Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo...

Tài liệu Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

.PDF
135
42
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Công trình được hoàn thành tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội BÙI BẢO TRÂM Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO Phản biện 1: .............................................................................................. .................................................................................................................... Phản biện 2: .............................................................................................. Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC ..................................................................................................................... Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi ........ giờ ........., ngày ....... tháng ..... năm ...... HÀ NỘI - 2008 Có thể tìm hiểu luận văn tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Trung tâm Thông tin - thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội 1.4.2 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan 1.4.3 Mục lục Danh mục các chữ viết tắt của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 1.1.1 1.1.2 29 Kết luận chƣơng 1. Chương 2: nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa 33 31 của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật tths việt nam. Lời mở đầu Chương 1: khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa 1.1 Giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành đến năm 2003. Giai đoạn từ khi có Bộ luật TTHS năm 2003 đến nay. Khái niệm quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS. 1 7 34 2.1 Bảo đảm quyền tự bào chữa. 34 2.1.1 Bảo đảm quyền tự bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố. 7 2.1.1.1 Bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ. 34 7 2.1.1.2 Bảo đảm quyền tự bào chữa của bị can. 37 2.1.2 Bảo đảm quyền tự bào chữa trong giai đoạn xét xử. 43 Khái niệm quyền bào chữa. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 10 2.2 Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa. 50 1.1.2.1 Khái niệm. 10 2.2.1 Địa vị pháp lý của người bào chữa trong pháp luật TTHS. 50 1.1.2.2 Chủ thể thực hiện quyền bào chữa. 11 2.2.1.1 Thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa. 52 1.1.2.3 1.1.3 Hình thức thực hiện quyền bào chữa. Cơ sở để quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS. 12 2.2.1.2 Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. 54 1.1.3.1 Cơ sở lý luận. 13 57 59 1.1.3.2 Cơ sở thực tiễn. 16 2.2.1.3 Việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa. 2.2.2 Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố. Bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn xét xử. 2.2.3 1.1.3.3 1.2 Cơ sở pháp lý. Vị trí, vai trò của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 18 2.2.4 1.3 1.4 1.4.1 Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quan hệ với việc bảo vệ quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành. 1 13 18 20 2.3 2.4 65 Nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 66 Bảo đảm quyền có người bào chữa trong những trường hợp pháp luật quy định. Nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền bào chữa. 69 23 Kết luận chƣơng 2. Chương 3: thực tiễn áp dụng và những giảI pháp nhằm hoàn thiện, 24 nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt nam. 2 73 1.4.2 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan 1.4.3 Mục lục Danh mục các chữ viết tắt của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 1.1.1 1.1.2 29 Kết luận chương 1. Chương 2: nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa 33 31 của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật tths việt nam. Lời mở đầu Chương 1: khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa 1.1 Giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành đến năm 2003. Giai đoạn từ khi có Bộ luật TTHS năm 2003 đến nay. Khái niệm quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS. 1 7 34 2.1 Bảo đảm quyền tự bào chữa. 34 2.1.1 Bảo đảm quyền tự bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố. 7 2.1.1.1 Bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ. 34 7 2.1.1.2 Bảo đảm quyền tự bào chữa của bị can. 37 2.1.2 Bảo đảm quyền tự bào chữa trong giai đoạn xét xử. 43 Khái niệm quyền bào chữa. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 10 2.2 Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa. 50 1.1.2.1 Khái niệm. 10 2.2.1 Địa vị pháp lý của người bào chữa trong pháp luật TTHS. 50 1.1.2.2 Chủ thể thực hiện quyền bào chữa. 11 2.2.1.1 Thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa. 52 1.1.2.3 1.1.3 Hình thức thực hiện quyền bào chữa. Cơ sở để quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS. 12 2.2.1.2 Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. 54 1.1.3.1 Cơ sở lý luận. 13 57 59 1.1.3.2 Cơ sở thực tiễn. 16 2.2.1.3 Việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa. 2.2.2 Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố. Bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn xét xử. 2.2.3 1.1.3.3 1.2 Cơ sở pháp lý. Vị trí, vai trò của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 18 2.2.4 1.3 1.4 1.4.1 Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quan hệ với việc bảo vệ quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành. 1 13 18 20 2.3 2.4 65 Nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 66 Bảo đảm quyền có người bào chữa trong những trường hợp pháp luật quy định. Nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền bào chữa. 69 23 Kết luận chương 2. Chương 3: thực tiễn áp dụng và những giảI pháp nhằm hoàn thiện, 24 nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt nam. 2 73 74 3.1 3.1.1 Thực tiễn áp dụng . Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 74 3.1.1.1 Đối với quyền tự bào chữa. 3.1.1.2 Đối với quyền nhờ người khác bào chữa và quyền có người bào chữa trong các trường hợp do pháp luật quy định của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 3.1.2 Những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 74 3.1.2.1 Về phía cơ quan tiến hành tố tụng. 79 3.1.2.2 Về phía người bào chữa. 87 3.1.2.3 Về phía người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình 3.2 sự Việt Nam về bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 89 3.2.1 Về pháp luật. 90 3.2.2 Nguyên nhân về nhận thức. 93 3.2.3 Nguyên nhân về tổ chức . 94 74 76 79 90 3.2.3.1 Đội ngũ những người THTT thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. 94 3.2.3.2 Đội ngũ luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp. 3.3 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 97 100 3.3.1 Về hoàn thiện pháp luật. 100 3.3.2 Về tổ chức. 106 3.3.3 Về nhận thức. 107 Kết luận chương 3. 108 Kết luận 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111 3 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Những thành tựu về mặt kinh tế xã hội kể từ khi chúng ta tiến hành đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định định hướng đúng đắn cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại mới. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho việc thực hiện công cuộc đổi mới trong các lĩnh vực. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, về mặt xã hội: tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm xảy ra nghiêm trọng, diễn biến ngày càng phức tạp, quá trình giải quyết vụ án hình sự còn gặp nhiều vướng mắc. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đưa ra mục tiêu: "Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao". Nghị quyết số 08/NQ-TW đã chỉ rõ: "Nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp", trong đó có nhiệm vụ cụ thể là: "nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư (LS), người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác". "Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để LS tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa". 1 Đảng và Nhà nước ta đang tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, xây dựng một hệ thống pháp luật bảo đảm cho việc phát triển các quyền tự do dân chủ của công dân. Quyền bào chữa là một quyền quan trọng của công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Quyền bào chữa đã được ghi nhận thành nguyên tắc hiến định trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta đồng thời đây cũng là nguyên tắc đặc thù của luật tố tụng hình sự (TTHS). Việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế đã góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; giúp cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS) và toà án giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và chính xác. Tuy vậy, thực tiễn TTHS cho thấy việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được thực hiện triệt để, các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT và người tham gia tố tụng còn xem nhẹ nguyên tắc này. Chất lượng công tác tư pháp nói chung và công tác xét xử nói riêng còn chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ, còn bộc lộ nhiều yếu kém, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân (theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, tuy số lượng án oan có giảm dần, nhưng vẫn còn: năm 2002 toàn bộ ngành Tòa án có 23 trường hợp bị kết tội oan, năm 2003 còn 7 trường hợp, năm 2004 còn 5 trường hợp), gây nhiều hậu quả đáng tiếc cho người bị kết án oan, người thân và xã hội. Tình trạng bắt, giam giữ, xét xử oan sai vẫn còn tồn tại trong thực tế tố tụng. Việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học các quy định của pháp luật TTHS hiện hành về quyền bào chữa, vấn đề áp dụng trong thực tiễn đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền này cũng như nâng cao hiệu quả của việc áp dụng nguyên tắc trong thực tiễn không những có ý 2 nghĩa quan trọng về mặt lý luận - thực tiễn pháp lý mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Là một trong những nguyên tắc quan trọng của pháp luật TTHS, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cơ sở lý luận, pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền con người, góp phần xây dựng một nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng được yêu cầu bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa được ghi nhận trong pháp luật hình sự ở nhiều nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp, Trung Quốc... Ở Việt Nam, nguyên tắc này được quy định rải rác trong các điều luật riêng: tại Hiến pháp năm 1992 (điều 132), Bộ luật TTHS năm 2003 (điều 11), Luật tổ chức toà án nhân dân (điều 13). Bảo đảm quyền bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình đấu tranh và chống tội phạm, thể hiện quan điểm nhân đạo, đường lối chính trị mang đậm nét nhân văn của Đảng và Nhà nước ta. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đăng trên một số tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành nghiên cứu về đề tài này như: - Hoàng Thị Sơn: Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong luật TTHS Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, H.2003. - Hoàng Thị Sơn: Thực trạng thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, số 4/2002. - Hoàng Thị Sơn: Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học số 5/2000. 3 - Trần Văn Bảy: Người bào chữa và vấn đề bảo đảm quyền của người bào chữa trong TTHS Việt Nam, Tạp chí KHPL số 1/2001. - Nguyễn Duy Hưng: Bị can và bảo đảm quyền của bị can trong Bộ luật TTHS 2003 - thực trạng và định hướng hoàn thiện. - Phạm Hồng Hải: Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người bào chữa trong Bộ luật TTHS 2003, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 5/2004. - Lê Hồng Sơn: Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa trong TTHS, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 7/2002... Nhưng những bài viết đó chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất định, chưa nghiên cứu được tất cả các chủ thể của quyền bào chữa theo quy định hiện hành. Liên quan đến vấn đề này vẫn còn khá nhiều ý kiến trái ngược nhau trong lý luận nhận thức, quá trình thực thi, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Bảo đảm quyền bào chữa là một trong những vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp, vẫn đang là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện hơn nữa trong khoa học Luật TTHS cũng như thực tiễn áp dụng ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, quá trình hình thành, nội dung của nguyên tắc, chỉ ra những kết quả và những bất cập còn tồn tại khi áp dụng nguyên tắc ở nước ta hiện nay. Qua đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc trong thực tiễn và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo phát huy tối đa tính dân chủ, chính xác, khách quan và toàn diện trong hoạt động TTHS. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là: 4 1. Nghiên cứu quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS như: khái niệm, cơ sở của nguyên tắc; ý nghĩa khoa học và thực tiễn của nguyên tắc. 2. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam 3. Tìm hiểu nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS Việt Nam 4. Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng, qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế. 5. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng thực hiện nguyên tắc, luận văn nêu ra những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam. 4. Phạm vi - nhiệm vụ nghiên cứu Với phạm vi nghiên cứu này, luận văn nghiên cứu về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo dưới góc độ lý luận, phân tích những quy định của pháp luật về nội dung của nguyên tắc và chỉ ra vướng mắc trong hoạt động thực tiễn của chế định này. Trên cơ sở đánh giá tổng quan thực trạng thực hiện nguyên tắc để đưa ra những quan điểm, kiến nghị góp phần thực hiện tốt các quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung Luận văn tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau: - Khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: khái niệm, ý nghĩa, cơ sở quy định, sự hình thành nguyên tắc. 5 - Nội dung cơ bản của nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: về quyền bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; chủ thể thực hiện, hình thức thực hiện, trách nhiệm của cơ quan THTT; thời điểm tham gia tố tụng .... - Thực tiễn áp dụng và những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả các chế định của pháp luật TTHS về quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách tư pháp. Phương pháp nghiên cứu: phương pháp so sánh, phân tích và phương pháp tổng hợp kết hợp với việc phân tích thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa thông qua các vụ án cụ thể, điều luật cụ thể để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng để nghiên cứu. Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp lịch sử; kết hợp với việc phân tích thực tiễn. 6. Bố cục của Luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau: Chương 1: Khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 6 Chương 2: Nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo Chương 3: Thực tiễn áp dụng và những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO 1.1. Khái niệm quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS. 1.1.1 Khái niệm quyền bào chữa Trong khoa học pháp luật TTHS, khái niệm quyền bào chữa được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Quan điểm thứ nhất: TTHS được coi là bắt đầu từ thời điểm vụ án hình sự được chuyển sang Toà án và quyền bào chữa chỉ thuộc về bị cáo (các nước theo hệ thống Commonlaw). Quan điểm thứ hai: quyền bào chữa thuộc về bị can, bị cáo [17]. Quan điểm thứ ba: E.ph. Cutsova-Nga cho rằng: “Trong TTHS, bị can, người bị tình nghi cũng như những công dân khác, trong đó có cả người bị hại đều cần có sự bảo vệ các lợi ích có thể xâm phạm” [26]. Như vậy, theo quan điểm này thì quyền bào chữa có cả trong trường hợp mà ở đó không có sự buộc tội. 7 Một số tác giả khác cũng cho rằng: “Không chỉ có bị cáo mà người bị hại cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và những người khác cũng vậy nếu quyền lợi của họ bị xâm phạm” [24]. Quan điểm thứ tư: “Trong TTHS, quyền bào chữa chỉ xuất hiện ở chỗ mà ở đó có sự buộc tội và quyền bào chữa thuộc về người nào khi người đó bị buộc tội” ... “Sự buộc tội đôi khi xuất hiện cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can trong trường hợp có người bị tạm giữ và kết thúc khi TTHS kết thúc” [30]. Quan điểm thứ năm: Thẩm phán Nguyễn Đức Mai xác định các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa gồm: “Người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo, người bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ. Thuộc nhóm này, còn có thể người đang thi hành án hoặc người đã thi hành án xong bản án trong trường hợp có kháng nghị giám đốc thẩm (tái thẩm) đối với họ” [34]. Quan điểm thứ sáu: là quan điểm trong Bộ luật TTHS Việt Nam năm 2003: quyền bào chữa thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11 Bộ luật TTHS năm 2003). Ngoài các quan điểm trên, trong Bộ luật TTHS của các nước trên thế giới cũng có những quan điểm khác nhau về chủ thể của quyền bào chữa. Bộ luật TTHS Liên bang Nga quy định: “Người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp người bị tình nghi thực hiện tội phạm bị giam giữ hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trước khi khởi tố bị can thì khi nhận được biên bản về việc bắt hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam” [44]. Theo giáo sư M.X.Xtrôgôvích thì : “Quyền bào chữa là tổng hòa các hành vi tố tụng hướng tới bãi bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị can” [36]. 8 Theo Bộ luật TTHS Nhật Bản thì quyền bào chữa chỉ thuộc về người bị tình nghi và bị cáo. Điều 30 Bộ luật này quy định: “Bị cáo hoặc người bi tình nghi có thể lựa chọn luật sư bất cứ lúc nào” [19]. Quyền bào chữa là một trong các quyền cơ bản của công dân. Điều 17 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm…. Nghiêm cấm mọi hình thức bức cung, dùng nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”. Có thể hiểu: “Bào chữa là hành vi của một người đưa ra các tình tiết và chứng cứ chứng minh cho sự không có lỗi hoặc làm giảm lỗi của mình”. Vì vậy, quyền bào chữa chỉ thuộc về người nào bị coi là có lỗi bao gồm cả lỗi kỷ luật, lỗi hành chính, lỗi dân sự, lỗi hình sự. Quyền bào chữa với ý nghĩa là khái niệm chung bao hàm cả quyền bào chữa của người bị coi là có lỗi hành chính, lỗi kỷ luật, quyền bào chữa của bị đơn dân sự (trong tố tụng dân sự) và quyền bào chữa của người bị coi là có lỗi hình sự (quyền bào chữa trong TTHS). Người nào bị coi là có lỗi hình sự, bị buộc tội thì có quyền bào chữa trong TTHS. “Như một chức năng tố tụng, bào chữa tồn tại ở tất cả các giai đoạn của TTHS, ở đâu có buộc tội thì ở đó có bào chữa” [30]. “Buộc tội trong TTHS là hành vi của các cơ quan THTT nhằm xác định trách nhiệm hình sự đối với người buộc tội trên cơ sở các chứng cứ về hình sự đó được xác định ở thời điểm ấy” [30]. Bị can bị buộc tội bằng quyết định khởi tố bị can, phải chịu những hậu quả pháp lý: bị điều tra hình sự, có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS… 9 Bị cáo bị buộc tội bằng bản cáo trạng của VKS, hậu quả pháp lý của việc buộc tội này là bị cáo có thể bị kết án, có thể phải chịu hình phạt… Người bị tạm giữ tuy chưa bị buộc tội bằng một văn bản có tính chất pháp lý nhưng đối với họ đã có quyết định tạm giữ và họ đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng là tạm giữ. “Cơ sở coi một người là người bị tình nghi phạm tội là các dữ kiện khách quan và không thể bắt giữ một người khi ĐTV và CQĐT “nghi” là họ phạm tội vì bản thân sự nghi ngờ mang tính chủ quan” [36]. Theo từ điển tiếng Việt: “Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh vực cho đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước tòa án hoặc cho một việc làm đang bị lên án” còn “tự bào chữa là tự mình thực hiện” [42]. Quyền bào chữa trong TTHS được hiểu như sau: “Quyền bào chữa trong TTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự”. Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong TTHS quyền bào chữa chỉ thuộc về những chủ thể: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ngoài những chủ thể trên, những người khác không chịu sự buộc tội thì không có quyền bào chữa. So với bộ luật TTHS năm 1988 thì quyền bào chữa được qui định trong bộ luật TTHS năm 2003 có sự sửa đổi quan trọng, đó là sự bổ sung vào nguyên tắc này là ngoài bị can, bị cáo thì người bị tạm giữ cũng có quyền không những tự bào chữa mà cả quyền nhờ người khác bào chữa. Quy định này thể hiện quan điểm bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân nói chung và trong TTHS nói riêng. 1.1.2. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo 1.1.2.1. Khái niệm 10 Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được hiểu như sau: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một quy định của luật TTHS trong đó xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa đồng thời quy định các cơ quan THTT có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của pháp luật”. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình họ có thể sử dụng những quyền năng khác được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Khái niệm đã làm rõ chủ thể thực hiện quyền bào chữa; hình thức thực hiện; quyền, nghĩa vụ của chủ thể cũng như cơ quan THTT trong việc bảo đảm quyền đó. 1.1.2.2. Chủ thể thực hiện quyền bào chữa Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã khẳng định rõ, chỉ có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mới được bảo đảm quyền bào chữa theo quy định của pháp luật. - Người bị tạm giữ: Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ (Khoản 1 Điều 48 Bộ luật TTHS năm 2003). Như vậy chỉ có những người bị bắt trong các trường hợp nêu tại Khoản 1 điều 48 và đã có quyết định tạm giữ nhưng chưa bị khởi tố về hình sự tức là chưa có quyết định khởi tố về hình sự thì được gọi là người bị tạm giữ. - Bị can: là người đã bị khởi tố về hình sự (Khoản 1 điều 49 Bộ luật TTHS năm 2003) tức là một người khi đã có quyết định khởi tố bị can thì được gọi là bị can. 11 - Bị cáo: là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử (Khoản 1 điều 50 Bộ luật TTHS năm 2003). Kể từ khi có quyết định của toà án đưa bị can ra xét xử thì người đó được gọi là bị cáo. Tại các điểm d khoản 2 điều 48, điểm e khoản 2 điều 49 và điểm e khoản 2 điều 50 đều có quy định cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. 1.1.2.3. Hình thức thực hiện quyền bào chữa Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện dưới hai hình thức là tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa. - Tự bào chữa là hình thức người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ tội hoặc bảo vệ những lợi ích hợp pháp của mình. - Nhờ người khác bào chữa là hình thức người bị tạm giữ, bị can, bị cáo uỷ thác việc bào chữa cho người bào chữa. Người bào chữa được sử dụng mọi biện pháp do luật định để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý. Bộ luật TTHS qui định rất cụ thể những người nào là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người nào không được bào chữa. Tại khoản 1 điều 56 Bộ luật TTHS qui định người bào chữa có thể là: - Luật sư (LS) - Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo - Bào chữa viên nhân dân. Đồng thời tại khoản 2 điều 56 quy định những người sau đây không được bào chữa: 12 - Người đã THTT trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang THTT trong vụ án đó. - Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch. Như vậy theo quy định tại khoản 1 điều 56 Bộ luật TTHS, người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bao gồm 3 đối tượng là: LS, người đại diện hợp pháp và bào chữa viên nhân dân. So với qui định tại khoản 1 điều 35 Bộ luật TTHS năm 1988 thì trong khoản 1 điều 56 Bộ luật TTHS năm 2003 được bổ sung thêm người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ cũng có thể là người bào chữa cho người bị tạm giữ. 1.1.3. Cơ sở để quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS. Cũng giống như những quy phạm pháp luật mang tính nền tảng, chỉ đạo cho việc xây dựng và ban hành những quy phạm pháp luật thực định khác. Khi ban hành quy phạm pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, các nhà làm luật phải căn cứ vào cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để xây dựng và ban hành quy phạm pháp luật đó được chính xác, có hiệu lực pháp lý cao. 1.1.3.1. Cơ sở lý luận Có thể khẳng định rằng những căn cứ đầu tiên có tính chất nền móng và cơ sở để quy định quyền bào chữa trở thành một nguyên tắc cơ bản, đặc thù trong pháp luật TTHS xuất phát từ quyền con người. Tìm hiểu những nội dung về quyền con người ta sẽ thấy rõ điều đó. Những ý tưởng về: "quyền con người" ra đời rất sớm cùng với sự phân chia giai cấp trong xã hội và hình thành Nhà nước. Khác với các Nhà nước 13 phong kiến và tư bản phương Tây, chế độ Nhà nước phong kiến Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nói chung vẫn mang tính hà khắc. Song, thời kỳ đó "phép vua" và "lệ làng" có tính dân tộc, nhân đạo, tiến bộ và được thể hiện rõ nét trong Quốc triều Hình luật năm 1843. Thời kỳ này con người cũng có được một số yếu tố về các quyền dù còn nhỏ nhặt và mang tính cộng đồng. Khi cách mạng tư sản nổ ra thắng lợi với những tiền đề tư tưởng và thành tựu của khoa học tự nhiên thì vấn đề quyền con người mới được đặt ra như một học thuyết, hay nói cách khác, quyền con người bắt đầu được chính thức công khai thừa nhận. Có thể nói rằng, sự kiện này được đánh dấu bằng Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ 1776 và sau đó là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp 1789. Tiếp theo đó, các quyền và tự do của con người được ghi nhận tại Hiến chương Liên hiệp quốc 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948. Cụ thể hoá quyền con người trong các văn bản trên, năm 1966, Liên hiệp quốc thông qua Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá (ngày 24/9/1982 Việt Nam gia nhập 2 Công ước này). Ở Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho thời kỳ phát triển mới về quyền con người trên đất nước ta. Quyền con người là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất, được hiểu là những đặc quyền mà con người sinh ra là tự nhiên có. Đó là những đặc quyền mang tính tự nhiên mà nổi bật là quyền được sống, được bảo vệ, được tự do phát triển. Như vậy, quyền con người là hệ thống các quyền của con người được xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Chính vì vậy, quyền con người mang hai đặc tính cơ bản là tính nhân đạo và tính pháp luật. 14 Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Pháp luật ghi nhận các quyền của con người được xã hội thừa nhận. Thông qua pháp luật, quyền con người được bảo vệ. Để bảo đảm quyền con người, pháp luật đưa ra những điều cấm và những hành vi bắt buộc phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm quyền con người. Quyền con người được pháp luật xác lập là thiêng liêng, không thể xâm hại một cách tuỳ tiện và được bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của xã hội, Nhà nước. Điều 50 Hiến pháp 1992 khẳng định: quyền con người được quy định trong Hiến pháp và luật - là những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, nó buộc mọi người phải tôn trọng, phục tùng. Nhà nước ban hành pháp luật là tạo cơ sở vững chắc cho mọi người tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện các giá trị xã hội được thừa nhận, bảo vệ, mà nổi bật trong các giá trị đó là quyền con người "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật" (Điều 12 Hiến pháp 1992). Pháp luật là công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để bảo đảm thực hiện quyền con người. Quyền con người, quyền công dân được chia thành các nhóm chính sau: - Các quyền tự do, dân chủ về chính trị: tham gia quản lý nhà nước, bầu cử, bình đẳng nam nữ.. - Các quyền về kinh tế – xã hội: quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền thừa kế... - Các quyền dân sự (quyền tự do cá nhân): quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền khiếu nại, tố cáo … [27]. Tuyên ngôn về nhân quyền ngày 10/12/1948 khẳng định: “Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp 15 trong một phiên toà xét xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ” Khoản 1 điều 11 [41]. Như vậy, trước khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn chưa bị coi là có tội, họ vẫn là những công dân, những con người, chỉ khác là họ đang chịu sự buộc tội và phải chịu những biện pháp tố tụng. Những biện pháp tố tụng được tiến hành đối với họ có thể hạn chế quyền tự do hay động chạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về danh dự, nhân phẩm … những nội dung cơ bản của quyền con người. Để đảm bảo các biện pháp đó được tiến hành một cách cần thiết và hợp pháp tránh được sự độc đoán một chiều từ phía các cơ quan THTT, pháp luật đã quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền bào chữa và cơ chế bảo đảm quyền bào chữa được bảo đảm thực hiện. Có thể thấy rằng quyền bào chữa là một nội dung cơ bản thể hiện quyền con người và cơ sở lý luận của việc ban hành quy phạm pháp luật về nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo xuất phát từ quan điểm xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân theo học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời dựa trên quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ta về xây dựng nhà nước Việt Nam trở thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước, tăng cường vai trò bảo vệ của Nhà nước đối với xã hội, đối với công dân. Trong đó có việc đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân theo quy định của pháp luật. 1.1.3.2 Cơ sở thực tiễn Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các hoạt động của cơ quan THTT ảnh hưởng tới các quyền của công dân, đặc biệt là các quyền cơ bản như: quyền tự do thân thể, quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng