1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
PHẠM THỊ THANH HUYỀN
PHẢN ỨNG CỦA CÂY VỪNG
ĐỐI VỚI ĐIỀU KIỆN THIẾU NƯỚC
Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60 42 01 14
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Mã
HÀ NỘI, 2012
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản khóa luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn, sự kính
trọng sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS Nguyễn Văn Mã đã tận tình hướng dẫn và
giúp đỡ em trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới khoa Sinh – KTNN và Trung tâm
Hỗ trợ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ - Trường ĐHSP Hà
Nội 2 đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để em thực hiện tốt đề tài này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Học viên
Phạm Thị Thanh Huyền
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác.
Học viên
Phạm Thị Thanh Huyền
4
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU
1
1.Lí do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
3
Chương I. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
4
1.1 Giới thiệu khái quát về cây vừng.
4
1.1.1. Nguồn gốc và sự phân bố.
4
1.1.2. Đặc điểm sinh học của cây vừng
4
1.1.3.Đặc điểm sinh thái, sinh trưởng và phát triển của cây vừng.
6
1.1.4. Giá trị của cây vừng.
8
1.1.5. Tình hình sản xuất vừng trên thế giới và ở Việt Nam.
10
1.2 Ảnh hưởng của hạn hán tới vừng và tình hình nghiên cứu khả năng
chịu hạn của cây vừng
12
1.2.1 Ảnh hưởng của hạn đối với thực vật nói chung và vừng nói riêng
12
1.2.2 Tình hình nghiên cứu khả năng chịu hạn của cây vừng.
15
1.3. Prolin và vai trò của prolin.
17
1.4. Huỳnh quang diệp lục
19
1.5 Một số enzym trong hạt nảy mầm
23
Chương II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
25
2.1. Đối tượng nghiên cứu
25
2.2. Phương pháp nghiên cứu
25
5
2.2.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm
25
2.2.2 Phương pháp xác định chỉ tiêu nghiên cứu
26
2.2.3 Phương pháp xử lý thống kê các kết quả thực nghiệm
31
Chương III. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
33
3.1. Ảnh hưởng của sự thiếu nước đến sinh trưởng của mầm và hàm 33
lượng proline trong mầm
3.1.1.Khả năng nảy mầm của hạt
33
3.1.2. Sinh trưởng rễ mầm, thân mầm
34
3.1.3. Khối lượng tươi và khối lượng khô của mầm.
37
3.1.4. Hàm lượng proline trong mầm
39
3.2. Hoạt độ của các enzym phân giải chất dự trữ trong mầm vừng trong
điều kiện gieo hạt trong dung dich đường saccarozo
41
3.2.1. Hoạt độ của enzym protease
41
3.2.2. Hoạt độ của enzym lipase
43
3.2.3. Hoạt độ của enzym amilase
44
3.3 Ảnh hưởng của sự thiếu nước đến cây vừng trong thời kì ra hoa và
tạo quả.
45
3.3.1 Chiều cao cây.
45
3.3.2. Diện tích lá.
47
3.3.3. Hàm lượng proline của rễ trong thời kì ra hoa và tạo quả
48
3.3.4 Huỳnh quang diệp lục của lá.
51
KẾT LUẬN
55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
56
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vừng (Sesamum indicum L.) là một loại cây thuộc chi Vừng
(Sesamum), họ Vừng (Pedaliaceae). Hạt vừng chứa 40-55% dầu màu vàng, 58% nước, 20-22% protein, 5% tro (trong đó có 1,7 mg đồng) 1% canxi oxalat,
6,3-8,8% chất không có nitơ gồm: sesamin, sesamolin, sesamol, pedaliin
planteose, sesamose. Dầu Vừng chứa khoảng 12-16% acid đặc và 75-80%
acid loãng, 0,9-1,7% phần không xà phòng hóa; khoảng 1% lexitin. Trong dầu
có chất sesamin với tỷ lệ chừng 0,25-1% và chất sesamol là một phenol,
chừng 0,1%.
Vừng là loại cây trồng có giá trị dinh dưỡng được sử dụng nhiều trong
đời sống hàng ngày, ngoài ra vừng còn là một dược liệu quý được biết đến
như là một vị thuốc “trường sinh” trong vừng có chứa rất nhiều các chất
chống lão hóa như vitamin E...; có các chất mà cơ thể cần như protein, chất
béo, đường, khoáng chất, có các chất phòng chống bệnh xơ cứng động mạch
như axit béo không bão hòa, vitamin PP, vitamin B1, những thứ này đều là cơ
sở cho việc kéo dài tuổi thọ. Nhiệt độ thích hợp cho vừng sinh trưởng phát
triển tốt là từ 25- 300C; nhu cầu nước của vừng phụ thuộc vào từng thời kì,
tổng lượng mưa trong cả thời gian sinh trưởng phát triển của cây vừng là 500600mm. Tuy nhiên với những vùng có nhiệt độ quá cao, lượng mưa thấp thì
ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng phát triển của vừng.
Hiện nay, vừng đã được trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới với
tổng diện tích hơn 7,7 triệu ha, năng suất: 3,5-4,5 tạ/ha. Sản lượng vừng của
thế giới trong 10 năm gần đây đạt khoảng trên 3 triệu tấn/ năm. Diện tích
vừng của Việt Nam đạt khoảng 45 ngàn ha, năng suất 4,8 tạ/ha và sản lượng
22 ngàn tấn [23], [32]. Được trồng chủ yếu ở các vùng đồng bằng như Sông
Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung bộ, Đông Nam bộ…
7
Trên thế giới cây vừng đã được các nhà khoa học nghiên cứu theo
nhiều hướng khác nhau như: những biến đổi sinh lý, hóa sinh trước và sau khi
nảy mầm, ảnh hưởng của điều kiện hạn đến sự nảy mầm, sinh trưởng và phát
triển, năng suất của cây vừng, các chỉ tiêu hóa sinh và sự đa dạng di
truyền...[58], [61], [63].
Việt Nam, đất đai khí hậu thích hợp cho cây vừng phát triển. Vừng
được gieo trồng khắp nơi từ Bắc vào Nam bởi khả năng thích ứng rộng, có thể
trồng trên nhiều loại đất, đồng thời vừng là loại cây có khả năng chịu hạn khá,
trong cả thời kì sinh trưởng cần lượng nước mưa khoảng 500 -600mm.
Nhưng cho đến nay các công trình và các hướng nghiên cứu về vừng
còn rất ít. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung và chọn tạo giống vừng mới như
V6, V36, VĐ10 cho năng suất cao, chất lượng tốt [28], [30], hay những
nghiên cứu về các chỉ tiêu sinh hóa thực phẩm, thành phần dinh dưỡng trong
hạt, việc khai thác sử dụng các chế phẩm từ vừng....song một trong những ưu
điểm của cây vừng là khả năng chịu hạn, những biến đổi sinh lý, hóa sinh
trong điều kiện hạn lại chưa được nghiên cứu sâu. Trong khi đó đối với cây
trồng như ngô, lúa, đậu tương, lạc... thì có rất nhiều công trình nghiên cứu về
khả năng chịu hạn của những nhóm cây này.
Chính vì thế, việc tìm hiểu ảnh hưởng của hạn đối với các cây trồng nói
chung và vừng nói riêng là cần thiết để đánh giá được các giống cây trồng, và
chọn lọc được những giống vừng, có khả năng chịu hạn, cho năng suất cao,
phẩm chất tốt, và giúp cho người sản xuất gieo các giống vừng ở những vùng
đất phù hợp. Xuất phát từ lí do nêu trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Phản ứng của cây vừng đối với điều kiện thiếu nước”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu phản ứng của cây vừng trong điều kiện thiếu nước ở giai
đoạn nảy mầm, ra hoa, tạo quả.
8
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định khả năng nảy mầm, sinh trưởng của mầm trong điều kiện
gieo hạt trong dung dịch đường saccarozo.
- Xác định hàm lượng prolin, hoạt độ các enzym protease, lipase và
amylase trong mầm vừng ở điều kiện thiếu nước.
- Xác định chỉ tiêu sinh trưởng của cây ở thời kì ra hoa và tạo quả trong
điều kiện đủ nước và thiếu nước.
- Xác định hàm lượng prolin rễ, huỳnh quang diệp lục lá ở thời kì ra
hoa và tạo quả trong điều kiện đủ nước và thiếu nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu trên 2 giống vừng: vừng vàng và vừng đen Sơn
La, được trồng phổ biến ở khu vực Xuân Hòa - Phúc Yên - Vĩnh Phúc.
Các giống vừng này được cung cấp từ Trung tâm tài Nguyên Thực Vật, Viện
KHKTNN Việt Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Tiến hành xác định chỉ tiêu nghiên cứu trên đối tượng vừng trong giai
đoạn nảy mầm ở điều kiện phòng thí nghiệm và giai đoạn ra hoa, tạo quả ở
vườn thí nghiệm dưới ảnh hưởng của điều kiện thiếu nước.
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là dẫn liệu khoa học về các phản
ứng sinh lý, sinh hóa liên quan đến khả năng chịu hạn của vừng.
Qua kết quả nghiên cứu giúp chọn lọc được giống chịu hạn tốt, chọn
được nơi trồng vừng phù hợp đối với các giống.
9
Chương I. Tổng quan tài liệu
1.1 Giới thiệu khái quát về cây vừng.
1.1.1. Nguồn gốc và sự phân bố.
Cây vừng (Sesamum indicum L.), thuộc chi Sesamum, họ Pedaliaceae
bộ Tubiflorae, lớp Mộc lan Magnoliopsida, ngành Mộc lan Magnoliophyta.
Cây vừng có nguồn gốc có từ Châu Phi. Vừng là loại cây có dầu được
trồng lâu đời (khoảng 2000 năm trước công nguyên). Sau đó được đưa vào
vùng tiểu Á (Babylon) và được di về phía tây - vào châu Âu và phía nam vào
châu Á dần dần được phân bố đến Ấn Độ và một số nước nam Á. Trung
Quốc, Ấn Độ được xem như là trung tâm phân bố của cây vừng.
Cho đến nay vừng được trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng
tập chung chủ yếu vẫn là ở Châu Á và Châu Phi . Hiện nay trên thế giới đang
gieo trồng khoảng 300 giống vừng, sản lượng vừng hàng năm vào khoảng 2,2
triệu tấn với năng suất tương ứng 3,5 ta/ha [5].
Theo tài liệu công bố trên tạp chí “Dầu thực vật thế giới” thì có khoảng
30 nước trên thế giới trồng vừng với quy mô tối thiểu trên 10000ha và dành
một lượng nhất định để xuất khẩu. Điển hình là các nước: Ấn Độ, Trung
Quốc, Miến Điện...Ở các nước này, ngoài việc cung cấp các sản phẩm cho
tiêu dùng thì vừng còn có giá trị xuất khẩu rất lớn, chiếm khoảng 68% tổng
sản lượng vừng trên thế giới [57], [58].
Ở Việt Nam, vừng là cây trồng có từ lâu đời, thích nghi rộng nên được
trồng ở khắp các vùng sinh thái trong cả nước nhưng tập trung chủ yếu ở các
tỉnh miền Nam và Bắc Trung Bộ.
1.1.2. Đặc điểm sinh học của cây vừng
Đặc điểm của rễ
Thuộc loại rễ cọc, rễ chính ăn sâu. Đồng thời hệ rễ bên của vừng cũng
rất phát triển về bề ngang. Rễ vừng phân bố chủ yếu ở lớp đất từ 0 – 25 cm.
10
Đối với vùng đất cát, vùng khô hạn, rễ cái có thể ăn sâu từ 1m đến 1,2 m để
tìm nguồn nước ngầm. Trên đất cát, rễ mọc tốt hơn trên đất sét và không chịu
ngập trong thời gian ngắn. [27]
Đặc điểm của thân.
Thân vừng thuộc thân thảo, thân thường có hình 4 cạnh với những tiết
diện vuông và những rãnh dọc. Tuy nhiên, có những dạng thân rất rỗng hình
chữ nhật. Thân có thể tròn, trên thân có nhiều lóng hoặc ít lóng. Đặc tính này
cũng để phân biệt giống. Màu sắc của thân thay đổi từ màu xanh nhạt đến
màu tím, phổ biến nhất là màu xanh đậm. Thân cao từ 60-120 cm. Trong điều
kiện hạn, thân có thể thấp hơn, nhưng cũng có giống đạt đến 3m.[27] , [32]
Số lượng cành trên cây phụ thuộc chủ yếu vào giống, thường có khoảng
2 – 6 cành. Cành mọc từ các nách lá gần gốc.
Đặc điểm của lá:
Lá vừng rất biến đổi về dạng và kích thước trên cùng một cây và giữa
các giống. Lá dưới thường rộng đôi khi có thùy, mép (rìa) hình răng cưa
hướng ra ngoài lá giữa thường nguyên hình móc, đôi khi răng cưa lá trên hẹp
hơn. Lá mọc đối hay luân phiên tùy giống, cách sắp xếp lá ảnh hưởng đến số
hoa mang trên nách lá và năng suất hạt trên cây. Lá mọc đối tạo diều kiện có
nhiều hoa. Kích thước của lá thay đổi từ 3 -17,5 cm chiều dài và 1-1,5 cm
chiều rộng. Lá có màu xanh đậm, xanh nhạt tùy thuộc vào giống. Mặt trên của
lá có lông tơ bao phủ. [27], [32]
Đặc điểm của cành.
Xuất phát từ thân chính, cành có thể mọc cách hay mọc đối nhau, cành
sẽ mang hoa và trái, trên các cành chính còn có cành cấp hai. Sự phân cành
trên thân chính cũng là một yếu tố để phân biệt các giống vừng , thường màu
của cành trên thân giống như thân chính. [26], [32]
11
Đặc điểm của hoa.
Hoa vừng thuộc hình chuông. Cuống hoa ngắn, tràng hoa gồm 5 cánh
hợp thành hình chuông.
Đài hoa màu xanh, 5 cánh cạn. Ống hoa dài 3 – 4 cm. Hoa mọc ở nách
lá thành chùm. Mỗi chùm có 4 – 8 hoa. Nhị đực 5 nhưng có 1 bất dục. Bầu
nhụy nằm trên đài hoa, có 2 ngăn với nhiều vách giả. [26], [32]
Đặc điểm của quả.
Là một loại quả nang, tiết diện hình chữ nhật, có rãnh sâu, có đầu nhọn
hình tam giác ngắn. Hình dạng của quả cũng là một yếu tố để phân biệt các
giống. Chiều dài trái thay đổi từ 2,5 – 8cm, đường kính trái thay đổi từ 0,5-2
cm số vách ngăn từ 1-12 trái thường có lông tơ bao phủ. Trái mở ra bằng cách
chẻ dọc vách ngăn từ trên xuống. Mức độ mở trái là đặc tính quan trọng khi
chọn giống để trồng cho phù hợp với điều kiện thu hoạch. [27], [32]
Chất lượng quả cũng khác nhau tùy vị trí đóng quả. Thường quả ở vị trí
thấp có hạt lớn hơn ở vị trí cao.
Đặc điểm của hạt.
Hạt vừng nhỏ thường có hình trứng hơi dẹp trọng lượng 1000 hạt từ 2
– 4 g. Vỏ láng hoặc nhăn màu đen, trắng, vàng, nâu đỏ hay xám, cũng có hạt
màu xám nâu, xanh olive và nâu đậm. Hạt vừng tương đối mảnh và chứa rất
nhiều dầu, do đó, dễ mất sức nảy mầm sau khi thu hoạch. Hạt vừng chứa
khoảng 45 – 54% lipit, 16 -18% protein, ngoài ra còn có các chất khoáng và
vitamin…[27], [32]
1.1.3.Đặc điểm sinh thái, sinh trưởng và phát triển của cây vừng.
- Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp cho hạt nảy mầm, sinh trưởng, các bộ
phận dinh dưỡng và sự hình thành hoa khoảng 25 – 270C. Nhiệt độ thích hợp
cho sự nở hoa và sự phát triển quả vào khoảng 28 – 320C. Nếu nhiệt độ dưới
200C kéo dài thời gian nảy mầm. Nhiệt độ dưới 180C sẽ gây khó khăn cho sự
12
phát triển và nếu nhiệt độ dưới 100C cây ngừng phát triển và chết. Nhiệt độ
cao trên 400C vào thời gian ra hoa sẽ cản trở sự thụ phấn, thụ tinh, tăng tỷ lệ
hoa rụng và do đó làm giảm số hoa. [26]
- Ánh Sáng: Vừng là cây ngắn ngày. Trong điều kiện thời gian chiếu
sáng dưới 10 giờ/ngày sẽ rút ngắn thời gian sinh trưởng dinh dưỡng của vừng.
Vừng sẽ ra hoa sớm hơn 15 - 20 ngày trong điều kiện tự nhiên (12giờ/ngày).
Cường độ ánh sáng trong ngày ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất của vừng.
Trong thời gian sinh trưởng, nhất là sau khi trổ hoa, vừng cần khoảng 200 300 giờ nắng/tháng cho tới khi trái chín.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy: Cường độ ánh sáng trong thời gian
kết quả đến khi chín 28.000 lux thích hợp nhất cho quá trình hình thành dầu.
Hàm lượng dầu trong hạt giảm 8% nếu cường độ ánh sáng giảm xuống 7.000
lux.
- Nước : Là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến năng suất vừng
.Vừng tương đối chịu hạn nhưng cho năng suất thấp, khi đất có ẩm độ dưới
70%. Vừng ít cần nước mưa, vừng cho năng suất cao ở lượng mưa 500 650mm. Trong điều kiện có tưới tổng lượng nước cần lên tới 900 - 1000mm.
Cây vừng yêu cầu lượng nước phân bố đều trong vụ: Thời kỳ sinh
trưởng dinh dưỡng 34%; thời kỳ ra hoa kết quả 45%; và thời kỳ chín là 21%.
Độ ẩm đất thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển và cho năng suất của vừng
khoảng 70 - 80%. [26]
- Độ cao. Vừng thích hợp ở độ cao từ 500- 1250m so với mực nước
biển. Nhưng không chịu được sương gió. Vừng rất dễ bị thiệt hại do gió, nhất
là khi thân chính phát triển, gió cũng làm cho mất hạt khi trái bị nứt.
- Đất. Vừng phát triển được trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng phát
triển tốt nhất là trên loại đất phì nhiêu, thoát thủy tốt. Cơ cấu đất không quan
trọng bằng khả năng thoát nước, cây sẽ chết nếu nước ngập kéo dài, nhất là
13
thời kỳ sinh trưởng đầu. Các loại đất cát, cát pha có pH từ 5,5 đến 8 đều trồng
vừng được, nhưng tốt nhất là pH = 6. Độ ẩm thích hợp nhất là 70%.[26]
- Thời vụ gieo trồng:
Vụ đông xuân: Đối với các tỉnh phía nam. Gieo từ 15/11 đến cuối tháng
2 dương lịch,vụ này cho năng suất cao nhất trong năm. Vừng trồng vụ Đông
Xuân có điều kiện thuận lợi phơi hạt dễ dàng. hạt có màu sáng đẹp, không bị
nấm mốc tấn công làm biến dạng hạt, do đó giá trị kinh tế cao. Trồng vụ này,
cây không bị đổ ngã, ít sâu bệnh, không ngập úng.
Vụ xuân hè: Bắt đầu từ tháng 2 đến giữa tháng 3 dương lịch, tốt nhất là
trong tháng 2. Không nên quá muộn vì gây khó khăn cho việc thu hoạch
Vụ hè thu: Thường được trồng trên đất rẫy để tránh bị úng khi mưa
nhiều, bắt đầu gieo vào tháng 5 - 6 duơng lịch thu hoạch vào tháng 8-9 dương
lịch. Vụ này năng suất thấp nên chỉ trồng trên đất rẫy lấy giống cho vụ sau.
Vụ thu đông: Thời vụ gieo trồng thích hợp từ đầu tháng 9 đến đầu tháng 10
dương lịch để có thể thu hoạch vào cuối tháng 12 đầu tháng 1 năm sau.
1.1.4. Giá trị của cây vừng.
Cây vừng được mệnh danh là "hoàng hậu của các cây lấy dầu" [35],
[65] với sản phẩm thu hoạch chính là hạt. Thành phần dinh dưỡng chủ yếu
trong hạt vừng là lipit với 45-54%, protein 18 -25%, gluxit 18 - 22%. Ngoài
ra trong hạt vừng còn chứa nhiều chất khoáng, các vitamin quan trọng. Dầu
vừng không những được coi là loại dầu có khả năng chống oxy hóa, có giá trị
dinh dưỡng cao, chất lượng tốt mà còn là nguồn thực phẩm có giá trị đặc biệt
và ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thế giới [36].
Vừng từ lâu đã trở thành một phần trong các món ăn của con người
[62], trong thức ăn cho vật nuôi dưới dạng hat, dầu và thức ăn chế biến.
Khoảng 70% lượng hạt vừng trên thế giới được chế biến thành dầu và
sử dụng nhiều trong bữa ăn [53]. Ở nhiều nước, dầu vừng được dùng trực tiếp
14
trong nấu nướng hoặc ăn sống với rau, làm phụ gia trong công nghiệp thực
phẩm như nước chấm, công nghệ dược liệu, mỹ phẩm....[33],[37], [48],
[54],[57],[58].
Gần đây dầu vừng được sử dụng như thực phẩm chức năng có lợi cho
sức khỏe. Bên cạnh các chất chống oxi hóa hòa tan được lipit như: sesamin,
sesamol và sesamolin người ta còn phát hiện rằng các hợp chất: lignans và
lignan glucozit cũng có khả năng chống phản ứng peroxyt hóa chất béo, tăng
nguồn cung cấp vitamin E ở động vật. Nên dầu vừng được coi là 1 trong
những chất béo khá lí tưởng làm thực phẩm cho người lớn, trẻ em, cho người
béo phì [ 40], [42], [55], [56].
Thức ăn từ vừng đã được khử mỡ là nguồn cung cấp protein quan trọng
cho con người nhờ các axit amin chứa lưu huỳnh . Trong đông y, vừng đen có
tên là "hắc ma chi", được dùng làm thuốc bổ, nhuận tràng, lợi sữa... Vừng vị
ngọt, tính bình, không độc, đi vào phế kinh, tì kinh, đại trường kinh. Trên lâm
sàng thường dùng để chữa trị các chứng bệnh thân thể hư nhược, đầu tóc bạc
sớm, thiếu máu, người khô héo, tân dịch không đủ, đại tiện phân táo bón,
váng đàu, ù tai, cao huyết áp, cao mỡ trong máu, ho, thiếu sữa, bệnh giun kim,
bệnh kiết lỵ, tiểu tiện ra máu … [3]
Trong hạt vừng trung bình có từ 20 - 30% protein, trong đó có đủ 8 loại
axit amin không thay thế, trong đó có một số axit amin có hàm lượng cao hơn
so với đỗ tương, trứng gà và lạc. Chính vì thế bột vừng được chế biến làm
thức ăn bổ sung, phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ. [18], [29],[45].
15
Bảng so sánh thành phần axit amin của vừng với lạc, đậu tương.(mg/g) [26]
Axit amin
Vừng đen
Vừng vàng
Lạc
Đậu tương
Lysin
2,9
3,5
3,0
6,8
Phenylalanin
6,2
6,3
5,1
5,3
Methionin
3,3
3,8
1,0
1,7
Loxin
8,9
7,4
6,7
8,0
Izolơxin
3,9
3,7
4,6
6,0
Valin
3,5
3,6
4,4
5,3
Histidin
2,1
2,4
2,1
2,9
Threonin
3,6
3,9
1,6
3,9
Trong hạt vừng còn chứa nhiều vitamin A, B1, B2, PP và một số nguyên
tố khoáng như sắt, kẽm, đồng, canxi...
1.1.5. Tình hình sản xuất vừng trên thế giới và ở Việt Nam.
Trước chiến tranh thế giới thứ 2 , diện tích trồng vừng từ 5 triệu ha vào
năm 1939, đạt sản lượng 1,5 tấn trong đó Ấn Độ là quốc gia trồng nhiều nhất
với diện tích 2,5 triệu ha, kế đó là Trung Quốc 1,2 triệu ha, Miến Điện
700.000 ha, Mêhicô 200.000 ha. Các quốc gia có diện tích trồng < 50.000 ha
gồm: Pakistang, Thổ Nhĩ Kỳ...
Hiện nay, tuy với diện tích không nhiều vừng đã được trồng khắp các
châu lục trên thế giới. Hàng năm trên thế giới có khoảng 6 triệu ha vừng được
trồng, tập trung chủ yếu ở một số nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi và
Châu Mỹ với tổng sản lượng gần 2,4 triệu tấn. Trong đó Châu Á, vừng được trồng
với quy mô lớn nhất, chiếm 55% diện tích và 62,00% sản lượng. Các nước ở Châu
Phi chiếm 33,58% diện tích và 21,76% sản lượng. Phần còn lại không nhiều được
phân bố ở khu vực Châu Mỹ và một số các quốc gia khác [34], [44].
16
Sản lượng vừng trên thế giới trong 10 năm gần đây đạt khoảng 2,5 triệu
tấn/năm. Nước đứng đầu sản lượng vừng là Ấn Độ với 700.000 tấn/năm, tiếp
đó là Trung Quốc với 500.000 tấn/năm, Sudan với 300.000 tấn/năm và
Mexico với 250.000 tấn/năm. Những nước có sản lượng vừng thấp hơn
250.000 tấn/năm tập trung chủ yếu ở khu vực Tây và Đông Nam Á, Châu Phi,
Châu Úc, Châu Mỹ [5].
Ở Việt Nam, đất đai và khí hậu thích hợp cho cây vừng sinh trưởng và
phát triển. Tuy nhiên, so với một số cây trồng khác như lạc, đậu tương…cây
vừng chưa được coi là cây trồng chính nên năng suất thấp, chưa được quan
tâm chưa được đầu tư đúng mức; diện tích gieo trồng còn ít, năng suất chưa
cao. Diện tích vừng hàng năm biến động từ 30000 đến hơn 40000 ha trong
suốt hai thập niên qua. Năm 2004, cả nước gieo trồng được 40800ha, tăng
4000 ha so với năm 2000. Diện tích tăng chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long và Duyên hải miền trung Nam Bộ, nhưng ở vùng Tây Nguyên diện tích
lại giảm mạnh. Diện tích vừng phân bố chủ yếu tại các tỉnh miền Nam,
khoảng 25600ha, các tỉnh miền Bắc đạt 15200ha. Tổng sản lượng vừng năm
2004 của cả nước đạt gần 21000 tấn, tăng 4400 tấn so với năm 2000. Trong
đó các tỉnh miền Bắc chiếm 33,97% và các tỉnh miền Nam đạt 66,03%.
Bảng: Diện tích, năng suất và sản lượng vừng ở Việt Nam
từ năm 2000 - 2010
Năm
Năng suất
(tấn/ ha)
Sản lượng
(tấn)
Diện tích
(ha)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
0,46
0,52
0,38
0,42
0,52
0,52
2006 2009
0,49
2010
0.49
16.800 19.400 12.900 14.300 21.200 27.400 22000 24.900
36.800 37.000 33.800 34.200 41.100 52.800 45.000 51.000
(Niên giám thống kê 2010)
17
Năng suất vừng chưa cao do nhiều nguyên nhân: đất đai, khí hậu, yếu
tố đầu tư thâm canh thấp, thiếu giống chống chịu với điệu kiện hạn hán và sâu
bệnh. Các giống vừng hiện nay đang gieo trồng đều là giống địa phương, tồn
tại nhiều năm không chọn lọc, không phục tráng nên ảnh hưởng nhiều đến
năng suất và phẩm chất sau khi thu hoạch.
1.2 Ảnh hưởng của hạn hán tới vừng và tình hình nghiên cứu khả năng
chịu hạn của cây vừng.
1.2.1 Ảnh hưởng của hạn hán tới thực vật nói chung và cây vừng nói riêng.
* Tính chống chịu
Trong suốt quá trình sống thực vật luôn chịu tác động của nhân tố ngoại
cảnh: ánh sáng, nhiệt độ, hàm lượng nước.... để tồn tại, sinh trưởng và phát
triển. Qua quá trình tiến hoá ở các loài thực vật đã hình thành nên những nhu
cầu xác định đối với môi trường sống. Đồng thời mỗi cơ thể có khả năng
thích nghi với môi trường biến đổi.
Tính chống chịu môi trường bất lợi có các đặc trưng đa dạng. Cơ thể có
thể bằng cách nào đó tránh khỏi tác động bất lợi.Trong các điều kiện môi
trường bất lợi gây nên stress ở cơ thể thực vật, thường gặp nhất là thiếu nước
(hạn), nhiệt độ cao (nóng), nhiệt độ thấp (rét)… Tính chống chịu đối với mỗi
một tác động đó được xác định do một loạt những đặc điểm sinh lý hoá sinh
của cơ thể [25].
* Tính chịu hạn
Hạn là hiện tượng xảy ra khi cây bị thiếu nước. Do thiếu nước, lượng
nước hút vào cây không bù đắp được lượng nước bay hơi đi qua các bộ phận
trên mặt đất, làm cho cây mất cân bằng nước và bị héo. Có ba loại hạn:
Hạn đất xảy ra khi lượng nước dự trữ cho cây hấp thu trong đất bị cạn
kiệt nên cây không hút đủ nước và mất cân bằng nước trong cây và xuất hiện
dấu hiệu héo. Mức độ khô hạn của đất tùy thuộc vào sự bốc hơi nước trên bề
18
mặt và khả năng giữ nước của đất. Hạn đất thường xảy ra với các vùng có
lượng mưa trung bình rất thấp và kéo dài nhiều tháng trong năm như các tỉnh
miền Trung, Tây Nguyên…vào mùa khô.
Đối với cây trồng cạn, hạn đất ảnh hưởng nghiêm trọng tới thời kì mầm
[25]. Hạt của một số loài cây chỉ nảy mầm khi lượng nước không ít hơn
125mm. Lượng nước đó là mức khởi đầu cho sinh trưởng tiếp của cây.Khi
lượng nước không đủ, cây mầm bị héo, thiếu nước trầm trọng sẽ làm mầm
không sinh trưởng được và chết.
Hạn không khí xảy ra khi độ ẩm không khí quá thấp làm cho quá trình
thoát hơi nước của cây quá mạnh và cũng có thể dẫn đến mất cân bằng nước
trong cây.
Hạn không khí thường đặc trưng cho nhiệt độ cao và độ ẩm thấp < 62%
, gió mạnh. Thường xảy ra ở các vùng có gió khô và nóng như vùng có gió
mùa Tây Nam của các tỉnh miền Trung, mùa khô ở Tây Nguyên hoặc đôi lúc
gió mùa Đông Bắc cũng có độ ẩm không khí thấp…
Đối với thực vật, hạn không khí thường gây nên hiện tượng héo tạm
thời vì rễ cây không hút đủ nước mà quá trình thoát hơi nước xảy ra quá
nhanh. Hạn không khí ảnh hưởng trực tiếp đến các bộ phận của cây trên mặt
đất như hóa, lá, chồi..[25].
Hạn sinh lý xảy ra do trạng thái sinh lý của cây không cho phép cây hút
được nước mặc dù trong môi trường không thiếu nước. Rễ cây không lấy
được nước trong khi quá trình bay hơi nước vẫn diễn ra nên cây mất cân bằng
nước. Ví dụ khi đất yếm khí, rễ cây thiếu oxy để hô hấp nên không có không
có năng lượng cho hút nước; hoặc khi nồng độ muối trong đất quá cao vượt
quá nồng độ dịch bào của rễ làm rễ cây không hút nước được, hay trường hợp
nhiệt độ của đất quá thấp cũng xảy ra hạn sinh lý…Hạn sinh lý kéo dài cũng
tác hại như hạn đất và hạn không khí.
19
* Ảnh hưởng của hạn đối với thực vật
Hạn làm giảm hàm lượng nước tự do, lớp nước màng bào quanh các
gôc mang điện tích của phân tử protein trong tế bào chất cũng bị giảm sút gây
ảnh hưởng đến hoạt động của các protein - enzim. Hạn kéo dài làm giảm hoạt
tính của các enzim tổng hợp và hoạt hóa các enzim thủy phân, gia tăng sự
phân giải các chất cao phân tử như protein, cacbonhydrat...Hệ thống màng
(màng sinh chất, màng ti thể, màng lục lạp...) bị hư hại, dẫn đến bộ máy
quang hợp, hô hấp bị tổn thương. Thiếu nước ban đầu làm tăng cường độ hô
hấp nhưng sau đó hô hấp giảm mạnh nếu tiếp tục thiếu nước. Hạn ảnh hưởng
xấu đến cấu trúc của bộ máy quang hợp, ức chế tổng hợp diệp lục, phá hủy
cấu trúc binh thường của thylacoit dẫn đến cường độ quang hợp của cây giảm
hoặc bị ngưng trệ [59]. Kìm hãm sự vận chuyển sản phẩm quang hợp ra khỏi
lá làm giảm năng suất kinh tế.
Mức độ thiếu hụt nước càng lớn thì ảnh hưởng càng xấu đến quá trình
sinh trưởng phát triển của cây: tế bào phân sinh trong đỉnh sinh trưởng không
phân chia, quá trình dãn của tế bào bị ức chế, tế bào ngừng sinh trưởng và cây
còi cọc. Khi gặp hạn, sự phân hóa hoa bị ảnh hưởng, hạt phấn không nảy
mầm, ống phấn không sinh trưởng được, không thụ tinh được và hạt bị lép.
Thiếu nước nhiều làm ảnh hưởng đến hàm lượng nước liên kết trong tế bào
dẫn đến biến đổi trạng thái của hệ thống keo nguyên sinh chất, làm tăng
cường quá trình già hóa tế bào. Khi bị khô kiệt nước, nguyên sinh chất bị phá
hủy, mô bị tổn thương và chết.
Như vậy hạn làm ảnh hưởng đến cơ thể thực vật ở các mức độ khác nhau
của tế bào, mô, cơ quan, cơ thể, ở các giai đoạn sinh trưởng phát triển khác nhau
của cây. Hạn là nguyên nhân chính của sự mất mùa và giảm năng suất .
20
1.2.2 Tình hình nghiên khả năng chịu hạn của cây vừng.
Cây vừng được trồng ở nhiều nơi trên thế giới. Đây là cây trồng có
nhiều lợi thế vì có thể trồng ở điều kiện nhiệt độ tương đối cao, lượng nước
thấp. Vừng được đánh giá là cây trồng cạn, trong chu kì sinh trưởng và phát
triển cây vừng cần lượng mưa 500 -600 mm/năm, tốt nhất là từ 500 - 1000
mm/năm. Trong điều kiện khô hạn, lượng mưa < 600 mm/ năm nhiều cây
trồng khó có khả năng sinh trưởng, ra hoa, kết quả nhứng vừng vẫn cho thu
hoạch. Điều đó cho thấy cây vừng là cây trồng chịu hạn [26], [27].
Trên thế giới, việc nghiên cứu về cây vừng đã được tiến hành từ nhiều
năm nay. Các nghiên cứu chủ yếu đề cập đến hàm lượng lipit, protein, axit
amin, các axit béo no, chưa no, các hợp chất chống oxi hóa có trong hạt
vừng[40], [41], [52], [60].
Ở Việt Nam, cũng có 1 số công trình nghiên cứu về hàm lượng các chất
(lipit, protein, axit amin...), chỉ số hóa sinh trong hạt vừng [10],[ 31]. Khả
năng chịu hạn của vừng cũng là một vấn đề được các nhà khoa học trên thế
giới quan tâm.
Vừng là cây trồng thích hợp với khí hậu ẩm và khô cằn nên cây luôn
phải đối mặt với sự thiếu nước. Trên thế giới đã có một số công trình nghiên
cứu về ảnh hưởng của hạn đến sự nảy mầm, hàm lượng protein, hàm lượng
lipit, các enzim oxi hóa trong hạt vừng; hàm lượng nước liên kết và hàm
lượng diệp lục trong lá vừng; quá trình sinh trưởng, phát triển và năng suất
của cây vừng [ 46], [ 51], [61].
Bằng nhiều cách gây hạn khác nhau, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng:
điệu kiện hạn ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh lý, hóa sinh trong giai đoạn nảy
mâm, sinh trưởng, phát triển của cây vừng và ảnh hưởng đến năng suất. Trong
điều kiên hạn cũng xuất hiện các protein mới, các gen liên quan đến tính chịu
hạn....
- Xem thêm -