ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
------------------
TẠ VĂN ĐẠI
NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH TỔNG HỢP
ERLOTINIB HYDROCHLORIDE
Chuyên nghành : Hóa hữu Cơ
Mã số
: 60 44 01 14
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
Hà Nội, 2016
Luận văn đƣợc hoàn thành tại:
Phòng hóa sinh hữu cơ, 1Viện Hóa học Các Hợp Chất Thiên Nhiên- Viện Hàn Lâm
Khoa học Và Công Nghệ Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Trần Thị Thu Thủy-Viện Hóa học Các Hợp Chất Thiên Nhiên- Viện Hàn Lâm
Khoa học Và Công Nghệ Việt Nam
GS. TS. Nguyễn Đình Thành– Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
– Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ngƣời phản biện khoa học:
Phản biện 1: PGS. TS. Nguyễn Quyết Chiến – Viện Hóa học, Viện Hàn Lâm
Khoa học Và Công Nghệ Việt Nam
Phản biện 2: PGS. TS. Phan Minh Giang – Khoa Hóa học, Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Luận văn được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn thạc sĩ tại:
Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
Vào hồi 9 giờ 00 ngày 26 tháng 1 năm 2016
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
-
Trung tâm thong tin thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội
MỞ ĐẦU
Ung thư phổi hiện là thể ung thư phổ biến nhất, tỷ lệ tử vong rất cao, thường
được phát hiện muộn, kết quả điều trị còn thấp, chủ yếu là xoa dịu và kéo dài thời
gian sống cho bệnh nhân. Năm 2008, trên thế giới có thêm khoảng 1,61 triệu ca
mới và 1,38 triệu người chết do ung thư phổi, cao hơn tổng số người chết do các
loại ung thư khác. Ở Việt Nam, trung bình có khoảng hơn 68.000 bệnh nhân ung
thư phổi mỗi năm với tỷ lệ tử vong là 85%. Tại các nước phát triển, từ lâu ung thư
phổi đã vượt qua bệnh tim mạch và đặc biệt liên tục tăng theo cấp độ lũy tiến trong
suốt vài thập kỷ qua. Các phương pháp điều trị phổ biến như phẫu thuật (chỉ áp
dụng khi khối u còn khu trú), hóa trị, xạ trị với rất nhiều khả năng hủy hoại hoặc
làm tổn thương các mô lành tính lân cận, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất
lượng sống của bệnh nhân. Vài năm gần đây, nhờ việc ứng dụng các thành tựu
trong nghiên cứu sinh học phân tử, liệu pháp điều trị trúng đích (targeted therapy)
là một bước tiến mới của điều trị nội khoa đối với ung thư với hiệu quả cao và ít tác
dụng phụ.
Erlotinib là một trong số ít các thuốc thuộc liệu pháp trúng đích được sử dụng
đơn lẻ hoặc kết hợp với hóa trị liệu cho điều trị ung thư phổi, ung thư tụy, đặc biệt
khi sử dụng ở giai đoạn cuối, thuốc giúp kéo dài thời gian sống, giảm bớt các tác
dụng phụ nghiêm trọng, giảm đau và giảm ho cho người bệnh. Tại các bệnh viện
điều trị ung thư trong nước như bệnh viện K, bệnh viện Ung bướu TP HCM, và
bệnh viện Chợ Rẫy, loại thuốc này đã được chỉ định điều trị kết hợp với hóa trị và
xạ trị và cho kết quả đáp ứng rất tốt với độ sử dụng an toàn, phù hợp với thể trạng
người châu Á. Tuy nhiên hiện nay, erlotinib được nhập khẩu chủ yếu từ Mỹ, giá
thành rất cao (41 triệu đồng/1 lọ: 30 viên), không phù hợp với mức thu nhập của đa
số bệnh nhân Việt Nam.
Xuất phát từ tình hình trên, với mong muốn góp phần vào việc nghiên cứu tổng
hợp hoạt chất erlotinib nhằm chủ động nguồn nguyên liệu bào chế thuốc và giảm
giá thành thuốc điều trị ung thư tại Việt Nam, chúng tôi đã đề xuất việc thực hiện
đề tài luận án thạc sỹ “Nghiên cứu quy trình tổng hợp erlotinib hydrochloride”.
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Bênh ung thƣ trên thế giới và Việt Nam
Ung thư là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Bệnh ung thư ảnh
hưởng đến mọi người bất kể quốc gia, lứa tuổi, chủng tộc hay tôn giáo. Theo thống
kê của cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế (International Agency for Research on
Cancer, IARC) thì năm 2012, trên toàn thế giới ước tính có khoảng 14,1 triệu ca
bệnh ung thư mới, số người chết do ung thư là 8,2 triệu và có 32,6 triệu người
được chuẩn đoán mắc bệnh trong vòng 5 năm trở lại. Trong số đó, các nước kém
phát triển chiếm 57% (8 triệu) ca bệnh mới và 65% (5,3 triệu) tổng số các ca tử
vong. Số người mắc bệnh là nam giới cao hơn khoảng 25% so với nữ giới. Các loại
ung thư gây tử vong nhiều nhất ở cả hai giới là phổi, gan, dạ dày, đại tràng, vú và
tiền liệt tuyến.
Ở Việt Nam, báo cáo ung thư toàn cầu của Viện nghiên cứu ung thư quốc tế
(IARC) cho biết năm 2012 Việt Nam có hơn 125.000 ca ung thư mới và gần 95.000
người thiệt mạng. Ung thư hiện nay đang là nguyên nhân gân tử vong thứ hai tại
Việt Nam và thực sự là mối quan tâm của quốc gia. Trong đó, chủ yếu là ung thư
phổi, dạ dày, đại tràng, ung thư gan, tiền liệt tuyến, ung thư vú và cổ tử cung. Mỗi
năm, số bệnh nhân mới mắc ung thư là 150.000 người và theo dự báo, con số này
có xu hướng tăng trong những năm tiếp theo. Chi phí cho việc điều trị ung thư là
rất lớn, ước tính năm 2010 của IARC là 11,6 tỷ USD/năm.
1.2. Điều trị ung thƣ
Ung thư có thể được điều trị bằng phẫu thuật, hóa trị liệu, xạ trị liệu, miễn dịch
trị liệu hay các phương pháp khác. Việc chọn lựa phương pháp điều trị phụ thuộc
vào vị trí và độ (grade) của khối u, giai đoạn của bệnh, cũng như tổng thể trạng của
bệnh nhân.
Phẫu thuật
Nếu khối u còn khu trú, phẫu thuật là phương pháp thường được lựa chọn. Mục
đích của phẫu thuật là có thể cắt bỏ chỉ khối u đơn thuần hoặc toàn bộ cơ quan. Khi
một tế bào ung thư phát triển thành một khối u khá lớn, việc chỉ cắt bỏ khối u đơn
thuần dẫn đến tăng nguy cơ tái phát. Bên cạnh việc cắt bỏ khối u nguyên phát, phẫu
thuật cần thiết cho phân loại giai đoạn, ví dụ như xác định độ lan tràn của bệnh,
xem thử đã có di căn đến các hạch bạch huyết vùng hay chưa. Phân loại giai đoạn
cho biết tiên lượng và nhu cầu điều trị bổ sung. Đôi khi, phẫu thuật cần thiết cho
kiểm soát triệu chứng, như chèn ép tủy sống hay tắc ruột (điều trị tạm thời).
Hóa trị liệu
Hóa trị liệu là điều trị ung thư bằng một hoặc nhiều thuốc chống ung thư gây độc
tế bào (tác nhân hóa trị liệu) và được chia làm hai nhóm lớn là tác nhân alkyl hóa
và antimetabolite. Chúng can thiệp vào phân bào theo các cách khác nhau, ví dụ
như sự sao chép DNA hay quá trình phân chia các nhiễm sắc thể mới được tạo
thành. Hầu hết các dạng hóa trị đều nhắm vào các tế bào phân chia nhanh chóng –
đặc điểm nổi bật của tế bào ung thư. Vì vậy, hóa trị có khả năng làm tổn thương các
mô lành, nó cũng tiêu diệt các tế bào khỏe của cơ thể trong tủy xương và tế bào tiêu
hóa trong ruột. Nó cũng làm hư hại các cơ quan khác như lá lách, thận, tim, phổi...
đặc biệt là các mô có tần suất thay thế nhanh chóng (ví dụ như niêm mạc ruột).
Miễn dịch trị liệu (Tăng cƣờng hệ miễn dịch)
Miễn dịch trị liệu ung thư là sử dụng cơ chế miễn nhiễm chống lại khối u. Chúng
được dùng trong
các
dạng ung thư
khác
nhau, như
ung thư
vú
(trastuzumab/Herceptin®) và leukemia (gemtuzumab ozogamicin/Mylotarg®). Các
chất đó là kháng thể đơn dòng nhằm chống lại các protein đặc trưng cho các tế bào
ung thư, hay các cytokine điều hoà đáp ứng của hệ miễn dịch. Miễn dịch trị liệu là
kích hoạt và làm tăng số lượng của các tế bào miễn dịch của cơ thể gọi là
macrophage và tế bào "sát thủ tự nhiên" NK Cell.
Xạ trị liệu
Xạ trị liệu (điều trị bằng tia X hay chiếu xạ) là sử dụng một dạng năng lượng
(gọi là phóng xạ ion hoá) để diệt tế bào ung thư và làm teo nhỏ khối u. Xạ trị làm
tổn thương hay hủy hoại các tế bào được điều trị (mô đích) bằng cách làm tổn
thương vật chất di truyền (ADN) của chúng, khiến chúng không thể phát triển và
phân chia. Mặc dù xạ trị làm tổn thương cả tế bào ung thư và tế bào lành, hầu hết
các tế bào lành có thể hồi phục và hoạt động bình thường.
Ức chế nội tiết tố
Sự phát triển của hầu hết các mô, bao gồm ung thư, có thể được gia tăng hay bị
ức chế bằng cách cung cấp hay ngăn chặn các loại hormone nào đó. Điều này cho
phép một phương pháp bổ sung trong điều trị nhiều loại ung thư. Các ví dụ thông
thường của khối u nhạy cảm với hormone là một số loại ung thư vú, tiền liệt tuyến,
và tuyến giáp. Việc loại bỏ hay ức chế estrogen (đối với ung thư vú), testosterone
(ung thư tiền liệt tuyến), hay TSH (ung thư tuyến giáp) là phương pháp điều trị bổ
sung quan trọng.
Kiểm soát triệu chứng
Mặc dù kiểm soát triệu chứng không là cách điều trị trực tiếp lên ung thư, nó vẫn
được xem là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng sống của bệnh nhân, và giữ
vai trò quan trọng trong quyết định áp dụng các điều trị khác trên bệnh nhân.Thuốc
giảm đau (thường là các opioid như morphine) và thuốc chống nôn rất thường được
sử dụng ở bệnh nhân có các triệu chứng liên hệ đến ung thư.
Các thử nghiệm điều trị
Thử nghiệm điều trị, cũng còn gọi là nghiên cứu điều trị, dùng để kiểm tra các
phương pháp điều trị mới trên bệnh nhân ung thư. Mục đích của nghiên cứu này là
đi tìm ra các phương pháp tốt hơn để điều trị ung thư và giúp đỡ bệnh nhân ung
thư. Các thử nghiệm lâm sàng khảo sát nhiều loại điều trị như thuốc mới, phương
pháp phẫu thuật hay xạ trị mới, phối hợp trị liệu mới, hoặc phương pháp điều trị
mới như gene liệu pháp.
Y học thay thế và bổ sung
Y học thay thế và bổ sung (complementary and alternative medicine - CAM) là
nhóm phong phú các hệ thống săn sóc sức khỏe và y tế, thực hành và sản phẩm vốn
không được xem là có hiệu quả bởi các chuẩn mực của y học quy ước. Một số
phương pháp điều trị không quy ước được dùng "bổ sung" cho điều trị quy ước,
nhằm tạo sự thoải mái và nâng cao tinh thần cho bệnh nhân. Nhiều biện pháp điều
trị thay thế đã được sử dụng trong ung thư ở thế kỷ qua. Các điều trị thay thế bao
gồm chế độ ăn đặc biệt hoặc bổ sung thành phần thức ăn. Các phương pháp bổ sung
khác bao gồm y học cổ truyền như Đông y (thuốc nam/thuốc bắc). Tuy nhiên
phương pháp này đa số vẫn chưa được chứng minh hiệu quả một cách khoa học
1.3. Tổng quan về Erlotinib hydrochloride
Erlotinib hydrochloride có công thức phân tử là C22H23N3O4.HCl (TLPT: 429,90
g/mol), tên gọi theo IUPAC là N-(3-ethynylphenyl)-6,7-bis(2-methoxyethoxy)
quinazolin-4-amine (1), có cấu trúc hóa học như sau:
Được phát hiện vào đầu những năm 1990, erlotinib là một dẫn xuất quinazoline
có tác dụng ức chế hoạt động của thụ thể của yếu tố tăng trưởng biểu mô EGFR
(epidermal growth factor receptor, IC50 = 2nM).
Erlotinib hydrochloride (Tarcava) được FDA phê chuẩn dùng cho điều trị ung
thư phổi dạng không tế bào nhỏ (non-small cell lung cancer), ung thư tụy
(pancereatic cancer) và một số dạng ung thư khác. Erlotinib hydrochloride được
bào chế và đăng ký bản quyền đến năm 2020 bởi các hãng Gennetech, OSI
Pharmaceuticals (tại Mỹ) và Roche, được đăng kí thương mại dưới tên Tarceva.
Tarceva giúp hạn chế sự phát triển và di căn của khối u, kéo dài thời gian sống của
bệnh nhân với ít tác dụng phụ.
Ung thư phổi và ung thư tụy là hai loại ung thư thường được phát hiện ra muộn
(80%) khi bệnh đã ở giai đoạn tiến xa (IIIB, IV), tỷ lệ chữa khỏi rất thấp. Đối với
ung thư phổi, erlotinib được chỉ định để điều trị dạng ung thư phổi dạng tế bào
không nhỏ (non-small cell cancer) – dạng ung thư chiếm hơn 75% trên tổng số các
ca ung thư phổi. Ưu điểm của loại thuốc này là sử dụng bằng đường uống (viên 100
mg hoặc 150 mg), gây ra tác dụng phụ không đáng kể như tiêu chảy, phát ban có
thể kiểm soát được. Ngoài ra thuốc còn giúp giảm đau, giảm ho, giúp bệnh nhân
thở được sâu. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy, việc điều trị với erlotinib ở giai
đoạn cuối có thể kéo dài thời gian sống thêm từ 1-2 năm so với 4-5 tháng của pháp
đồ hóa trị đơn thuần. Đánh giá độ an toàn của erlotinib hydrochloride (Tarceva)
dựa vào số liệu của bệnh viện Chợ Rẫy và bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí
Minh từ hơn 800 bệnh nhân được điều trị với ít nhất một liều 150mg Tarceva đơn
trị liệu, và trên hơn 300 bệnh nhân dùng Tarceva 100mg hoặc 150mg phối hợp với
gemcitabinecho thấy tỉ lệ sống thêm của bệnh nhân đạt tỉ lệ cao 95%. Liều dùng
hàng ngày được khuyến cáo của erlotinib là 150mg dùng ít nhất một giờ trước
hoặc hai giờ sau khi ăn. Các nghiên cứ cho thấy erlotinib được chuyển hóa tại gan
bởi các men cytochrome P450 tại gan ở người, chủ yếu bởi CYP3A4 và chuyển hóa
ít hơn bởi CYP1A2. Chuyển hóa ngoài gan bởi CYP3A4 ở ruột, CYP1A1 ở phổi,
và CYP1B1 ở mô khối u có khả năng đóng góp vào thanh thải chuyển hóa erlotinib.
Loại thuốc này hiện nay còn được nghiên cứu lâm sàng trong điều trị ung thư
đại trực tràng, ung thư tiền liệt tuyến, vú và buồng trứng
1.4. Các phương pháp tổng hợp erlotinib hydrochloride
Phƣơng pháp 1: Đây là phương pháp đầu tiên tổng hợp erlotinib được công bố bởi
Schnur và cộng sự vào những năm 1996-1998 và sau đó được cải tiến bởi Zhang đi
từ nguyên liệu đầu là etyl este của axit 3,4-dihydroxy benzoic (Sơ đồ 1.1).
- Xem thêm -