Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Người nghèo đô thị, hiện trạng và giải pháp...

Tài liệu Người nghèo đô thị, hiện trạng và giải pháp

.DOC
8
148
59

Mô tả:

Người nghèo đô thị - Hiê ên trạng và giải pháp Cải thiện điều kiện sống của nhóm người nghèo đô thị là một trong những yếu tố để đánh giá sự pháp triển bền vững của đô thị. Trên thế giới có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về người nghèo ở đô thị. Chúng ta có thể nhìn họ dưới góc độ về kinh tế, xã hội học hay dưới con mắt của các nhà chính trị… Trong bài thuyết trình này chúng tôi không tập trung chỉ ra những quan điểm hay định nghĩa đó mà thông qua những phân tích dưới đây để giúp cho các bạn có thể hình dung rõ nét về người nghèo đô thị. Từ đó chúng ta sẽ tìm ra được những biện pháp, hoạch định những chính sách giúp đỡ họ. I. Chân dung và thực trạng người nghèo đô thị: 1. Chân dung: a. Khái niệm nghèo: - Nghèo tuyệt đối: Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển, Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Ông định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta." Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các trị ranh giới nghèo tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 đô la cho khu vực Mỹ La tinh và Carribean đến 4 đô la cho những nước Đông Âu cho đến 14,40 đô la cho những nước công nghiệp. (Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc 1997). Ở Việt Nam vẫn tính theo 1$/người/ngày. - Nghèo tương đối: Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng. - Ranh giới nghèo tương đối: Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau cho một xã hội. Khi những người giàu bỏ đi hay mất tiền của thì sẽ giảm trung bình của thu nhập đi và vì thế làm giảm thiểu nghèo tương đối trong một nước. Ngược lại nghèo tương đối sẽ tăng lên khi một người không nghèo có thể tăng được thu nhập ngay cả khi những người có thu nhập khác vẫn không có thay đổi. Người ta còn phê bình là ranh giới nghèo trộn lẫn vấn đề nghèo với vấn đề phân bố thu nhập. Vì một sự phân chia rõ ràng giữa nghèo và giàu trên thực tế không có nên khái niệm ranh giới nguy cơ nghèo cũng hay được dùng cho ranh giới nghèo tương đối. Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương án tính toán ranh giới nghèo tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối được tính toán một cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần phải có để có thể tham gia vào cuộc sống xã hội. Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể xác định được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. - Quy định hộ chuẩn nghèo ở Việt Nam, áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015:  Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.  Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.  Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.  Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ đồng đến 650.000 đồng/người/tháng. 400.000 500.000 401.000 501.000 b. Người nghèo đô thị: Họ là ai và từ đâu đến? - Người nghèo đô thị hầu hết là những người nhập cư từ nông thôn ra thành thị và thường sống lâu ở đó chủ yếu vì mục đích kinh tế. Họ tràn vào nội thành, không có hộ khẩu, không có nhà ổn định, lang thang kiếm sống hoặc lang thang trên các vỉa hè, hoặc tự tạo ra những “chợ cóc”, “chợ mới”, những “ổ liều” di động.  Như vậy ta dễ dàng nhận thấy quá trình đô thị hóa luôn đi kèm với nghèo đói ở một tầng lớp dân cư. Đô thị hóa làm lợi cho một số người nhưng cũng làm bần cùng hóa đối với một số người. Cũng trong lòng đôt thị, bên canh những khu thương mại, những khu nhà tráng lệ thì vẫn còn đó những khu ổ chuột, tồi tàn của người nghèo đô thị. 2. Thực trạng: a) Nghề nghiệp: - Để có cái nhìn tổng quát về người nghèo chúng tôi tập trung phân tích 3 yếu tố dễ dang nhận thấy khi quan sát về người nghèo đô thị: nghề nghiệp, nhà ở và - môi trường sống . Người nghèo với trình độ dân trí thấp, thường làm nghề đơn giản, không cần các kĩ năng đào tạo, do vậy mà thu nhập không cao. Có thể chia nghề nghiệp của người nghèo theo các nhóm gia đình thu nhập sau:  Nhóm gia đình hoàn toàn không có thu nhập: thường là người già tàn tật, không có nghề, sống dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài ( người dân, trợ cấp xã hội). Nhóm này thường rơi vào mức thu nhập thấp nhất (60.000đ/tháng).  Nhóm gia đình có việc làm không đều: thường làm các công việc tự do như lái xích lô, bốc vác... Nhóm này có thu nhập không ổn định, chỉ nuôi sống bản than một cách chật vật, theo số liệu khảo sát năm 1994 ở Hà Nội có tới 68,2% hộ gia đình nghèo có ít nhất 1 người thu nhập không ổn định.  Nhóm gia đình có ít nhất 1 người thu nhập ổn định: thường nhóm này vừa làm trong khu vực nhà nước vừa làm trong khu vực không chính quy hoặc làm một trong 2 khu vực trên. Vì không có trình độ chuyên môn nên họ chỉ làm những công việc lao động chân tay (osin, bảo vệ…), tuy thu nhập ổn định nhưng thấp. (Về một số nhân tố liên quan đến khả năng vượt nghèo của người nghèo Hà Nội, Đặng Thanh Trúc)  Một khi nghề nghiệp của người nghèo gắn liền với văn hóa thấp, thu nhập thấp và không ổn định, khó có thể tìm được cơ hội, khả năng đẩy lùi sự nghèo khổ. Thường họ không có ít khả năng để chuyển đổi nghề nghiệp. b) Nhà ở: Nhà ở gắn liền với đời sống con người và là mô ôt vấn đề xã hô ôi có tính thời sự. Nếu như đối với mô tô số người, nhà ở là điều kiê nô vâ ôt chất đương nhiên họ được hưởng thì với mô ôt số người khác, mô ôt mái nhà che đầu dường như vẫn là cái mà họ thâ ôm chí không dám mơ tới. Cũng như các thành phố lớn ở các nước đang phát triển, thiếu nhà ở ở đô thị Việt Nam dường như đã là mô tô ăn bê nô h mãn tính. Theo số liê ôu điều tra, trong cả 4 quâ nô nô ôi thành ở Hà Nội tháng 1/1994 có 28,6% gia đình nghèo đang ở trong ngôi nhà do cha mẹ để lại; 37,7% số gia đình nghèo đang thuê nhà của nhà nước; 17,2% số hô ô từ mua nhà nhưng thường là những căn nhà châ ôt chô ôi ,thiếu tiê ôn nghi; 4,5% số hô ô đi ở nhờ là những trường hợp đă ôc biê ôt như người già cô đơn không nơi nương tựa ,số người từ nơi khác đến ,vợ con theo chồng ra Hà Nô ôi ,số người không có hô ô khẩu… - Loại nhà: nhà của người nghèo thể hiê ôn mô ôt cách sinh đô nô g cuô ôc sống của họ. Theo số liê ôu khảo sát năm 1994, 20,3% gia đình nghèo sống trong những ngôi nhà tạm bợ. Nghĩa là họ cũng có mô ôt nơi để ăn ngủ, chui ra chui vào tránh mưa nắng. Trong số các hô ô nghèo được khảo sát có 6,2% gia đình sống trong những căn hô ô khép kín. Phần lớn họ sống trong mô ôt gian nhà (18,1%) hoă ôc thâ m ô chí chỉ trong mô ôt gian nhà ngăn ra cho nhiều gia đình (13,0%) hay chỗ ở cơi nới (2,7%). Ví dụ: Phường Bưởi có tỉ lê ô nhà tạm lớn nhất tới 38,7% với 75 nhà lá,còn lại phần lớn là nhà cấp 4. - Vị trí nhà: đa số hô ô nghèo sống trong ngõ (49,5%) hoă ôc trong xóm lao đô ông (37,4%). Ở các phố trung tâm buôn bán thì họ ở sâu trong ngõ hoă ôc trên gác 2,3. - Diê nô tích nhà ở: châ ôt chô ôi ,tù túng. Có tới 44,8% gia đình nghèo trung bình 4 người sống trong diê ôn tích nhà ở mô ôt gian nhà chỉ kê được mô ôt cái giường. Thâ ôm chí nhiều nhà không kê được mô ôt ái giường . Số gia đình không có giường là 15%. Diê ôn tích nhỏ,chung sống nhiều thế hê ô dẫn đến căng thẳng tâm lí ,dồn nén trong cac mối quan hê ô là không thể tránh khỏi . Đó là nguồn - gốc gây mâu thuẫn gia đình. Về khu phụ: Phần lớn nhà ở của các gia đình nghèo không có được một khu phụ cần thiết. Chỉ có 56,5% hộ gia đình có biếp riêng, gần 24% phải nấu ở - trong phòng và 13% nấu chung cới các gia đình khác trong bếp tập thể. Nhà vệ sinh: Có tới 90% số hộ gia đình dung chung nhà vệ sinh. Nhà tắm tự tạo che bằng chiếu ở ngoài saanm đầu hồi,… chiếm tỉ lệ là 44,3% trong đó khoảng 10% số hộ phải tắm chung với nhiều người khác.  Nhà ở của người nghèo đô thị không đủ an toàn để ở, ảnh hưởng tới sức khỏe của họ và làm mất đi tính thẩm mĩ của đô thị. c) Môi trường sống: Với yếu tố này, bài thuyết trình tập trung ở 2 khía cạnh: Môi trường sống tự nhiên và môi trường sống xã hội. -  Môi trường tự nhiên: Cơ sở hạ tầng: Do sự di dân ồ ạt vào đô thị đã khiến cơ sở hạ tầng ở đây bị quá tài về nhiều măt. Ở Hà Nội, theo số liệu thống kê , số hạn bụi cho phép nhiều - gấp 4 – 10 lần mức độ cho phép, tiếng ồn gấp 2 lần,… Nước: người nghèo bị ảnh hưởng nă nô g nề của những tác đô nô g xấu từ môi trường sống. Ngay trong lòng Hà Nô ôi đang được hiê ôn đại hóa vẫn còn tới 11,4% gia đình nghèo chưa được dùng nước máy mà phải dùng nước giếng. Nước giếng không được thanh lọc, sát trùng trước khi dùng chăc chắn không thể đảm bảo tiêu chuẩn vê ô sinh tối thiểu. Đó là nguyên nhân gây bê nô h cho con - người. Xử lí rác: vấn đề nan giải. Mô ôt mă ôt vì nghèo nên phần lớn họ chỉ có khả năng sống ở những khu vực tối tăm, ẩm thấp mà trước đây là bãi rác, đất hoang… Phần lớn họ chưa có ý thức giữ gìn vê ô sinh chung, không quan tâm nhiều tới môi trường xung quanh dẫn tới tình trạng đổ rac bừa bãi, xả rác tùy tiê nô là hiê ôn tượng phổ biến của nhà dân nghèo. Đồng thời không thể phủ nhâ nô chất thải công nghiê ôp ở cơ sở sản xuất,nhà máy…đang làm môi trường bị ô nhiễm, ảnh hưởng xấu đến người dân,đă ôc biê ôt là người nghèo.  Sức khỏe không được đảm bảo, đây cũng là lí do giải thích tại sao người nghèo thường mắc các bệnh “nan y”. -  Môi trường xã hội: Bất bình đẳng và phân tầng xã hội: Họ thường bị những người ở tầng lớp trên xã lánh, hắt hủi, ít hoặc không có cơ hội để “đổi đời”. Người nghèo chưa có tiếng nói và quyền năng trong hệ thống chính trị và cơ cấu trong bộ máy nhà nước, dẫn đến ít hoặc không có khả năng được nhận hàng hóa và dịch vụ; trong việc tổ chức, nêu yêu cầu và nhận được đáp ứng công bằng; trong hỗ trợ để triển khai những sáng kiến riêng. Thêm vào đó, họ không có phương cách để đảm bảo tính trách nhiệm từ các cơ quan trợ giúp, các tổ chức phi chính phủ, cơ quan công cộng và dịch vụ tư nhân. Họ cũng không có phương cách để được tham gia vào việc xác định và thực hiện những chương trình giảm nghèo thành thị. Người có thu nhập thấp có thể đặc biệt bị ảnh hưởng bởi giá cả các nhu cầu tăng lên như: thực phẩm, tiền thuê nhà, phương tiện vận chuyển đi lại, tiếp cận - nhà vệ sinh và các loại tiền trường cho con cái. Tệ nạn xã hội: thường những nơi người nghèo ở là những nơi “đẻ” ra các tệ nạn - xã hội, họ tạo thành những “chợ cóc”, “chợ mới”, những “ổ liều” di động… Học vấn và văn hóa: Mặc dù sống ở các đô thị lớn tuy nhiên số các gia đình nghèo ở đây vẫn có tỉ lệ cao về số người mù chữ. Ở Hà Nội, trong khảo sát 575 hộ nghèo, có tới 156 hộ mù chữ chiếm 27,1%. Trong đó chỉ có 1 hộ chiếm 0,2 % ( năm 1994) có học vấn đại học, tỉ lệ này tăng lên mỗi năm do họ hi vọng đó là thứ “vốn liếng dự trữ” để thoát nghèo. II. Nguyên nhân: Từ hiện trạng trên, chúng ta cần đặt ra một câu hỏi người nghèo là nạn nhân hay nguyên nhân của tình trạng nghèo? Có lẽ là cả 2. Vì vậy theo nhóm thì nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng trên: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. 1. - Nguyên nhân khách quan: Các chính sách giảm nghèo, chính sách vay vốn chưa tới được với người dân. Những cán bộ nhà nước ở các khu, cụm nghèo chưa “gần gũi” với người dân. Lối sống người đô thị thờ ơ, lãnh đạm trước những khó khăn của người nghèo. Những quan điểm sai hay còn hạn chế về người nghèo của người có thu nhập cao (thái độ xa lánh, ganh ghét, không để con mình chơi với con người - nghèo…), từ đó họ đã tự xây rào cản cho mình. Sự vô trách nhiêm của các cơ quan tổ chức. Cơ hội khó nắm bắt, may mắn, bệnh tật… … 2. - Nguyên nhân chủ quan: Bản than người nghèo cũng xa lánh với mọi người xung quanh (tính tự ti) Nhận thức, học vấn , văn hóa còn hạn chế. Lối suy nghĩ “ảo tưởng”, ỷ lại vào người khác… … Họ rất khó để có thể thoát nghèo. Cơ hội duy nhất để thoát nghèo là thông ð qua con đường học vấn tuy nhiên con đường này phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau: cơ hội học tập, khả năng vật chất của từng gia đình… III. Nguyện vọng, mông muốn của người nghèo đô thị: Mong muốn ở đây chỉ được xét tới thông qua 2 chỉ báo: chỉ tiêu cho các nhu cầu tối cần thiết để tồn tại và những nguyện vọng bức thiết của gia đình do chính các hộ đề xuất. Cái thứ nhất là hiện thực bắt buộc phải làm, cái thứ hai là những mong muốn bức xúc muốn được thực hiện với hi vọng cải thiện cuộc sống, -  Về các ưu tiên trong chỉ tiêu: Cải thiện bữa ăn, nâng cao sức khỏe (90,7%) Lo cho con họ (25,9%) Mua sắm đồ dùng sinh hoạt cần thiết (13,4%) Cải thiện, sửa chữa nhà cửa (12,3%) Đầu tư cho công ăn việc làm ổn định (11,7%) Khác (9,4%) -  Những nguyện vọng bức thiết của gia đình: Nhà ở: Gần 26% số hộ gia đình được hỏi có mong muốn về sức chữa nhà về sửa chữa nhà, xin phép được phân nhà mới vay vốn sửa nhà, hợp pháp hóa giấy tờ, đền bù khi di chuyể. - Con số mong muốn cao nhất trong các hộ được hỏi có liên quan tới vấn đề chính sách xã hội (56,5%), Những nhóm càng có mức sống thấp thì mong muốn - liên quan đến chính sách xã hội càng tăng. Cải thiện việc khám chữa bệnh (45,3%) IV. Một số giải pháp: - Các chính sách xã hội: xây dựng các hoạt động như “nhà tình thương”, “lớp học tình thương”… , một mặt hỗ trợ kinh tế nhưng cũng tạo ra những yếu tố để họ - tự cải thiện đời sống. Khả năng đất đai, nhà cửa: dung đất để sinh lời… Nâng cao nhận thức, học vấn cho người nghèo: xóa nạn mù chữ, tuyên truyền… Ưu tiên cho việc học hành của con cái họ: giảm hoặc miễm giảm học phí, trao - học bổng… Khuyến khích nghiên cứu khoa học về đề tài này. Phát huy tích cực cộng đồng dân cư đô thị. Kết luận: Người nghèo đô thị là một vấn đề nan giải, hóc búa của Việt Nam hiện nay. Trên đây là một số phân tích về người nghèo đô thị, qua đây giúp các bạn có một cái nhìn tổng quan nhất về họ từ đó sẽ tìm ra được những giải pháp hay để cải thiện những hiện trạng trên.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng