............................................................................................................ 55 Bảng 2.1. Bảng tổng hợp điểm nhóm chỉ tiêu cấp 1 của Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử ................................................................................................... 77 Bảng 2.2. Bảng tổng hợp điểm nhóm chỉ tiêu cấp 1 của Vùng văn hóa Hạ Long .. 84 Bảng 2.3. Bảng tổng hợp điểm nhóm chỉ tiêu cấp 2 của Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử ................................................................................................... 91 Bảng 2.4. Bảng tổng hợp điểm nhóm chỉ tiêu cấp 2 của Vùng văn hóa Hạ Long .... 98 Bảng 2.5. Bảng tổng hợp điểm các chỉ tiêu đánh giá khả năng khai thác du lịch của Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử .................................................... 99 Bảng 2.6. Bảng tổng hợp điểm các chỉ tiêu đánh giá khả năng khai thác du lịch của Vùng văn hóa Hạ Long ............................................................................. 99 Sơ đồ 1: Vị trí di tích khảo cổ hang Bồ Nâu ................................................... 64 Sơ đồ 2: Vị trí di tích khảo cổ hang Trống ..................................................... 65 Sơ đồ 3. Vị trí di tích khảo cổ động Mê Cung ................................................ 67 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn hóa là cơ sở tiền đề, tạo môi trường cho du lịch phát triển. Du lịch văn hóa gắn với các giá trị di sản văn hóa đã, đang và sẽ luôn là nhu cầu của các thị trường khách du lịch. Giá trị của các di sản văn hóa như các di tích lịch sử, công trình kiến trúc – nghệ thuật, các bản làng dân tộc với văn hóa bản địa độc đáo, các tập quán, lễ hội, nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực đặc sắc của mỗi vùng miền… là những đối tượng hấp dẫn, thu hút du khách khám phá, thưởng thức, trải nghiệm. Du lịch văn hóa không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, hỗ trợ sinh kế cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân mà còn thúc đẩy bảo vệ kho tàng văn hóa dân tộc, làm phong phú thêm giá trị văn hóa đương đại, tăng cường sự hiểu biết và tôn trọng sự giao thoa các nền văn hóa, tạo hiệu ứng tích cực quảng bá, phổ biến nền văn hóa đất nước ra thế giới. Du lịch văn hóa kích thích niềm tự hào lịch sử dân tộc của mỗi người dân, mỗi du khách, tăng sự tôn trọng và hiểu biết các nền văn hóa khác, giữ gìn hòa bình và hiểu biết. Ở góc độ ngược lại, không có sự phát triển của du lịch văn hóa, nhiều giá trị di sản văn hóa sẽ gặp khó khăn không nhỏ, suy giảm và biến mất trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, phát triển kinh tế - xã hội và những áp lực khác. Nếu nói văn hóa là “quyền lực mềm” của một quốc gia, thì du lịch là công cụ quan trọng để đẩy mạnh và phát huy quyền lực ấy một cách hữu hiệu. Những năm vừa qua, du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, được đánh giá có tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế cao trên thế giới (2018 xếp hạng thứ 3 theo đánh giá của UNWTO). Năm 2018, theo thống kê của Tổng cục Du lịch: Việt Nam đón 15,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế; 80 triệu lượt khách du lịch nội địa; Tổng thu du lịch khoảng 637 nghìn tỷ đồng, tương đương 27,2 tỷ USD, đóng góp khoảng 8,39% vào GDP [132]. Du lịch văn hóa đã góp phần tạo nên kết quả ấn tượng này. Sản phẩm du lịch văn hóa Việt Nam khá đa dạng và hấp dẫn như các hoạt động tham quan di sản, nghiên cứu văn hóa lịch sử thông qua di sản, các bảo tàng sống và trưng bày, tìm hiểu và trải nghiệm văn hóa truyền thống, đời sống văn hóa 2 cộng đồng. Sản phẩm du lịch di sản văn hóa là yếu tố tạo nên nét khác biệt cho hệ thống sản phẩm du lịch Việt Nam, kết nối và đa dạng hóa các tours, tuyến du lịch. Ở vị trí địa đầu của Tổ quốc, Quảng Ninh có lợi thế nổi bật về tài nguyên du lịch phong phú, độc đáo và hấp dẫn du khách không chỉ bởi Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long được du khách năm châu biết đến với hai lần được UNESCO vinh danh các giá trị ngoại hạng về thẩm mỹ, giá trị địa chất – địa mạo mà Quảng Ninh còn hấp dẫn du khách bởi giá trị văn hóa chứa đựng bên trong di sản thiên nhiên ấy cùng hệ thống nhiều di sản văn hóa khác mà điển hình như quần thể di tích và danh thắng Yên Tử và chính con người nơi đây. Là vùng đất cổ, Quảng Ninh được xem như một trong những cái nôi của văn hoá Việt Nam. Các di chỉ khảo cổ học, các thư tịch cổ sưu tầm được đã minh chứng rõ điều này. Quảng Ninh có hơn 20 dân tộc sinh sống, mỗi dân tộc là một nét văn hoá riêng biệt. Lịch sử phát triển đã mang lại cho Quảng Ninh kho tàng các di tích lịch sử - văn hoá, các kiến trúc độc đáo; phong tục, tập quán, tín ngưỡng, vốn văn hoá dân gian và một số hệ thống lễ hội dân gian đặc sắc [133]. Tất cả đã tạo nên sự phong phú, đa dạng đậm bản sắc văn hóa của vùng đất, vùng biển địa đầu Đông Bắc đất nước. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua du lịch Quảng Ninh hầu như mới chỉ dừng lại ở việc phát huy giá trị các tài nguyên tự nhiên để phát triển sản phẩm du lịch. Rất nhiều các giá trị DSVH dường như còn bị bỏ ngỏ, nên sản phẩm du lịch chưa phong phú, chưa thực sự hấp dẫn và giữ chân được du khách. Các sản phẩm du lịch, đặc biệt là những sản phẩm du lịch đặc thù với hàm lượng văn hóa cao chưa được quan tâm đầy đủ với những luận chứng khoa học thuyết phục. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho du lịch Quảng Ninh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và chưa đóng góp tích cực, hiệu quả cao cho phát triển kinh tế - xã hội, phát triển du lịch của Quảng Ninh và cả nước như kỳ vọng. Mong muốn đưa Quảng Ninh trở thành một trung tâm du lịch tầm cỡ khu vực và thế giới, trung tâm du lịch chất lượng cao của khu vực có đẳng cấp ở châu lục vào năm 2020, với những sản phẩm du lịch phong phú, hấp dẫn, đậm bản sắc văn hóa đã được cụ thể hóa trong các văn bản pháp quy của Nhà nước, của tỉnh Quảng Ninh như: 3 Chiến lược và Quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV... Đã có nhiều công trình nghiên cứu phát triển du lịch được triển khai và công bố, tuy nhiên trên thực tế vẫn tập trung chủ yếu vào phát huy các giá trị thiên nhiên, nhất là di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long. Trong khi đó các giá trị DSVH hoàn toàn có khả năng tạo nên sức hấp dẫn du lịch, có thể khai thác làm đa dạng hóa sản phẩm du lịch, mang đến nhiều trải nghiệm cho du khách khi đến với Quảng Ninh, lại gần như chưa được nghiên cứu bài bản trong công trình nào cho đến thời điểm hiện tại. Ở góc độ lý luận, các công trình nghiên cứu về đánh giá tài nguyên phục vụ phát triển du lịch cũng mới chỉ tập trung vào các tài nguyên tự nhiên, mà chưa chú trọng đánh giá khả năng khai thác, phát huy giá trị của di sản văn hóa. Xuất phát từ những lý do trên, NCS lựa chọn đề tài Phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh để nghiên cứu trong khuôn khổ một luận án, với mong muốn các kết quả nghiên cứu sẽ làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển du lịch trên cơ sở phát huy hiệu quả giá trị của DSVH. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về phát huy giá trị DSVH trong phát triển du lịch, cụ thể trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đề xuất các giải pháp nhằm phát huy giá trị DSVH trong phát triển du lịch để Quảng Ninh thực sự là điểm đến hấp dẫn, là địa bàn trọng điểm trong phát triển du lịch Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa các khái niệm và cơ sở lý luận về DSVH và phát huy giá trị DSVH trong phát triển du lịch. - Phân tích và đánh giá thực trạng phát huy giá trị DSVH trong phát triển du lịch ở một số địa bàn điển hình tại tỉnh Quảng Ninh, từ đó làm rõ bức tranh phát huy giá trị DSVH trong phát triển du lịch toàn tỉnh. 4 - Đề xuất giải pháp nhằm phát huy giá trị DSVH ở Quảng Ninh trong phát triển du lịch. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là việc phát huy giá trị các DSVH có ý nghĩa trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nội dung: Nghiên cứu toàn diện nội hàm phát huy giá trị DSVH trong phát triển du lịch với lựa chọn khảo sát hai trường hợp đặc thù: quần thể di tích và danh thắng Yên Tử và vùng văn hóa Hạ Long. Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các DSVH ở Quảng Ninh với hai trường hợp điển hình là quần thể di tích và danh thắng Yên Tử và vùng văn hóa Hạ Long (Khảo sát thực tế trên vịnh Hạ Long gồm 3 địa điểm: hang Trống, hang Bồ Nâu, động Mê Cung) bởi đây là những DSVH tiêu biểu của tỉnh, góp phần tạo dựng bức tranh tổng thể phát huy DSVH trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh. Phạm vi thời gian: Các nghiên cứu hiện trạng tập trung trong thời gian từ 2011 – 2018; Đề xuất giải pháp và kiến nghị của luận án hướng đến dự báo cho 2025, tầm nhìn 2030 phù hợp với giai đoạn phát triển đề ra trong văn bản từ trung ương đến địa phương. 4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu Câu hỏi nghiên cứu 1: DSVH và phát triển du lịch có mối quan hệ với nhau như thế nào? Giả thuyết: Là mối quan hệ hai chiều, có tác động qua lại với nhau. Câu hỏi nghiên cứu 2: Các DSVH ở Quảng Ninh đang được phát huy trong phát triển du lịch như thế nào? Giả thuyết: DSVH ở Quảng Ninh, qua khảo sát quần thể di tích và danh thắng Yên Tử và vùng văn hóa Hạ Long đang được phát huy đúng hướng song còn nhiều hạn chế về khả năng phát huy giá trị DSVH trong phát triển du lịch Câu hỏi nghiên cứu 3: Làm thế nào để phát huy hơn nữa giá trị của DSVH trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh? Giả thuyết: Giải pháp được tiếp cận trên cả 5 hai hướng: bảo tồn DSVH và phát triển du lịch, trong đó nền tảng là sự phát triển bền vững của di sản và cộng đồng địa phương. 5. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp tiếp cận Đề tài chủ yếu sử dụng cách tiếp cận của quản lý văn hóa thông qua tiếp cận nghiên cứu văn bản quản lý và các bên liên quan đến đối tượng nghiên cứu. Bên cạnh đó, đề tài cũng vận dụng các tri thức tiếp cận liên ngành của văn hóa học, xã hội học, du lịch học, dân tộc học…để thực hiện song hành và có kết nối trong suốt quá trình thực hiện đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong khuôn khổ đề tài, NCS triển khai các nhóm phương pháp dưới đây: 5.2.1. Nhóm phương pháp thu thập dữ liệu (thông tin, tài liệu, tư liệu, số liệu) 1) Phương pháp tổng hợp, nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để thu thập dữ liệu thứ cấp. Tất cả các tài liệu trong và ngoài nước được tổng hợp, thu thập theo 4 chủ đề: Lý thuyết quản lý di sản; Lý thuyết phát triển du lịch; Lý thuyết về đánh giá tài nguyên du lịch; và DSVH ở Quảng Ninh. Các nguồn tài liệu cung cấp cho 4 chủ đề trên được tập hợp qua cả 2 nguồn sơ cấp và thứ cấp. 2) Phương pháp quan sát tham dự: Phương pháp này được áp dụng tại các điểm khảo sát thực tế là quần thể di tích và danh thắng Yên Tử và vùng văn hóa Hạ Long. Ngoài khảo cứu tình trạng tại chỗ của di sản, NCS còn tiến hành khảo cứu thực tế trên toàn bộ chuyến đi với các đối tượng quan sát trực tiếp như: hệ thống đường giao thông, phương tiện di chuyển, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tại Quảng Ninh, hoạt động của du khách tại các điểm di sản. NCS cũng tiến hành tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch trong vai trò là du khách để quan sát hoạt động tiếp đón phục vụ của những người làm du lịch tại các điểm khảo sát… Phương pháp này được áp dụng để ghi chép, sao chụp, quan sát thực tế, thu thập dữ liệu thực tế về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch. 3) Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này được áp dụng để thu thập các dữ liệu chuyên sâu và mang tính chất định tính như tình hình quản lý DSVH ở 6 địa bàn, các chủ trương phát triển du lịch của địa phương, mong muốn và kỳ vọng của cộng đồng trong hoạt động du lịch. Đối tượng mà luận án hướng đến của phương pháp này là: quản lý nhà nước cấp tỉnh, thành phố trực thuộc tỉnh; ban quản lý di sản, di tích; cộng đồng địa phương; người làm trong ngành du lịch ở Quảng Ninh như người kinh doanh dịch vụ, người phục vụ khách du lịch trực tiếp, hướng dẫn viên; nhà đầu tư và các nhân tố khác như nhà khoa học [Phụ lục 2, tr.167]. 4) Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Phương pháp này được sử dụng để thu thập các dữ liệu mang tính chất định lượng, có sự đánh giá, minh chứng cho tính hấp dẫn của điểm di sản, và cho những đánh giá của du khách về khả năng phát triển du lịch của các điểm du lịch có DSVH ở Quảng Ninh. Đối tượng áp dụng phương pháp này là khách du lịch. Các phiếu khảo sát được phát trực tiếp tại hai điểm khảo sát tại quần thể di tích và danh thắng Yên Tử và vịnh Hạ Long với tổng số khách tham gia trả lời là 256. Phương pháp ngẫu nhiên đơn được áp dụng trong lựa chọn đối tượng khách tham gia trả lời bảng hỏi với 3 nhóm quần thể đích: khách đoàn lớn (xe 45 chỗ), khách nhóm nhỏ (đoàn 9 – 16 người), khách lẻ. Từ 3 nhóm quần thể đích, luận án lựa chọn quần thể nghiên cứu cho từng điểm khảo sát: 1) Với khách đoàn lớn: chọn 1 đoàn trong nước, 1 đoàn nước ngoài; 2) Với khách nhóm nhỏ: 2-3 đoàn trong nước và nước ngoài; 3) Với khách lẻ: 8-10 người gặp bất kỳ tại điểm khảo sát. Như vậy, số phiếu phát ra ở Quần thể di tích Yên Tử là 120 và ở vịnh Hạ Long là 140. Sau khi lọc các phiếu không đảm bảo chất lượng, còn lại 256 phiếu phục vụ việc thu thập dữ liệu của luận án. Ngoài ra, để đảm bảo tính khách quan, luận án còn hướng đến khảo sát đối tượng khách du lịch không ở trực tiếp các điểm di sản trên mà ở các trung tâm gửi khách lân cận như Hà Nội (47 phiếu), Hải Phòng (30 phiếu) và qua kênh online (98 phiếu). Các cuộc khảo sát này đều được thực hiện từ tháng 6/2016 đến tháng 3/ 2017. 5.2.2. Nhóm phương pháp và thao tác xử lý dữ liệu 1) Phương pháp xử lý dữ liệu định tính: Là công trình nghiên cứu chuyên ngành khoa học xã hội nên phần lớn dữ liệu thu được dưới dạng định tính. Các dữ 7 liệu định tính được xử lý dưới dạng phân tích hệ thống, tổng hợp, kiểm kê, thống kê và so sánh. 2) Phương pháp xử lý dữ liệu định lượng: Để đảm bảo tính chính xác cho nghiên cứu, luận án đã cố gắng lượng hóa dữ liệu để xác định khả năng phát huy giá trị DSVH trong phát triển du lịch Quảng Ninh. Sử dụng phương pháp xử lý số liệu điều tra xã hội học bằng phần mềm Excel. Kết quả được trình bày dưới dạng bảng biểu, biểu đồ. 6. Đóng góp khoa học và thực tiễn của đề tài 6.1. Đóng góp khoa học - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về DSVH và phát triển du lịch giúp hoàn thiện hệ thống lý luận về vấn đề này. - Đóng góp cơ sở lý luận cho việc đánh giá tài nguyên du lịch dựa vào các giá trị DSVH tại địa phương. - Vận dụng lý thuyết về bảo tồn và phát huy các DSVH trong mối quan hệ với phát triển du lịch vào thực tiễn hoạt động du lịch ở Quảng Ninh từ đó đóng góp lại vào lý luận của khoa học chuyên ngành. 6.2. Đóng góp thực tiễn - Kết quả nghiên cứu góp phần cung cấp cho các nhà quản lý văn hóa và du lịch ở địa phương thêm tài liệu tham khảo khá đầy đủ và có hệ thống về phát huy DSVH trong phát triển du lịch. - Các giải pháp được đề xuất phát huy giá trị các DSVH trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh là tài liệu tham khảo tốt cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách cũng như cho chính các nhà đầu tư, doanh nghiệp du lịch trong quá trình định hướng, quản lý khai thác phát triển du lịch, sản phẩm du lịch. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu (7 trang), Kết luận (2 trang), Tài liệu tham khảo (10 trang), Phụ lục (36 trang), nội dung luận án gồm 3 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận về phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch (47 trang); 8 Chương 2. Đánh giá khả năng phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh (49 trang); Chương 3. Đề xuất giải pháp phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch ở Quảng Ninh (38 trang). 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về phát huy giá trị di sản văn hóa 1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu của nước ngoài Vấn đề gìn giữ và sử dụng DSVH từ lâu đã được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là sau khi Công ước về Bảo vệ DSVH và thiên nhiên thế giới của UNESCO được ký thông qua vào ngày 16 tháng 11 năm 1972 tại Paris. Xung quanh công ước là một loạt các công trình nghiên cứu quốc tế về vấn đề này. Các công trình này thường tiếp cận theo ba khuynh hướng sau: a) Thứ nhất, đó là các công trình xác định rõ nội hàm của DSVH và phân loại DSVH theo tinh thần của các quốc gia thành viên của Công ước. Nhà sử học và địa lý học David Lowenthal trong tác phẩm The Heritage: Crusade and the Spoils of History (1997) đã bày tỏ quan điểm: di sản, di tích hoàn toàn không phải là lịch sử, không phải là con đường để tìm hiểu về quá khứ. Nó chỉ là cái vỏ của quá khứ. Nó chỉ là sự xưng tụng của niềm tin vào những gì đã được xây dựng trong quá khứ để phục vụ các mục đích hiện tại [116]. Tác giả đưa ra quan điểm di sản cần được nhìn nhận tách biệt khỏi lịch sử bởi ông lo ngại rằng việc gom nhặt các “mảnh vụn” di sản để phục vụ cho các mục đích hiện tại trong khi bản thân chúng lại không bao chứa toàn bộ sự thật lịch sử sẽ khiến cho tính chân thực của lịch sử bị sai lệch. Tiếp cận từ một quan điểm khác, công trình Archaeology and Heritage: An Introduction của John Carman (2002) lại cho rằng có những di sản hoàn toàn không liên quan gì đến sự xưng tụng của niềm tin hay sự sùng tín nào đó mà đơn giản nó được tạo ra trong quá trình phân loại. Những nơi này có một vị trí đặc biệt, có một loạt các nghĩa vụ, cả hợp pháp và “đạo đức”, phát sinh từ việc được đưa vào sổ đăng ký di sản [120]. Ra đời sau và kế thừa toàn bộ các nghiên cứu từ trước, cũng không xuất phát từ bất kỳ quan điểm nào, tác giả Jokilehto, 10 J (2005) trong Definition of Cultural Heritage - Reference to Documents in history lại tập hợp các định nghĩa và rút ra được 60 khái niệm về DSVH/tài sản văn hóa [121]. Các định nghĩa này được cung cấp để làm tài liệu tham khảo căn bản cho tổ chức ICCROM (Trung tâm quốc tế về nghiên cứu Bảo tồn và Bảo quản các tài sản văn hóa) trong công tác hoạch định các kế hoạch chiến lược. Trong số các định nghĩa đó có đến 18 định nghĩa của UNESCO. Các định nghĩa này được sử dụng phổ biến nhất trong các công trình nghiên cứu học thuật và trong các văn kiện pháp lý quốc tế và quốc gia ở tất cả các nước có quan tâm đến di sản và tài sản văn hóa. Năm 2010, trong cuốn Understanding the politics of heritage (Manchester: Manchester University Press) Harrison, R đã dành hẳn một chương để bàn luận “What is heritage?” (di sản là gì?). Ở đây, Harrison không hướng đến mục đích xây dựng một khái niệm chung chung về di sản mà ông muốn chỉ ra một cách cụ thể: cái gì được coi là di sản? Là một tòa nhà, một di tích hay một bản nhạc, một tập thơ? Ông đã đưa ra định nghĩa của từ điển Anh ngữ Oxford rằng “di sản” có thể được hiểu là một “đối tượng” vật chất: một mảnh tài sản, một tòa nhà hoặc một nơi có thể được 'sở hữu' và “chuyển giao” cho người khác. Sau đó đưa ra các lập luận để chứng tỏ rằng, di sản không chỉ là những đối tượng vật chất mà còn có những thứ không thể sờ đến, cầm nắm được như văn học, nghệ thuật… Như vậy, việc làm của Harrison không chỉ đưa ra một khái niệm cụ thể về di sản mà còn đồng thời phân loại chúng thành 2 dạng: vật thể và phi vật thể [119]. Trong thực tế, việc phân loại cũng chỉ mang tính chất tương đối. Một di sản không đơn giản hoàn toàn là di sản văn hóa hoặc thiên nhiên, là di sản vật thể hay phi vật thể. Nhiều điểm di sản thiên nhiên như các công viên quốc gia ở nhiều nước cũng có các hạng mục liên quan đến hoạt động của con người. Một số điểm di sản khác như là di chỉ kiến trúc, di chỉ khảo cổ học, đồ tạo tác hoặc di tích có thể được cho là tài sản vật thể nhưng lịch sử của chúng, giá trị thẩm mỹ, kiểu kiến trúc, các câu chuyện và con người gắn kèm với mỗi hạng mục của nó lại là di sản phi vật thể. Chính sự không phân định được một cách rõ ràng này tạo nên sự đa dạng trong phương thức biểu hiện của di sản. Hiểu rõ bản chất của một điểm di sản là điều cần thiết để có thể thiết kế được các mục tiêu, kế hoạch và phương 11 tiện phù hợp cho bảo tồn và phát triển di sản đó. Một vài cách phân loại di sản khác cũng được giới thiệu trong một số công trình của các nhà nghiên cứu và quản lý di sản trên thế giới như: Heritage and Postmodern tourism (Annals of tourism research, 23(2), 1996) của Nuryanti,W; Cultural Tourism - The partnership between tourism and cultural heritage management (2002) của McKercher, B và du Cros, H.; Ancient town of Hoian (2006) do The National Committee for the international symposium on the ancient town of Hoi An (Ủy ban quốc gia về hội nghị chuyên đề quốc tế về phố cổ Hội An) soạn thảo. b) Thứ hai, mỗi cách phân loại có cơ sở lập luận riêng, tuy nhiên, tất cả các công trình này đều thống nhất chung ở một điểm: khẳng định giá trị văn hóa đặc sắc của di sản ở mọi vùng miền và quốc gia trên thế giới. Đây cũng là hướng nghiên cứu thứ hai về di sản. Nuryanti (1996) trong công trình của mình đã khẳng định: “bản thân từ di sản đã hàm nghĩa một thứ gì đó được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, đóng vai trò chuyên chở các giá trị lịch sử từ quá khứ và giao các giá trị này cho thế hệ hiện tại như một phần của truyền thống văn hóa của một xã hội”123. Marta de la Torre vào năm 2002 đã có một báo cáo nghiên cứu khá đầy đủ về giá trị của DSVH mang tên Assessing the Values of Cultural Heritage. Trong báo cáo này, tác giả cho rằng tầm quan trọng của một địa điểm được coi là di sản được xác định bởi sự tổng hợp của các giá trị chứ không đơn thuần chỉ có giá trị lịch sử. Các giá trị được xem xét phải bao gồm các giá trị do các chuyên gia như các nhà sử học, khảo cổ học, kiến trúc sư… và các giá trị khác do các bên liên quan hoặc các thành phần khác đưa ra, như các giá trị xã hội và kinh tế. Từ những nhận định, đánh giá về giá trị của di sản, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng giá trị của di sản là giá trị tự thân vốn có. Tuy nhiên, thách thức ý tưởng rằng giá trị di sản là hiển nhiên, và mọi thứ phải được bảo tồn bởi chúng có tầm quan trọng cố hữu, Uses of Heritage (2006) của Smith đã mạnh mẽ chứng minh rằng giá trị di sản không phải là vốn có trong các vật thể hoặc các địa điểm vật lý mà chúng được sử dụng để cung cấp tính xác thực cho các giá trị văn hóa của các cộng đồng khác nhau và khẳng định những giá trị đấy. Nhưng dù là vai trò gì đi chăng nữa thì giá trị của di sản đối với một xã hội là không thể phủ 12 nhận về mọi mặt, từ lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ, giáo dục đến kinh tế. Điều này đã được khẳng định lại một lần nữa trong Hướng dẫn thực hiện Công ước Di sản Thế giới Operational guidelinesforthe implementation of the World Heritage convention của UNESCO ban hành năm 2015: “DSVH và thiên nhiên là một trong những tài sản vô giá và không thể thay thế, không chỉ riêng một quốc gia nào mà là của toàn nhân loại. Sự mất đi, do bị xuống cấp hay bị tàn phá, của bất cứ cái gì trong số những tài sản quý giá nhất này cũng sẽ làm nghèo đi di sản của tất cả mọi người trên thế giới” [129]. Vì giá trị và ý nghĩa của DSVH đối với cá nhân, cộng đồng, quốc gia và toàn nhân loại, DSVH cần được bảo vệ và quản lý một cách bền vững nhằm đảm bảo sự tiếp tục tồn tại và là biểu tượng cho sự sáng tạo không ngừng nghỉ của con người. Điều này đã định hướng cho việc nghiên cứu di sản ở một góc độ khác: góc độ quản lý. c) Thứ ba, nhóm công trình nghiên cứu về vấn đề quản lý DSVH. Trên thế giới, quản lý DSVH được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ khá sớm. Theo Peter Howard việc quản lý di sản xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Ban đầu những người say mê di sản có lòng tin rằng họ bảo tồn những thứ này vì lợi ích của công chúng. Sang thế kỷ XX xuất hiện sự ra đời của các Hiệp hội di sản ở châu Âu. Việc nghiên cứu di sản “đã phát triển với các khía cạnh thực tế, thường xuyên được nói ngắn gọn bằng từ “quản lý di sản” và phát triển mạnh vào nửa sau thế kỷ XX. Ngày nay, các nhà nghiên cứu cho rằng, DSVH không chỉ là một giá trị biểu tượng mà nó cần sống trong cộng đồng, trong xã hội, nghĩa là phải đóng góp vào sự phát triển chung. DSVH phải phục vụ cho cộng đồng. Building a new heritage: tourism, culture and identity in the new Europe (1994) của G.J.Ashworth và P.J. Larkham đã xem việc khai thác các giá trị của di sản như một ngành công nghiệp. Do vậy việc quản lý cần có những phương thức của một ngành công nghiệp với cách thức quản lý phù hợp với những đặc điểm của di sản. Nhằm làm tiền đề cho nội dung này, trong phần “From historical monument from heritage product”, Ashworth đã nói về các cách tiếp cận di sản ở Tây Âu. Theo đó, “cách tiếp cận bảo quản chiếm ưu thế trong hàng trăm năm quan tâm của châu Âu đối với các đồ tạo tác và tòa nhà còn sót lại như các tượng đài, được lựa chọn theo các tiêu chí nội tại như mục tiêu rõ ràng, như tuổi tác hoặc vẻ đẹp, được 13 bảo vệ bởi các tiêu chuẩn bảo vệ hợp pháp, được xác định bởi các “chuyên gia”những người xác định vai trò của họ như là người giám hộ tài sản văn hoá công cộng. Sự chuyển đổi sang quan điểm bảo tồn trong những năm 1960 đã mở rộng đối tượng quan tâm đến các khu vực xung quanh và do đó liên quan đến những hoạt động hiện đại của các khu vực. Định nghĩa bảo tồn tốt, như “bảo vệ một cách có mục đích”, giúp nâng cao chất lượng và đưa các nhà quy hoạch cùng người quản lý vào quá trình ra quyết định cùng với kiến trúc sư và sử gia. Các mục tiêu trở nên mở rộng đối với việc tái tạo hoặc phục hồi các khu vực phải đạt được thông qua kế hoạch quản lý sử dụng đất cũng như các chỉ thị bảo vệ. Cuối cùng, sự chuyển đổi rõ ràng gần đây hơn đối với định hướng thị trường tập trung vào các di tích lịch sử như một sản phẩm, được lựa chọn theo các tiêu chí của nhu cầu tiêu dùng và được quản lý thông qua sự can thiệp vào thị trường. Trong trường hợp này, việc tìm kiếm mô hình quy trình để giải thích điều gì đang xảy ra phải được tiến hành trong khoa học tiếp thị” [108]. Từ đây, tiếp nối trong một công trình khác của Ashworth (1997) là Elements of planning and managing heritage sites, tác giả đã phân tích sâu hơn các quan điểm tiếp cận di sản nêu trên. Ông đã đưa lại một lần nữa mô hình về những tranh luận của hai hướng tiếp cận đầu tiên và đưa ra hướng tiếp cận thứ ba [109]. Kế thừa quan điểm của Ashworth, Zhan Chang Yuan (2010) cũng đề cập việc quản lý DSVH như một ngành công nghiệp mà những người tham gia cần chú ý tới chính sách, nguồn tài nguyên, nhân lực thực hiện… Các nhà quản lý luôn phải đối mặt với vấn đề cân bằng bảo tồn và phát huy giá trị di sản sao cho hợp lý. Peter Howard (2002) cho rằng các nhà quản lý luôn phải đặt ra câu hỏi: chúng ta cần bảo tồn cái gì, tại sao và cho ai? Việc bảo tồn nhằm gìn giữ lại tối đa những giá trị của di sản, làm cơ sở để khai thác, phát huy các giá trị đó trong đời sống. Việc khai thác, phát huy giá trị là điều cần để làm cho di sản thực sự trở thành một bộ phận của cuộc sống hiện tại. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng lưu ý rằng việc khai thác cần quan tâm đến vấn đề phát triển bền vững, tránh tình trạng khai thác quá mức dẫn tới những ảnh hưởng không tốt đến giá trị của di sản đó. Trước đó, Brian Garrod, Alan Fayall trong nghiên cứu về quản lý di sản và du lịch Managing heritage tourism [112] đã thừa nhận rằng cần có sự cân bằng giữa 14 bảo tồn và khai thác. “Khi các nhà quản lý DSVH nghiên cứu, bàn thảo về kế hoạch bảo tồn, họ quan tâm nhiều đến việc duy trì nguồn tài nguyên ở một mức độ bền vững”. Arthur Perdersentrong Managing Tourism at World Heritage Sites: Practical Manual for World Heritage Site Managers (2002) đã đề ra các phương án quản lý di sản trước sự tác động của du lịch cần khoanh vùng cho các hoạt động tương thích, giảm bớt số lượng khách vào một số khu vực, thậm chí đóng cửa một số khu vực của di sản…[107]. Theo McKercher & du Cros trong Cultural Tourism - The Partnership Between Tourism and Cultural Heritage Management (2002) quản lý và bảo tồn DSVH là việc chăm sóc một cách có hệ thống nhằm gìn giữ giá trị văn hóa của DSVH cho sự hưởng thụ của thế hệ hiện tại và tương lai. Như vậy, quản lý di sản trong bối cảnh hiện nay là bảo vệ được di sản đó một cách thích hợp, lâu dài và bền vững [123]. Trong tài liệu Hướng dẫn thực hiện công ước di sản thế giới, UNESCO cũng yêu cầu các quốc gia thành viên phải xây dựng kế hoạch quản lý các khu di sản thế giới với mục tiêu cơ bản như: 1) Muốn quản lý di sản phải nhận diện chính xác giá trị nổi bật toàn cầu của khu di sản; 2) Phải xác định rõ những áp lực từ tự nhiên và các hoạt động kinh tế - xã hội tới khả năng bảo tồn và phát huy di sản; 3) Cơ chế, chính sách phù hợp để thực thi việc quản lý di sản; 4) Chương trình hành động cụ thể nhằm hạn chế, ngăn ngừa những yếu tố ảnh hưởng tới di sản; 5) Thu hút các nguồn lực xã hội cho hoạt động bảo tồn DSVH. Quan trọng hơn cả là cơ chế kiểm soát việc triển khai kế hoạch quản lý DSVH của các quốc gia thành viên. 1.1.1.2. Những công trình trong nước Trong nước, các công trình nghiên cứu về phát huy giá trị DSVH cũng đi theo các hướng như trên. Ở hướng thứ nhất: xác định và phân loại DSVH, trong công trình 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa (2008), tác giả Bùi Hoài Sơn đã kế thừa kết quả nghiên cứu về DSVH của các học giả thế giới để đưa ra khái niệm về di sản theo hướng tiếp cận quản lý [83]. Trong khi đó, Lê Hồng Lý trong Giáo trình Quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch (2010) lại sử dụng khái niệm DSVH do Luật Di sản của nước ta quy định, và đưa ra 9 dạng khác nhau của DSVH [66]. Cũng sử dụng khái niệm DSVH do Luật Di sản của nhà nước ban hành, song công trình Quản lý di
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan