Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu phát triển hoạt động tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ ở việt n...

Tài liệu Nghiên cứu phát triển hoạt động tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ ở việt nam

.PDF
56
46
78

Mô tả:

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ W”X BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN, MÔI GIỚI CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM Chủ nhiệm Đề tài: TS. HOÀNG XUÂN LONG Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN 7472 31/7/2009 Hà Nội, 2009 LỜI NÓI ĐẦU Thời gian qua, hoạt động tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ ở nước ta đã được nhiều công trình nghiên cứu đề cập. Đồng thời, cũng có những khía cạnh khác nhau được cách tiếp cận về chủ đề nghiên cứu này. Có những công trình đề cập tới tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ như một khía cạnh có liên quan khi bàn về các chủ đề khác (về thị trường KH&CN, chuyển giao công nghệ, gắn kết nghiên cứu với sản xuất, ...) (điển hình như Đề tài nghiên cứu cấp Bộ năm 2005: Thị trường khoa học và công nghệ ở Việt nam - Thực trạng và giải pháp" - Hà Nội 2006). Có những nghiên cứu đi vào phân tích một loại hình tổ chức dịch vụ môi giới chuyển giao công nghệ nhất định (điển hình là "Vai trò tư vấn pháp lý trong hoạt động chuyển giao công nghệ", Báo cáo tham luận tại Hội thảo "Đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam, do Bộ KH&CN tổ chức tại Hà Nội, 28-12-2004). Có những nghiên cứu tìm hiểu hoạt động dịch vụ môi giới chuyển giao công nghệ trong một lĩnh vực hoạt động kinh tế (điển hình là "Chuyển giao tiến bộ KH&CN trong sản xuất nông nghiệp: Hiện trạng và giải pháp", Tạp chí Hoạt động Khoa học - số 11/2004). Có những nghiên cứu phân tích tình hình đang diễn ra và chưa có điều kiện đi sâu tìm kiếm các giải pháp khắc phục những tồn tại hiện nay (điển hình các bài tham luận tại Hội thảo: "Chuyển giao cộng nghệ phát triển nông thôn miền núi phía Bắc Việt Nam" do Chương trình Nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan tổ chức tại Tp. Thái Nguyên, ngày29 - 30/8/2003). Những công trình nghiên cứu đã có là những đóng góp quan trọng vào nghiên cứu tổ chức tư vấn, môi giới, xúc tiến mua bán, chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, nhìn chung, đây vẫn là vấn đề chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện. Đặc biệt hiện vẫn đang có nhiều bất cập từ thực tiễn đặt ra chưa được giải quyết thoả đáng. Như vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu về tổ chức tư vấn, môi giới, xúc tiến mua bán, chuyển giao công nghệ ở nước ta. Nghiên cứu phát triển các tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ ở Việt Nam là công trình nghiên cứu thuộc khuôn khổ Đề tài cấp cơ sở năm 2008 do Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN chỉ trì. Mục tiêu của Đề tài là xây dựng các căn cứ lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc xây dựng chính sách thúc đẩy phát triển các tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ ở nước ta. Ngoài các phương pháp khảo cứu các tài liệu từ nhiều nguồn, phân tích lôgic, nghiên cứu so sánh,... Đề tài đã chú ý đến những cách tiếp cận sau: dựa trên quan điểm thực tế để nắm bắt các vấn đề đặt ra và vận dụng lý luận, kinh nghiệm của thế giới và của đổi mới trong nước thời gian qua để giải quyết các vấn đề đặt ra; tiếp cận hệ thống và liên ngành để phân tích các vấn đề liên quan tới các tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ ở nước ta. 1 Phù hợp với mục tiêu và phương pháp nghiên cứu trên, Đề tài được kết cấu làm các phần chính: Phần 1:Lý luận và kinh nghiệm thế giới về hoạt động tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ. Phần 2: Phát triển hoạt động tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ ở nước ta. Mặc dù có nhiều cố gắng, chắc chắn công trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm tác giả xin hoan nghênh và trân trọng mọi ý kiến góp ý, bổ sung đối với sản phẩm của mình. Hà Nội, Tháng 12 năm 2008 Nhóm thực hiện đề tài 2 PHẦN I: LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VỀ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN, MÔI GIỚI CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ I.1 THỐNG NHẤT KHÁI NIỆM VÀ GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU Theo Luật Chuyển giao công nghệ được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 10, Khoá XI (Từ ngày 17 tháng 10 đến ngày 29 tháng 11 năm 2006), tư vấn chuyển giao công nghệ là: "hoạt động hỗ trợ các bên trong việc lựa chọn công nghệ, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ" (Điều 3), môi giới chuyển giao công nghệ là "hoạt động hỗ trợ bên có công nghệ, bên cần công nghệ trong việc tìm kiếm đối tác ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ ) (Điều 3). Tư vấn chuyển giao công nghệ và môi giới chuyển giao công nghệ (gọi tắt là tư vấn, môi giới CGCN) là một phần của dịch vụ chuyển giao công nghệ. Với ý nghĩa được quy định như trong Điều 3 và Điều 28 của Luật Chuyển giao công nghệ, dịch vụ chuyển giao công nghệ được bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, ngoài tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ được còn có đánh giá công nghệ, định giá công nghệ, giám định công nghệ, xúc tiến chuyển giao công nghệ được. Có những cách khác nhau để thu nhận công nghệ: thông qua giao dịch thương mại (bao gồm: mua trực tiếp, đầu tư vốn, liên doanh, cấp lixăng, đặc quyền kinh tiêu, mua thiết bị, hợp đồng phụ, hợp tác nghiên cứu và triển khai hoặc thoả thuận hợp tác sản xuất); thông qua các biện pháp phi chính thức (bao gồm: nhập sản phẩm, trao đổi cán bộ KH&CN, hội nghị khoa học, triển lãm KH&CN, đào tạo, tham quan thương mại, tư liệu được công bố (tạp chí, sách báo, ...), các chương trình hỗ trợ của chính phủ, gián điệp công nghiệp)1. Tư vấn, môi giới CGCN sẽ hỗ trợ vào loại thứ nhất. Điều này cũng phù hợp với khái niệm chuyển giao công nghệ được được nêu trong Luật Chuyển giao công nghệ được là: "chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ được sang bên nhận công nghệ" (Điều 3). Trên thực tế, có các hoạt động tư vấn, môi giới CGCN phù hợp với các đối tượng khác nhau là doanh nghiệp, tổ chức NC&PT và nhà nước2. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của Đề tài này, chúng ta sẽ tạm thời tập trung vào đối tượng doanh nghiệp và chưa nói nhiều đến hoạt động tư vấn, môi giới CGCN phục với tổ chức NC&PT và nhà nước. 1 Trung tâm Thông tin Tư liệu KH&CN quốc gia: Tổng luận Khoa học - Kỹ thuật - Kinh tế, số 3/1999, trang 30. 2 Như sẽ có dịp trình bày sau này, không chỉ doanh nghiệp và tổ chức NC&PT, mà cả nhà nước cũng có nhu cầu đựơc tư vấn công nghệ nói chung và tư vấn CGCN nói riêng. 3 I.2 Ý NGHĨA VÀ VỊ TRÍ CỦA HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN, MÔI GIỚI CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Việc tham gia vào chuyển giao công nghệ thường gặp nhiều khó khăn. Đó chính là lý do cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài của các tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ. Trước hết và là điều dễ nhận thấy nhất là khó khăn của doanh nghiệp trước sự phức tạp trong chuyển giao công nghệ. Xoay quanh vấn đề công nghệ, các học giả đã từng đưa ra nhiều tranh luận. Chẳng hạn như các bàn thảo dai dẳng về những điều cơ bản như định nghĩa về công nghệ và chuyển giao công nghê (hàm chứa đằng sau là cách tiếp cận khác nhau), đánh giá đóng góp của công nghệ vào tăng trưởng kinh tế ... Các doanh nghiệp có thể không quan tâm tới những gì mang tính học thuật hoặc tác động ở tầm vĩ mô, nhưng còn có cả những phức tạp khác liên quan trực tiếp đến hoạt động chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp. Có nhiều phương thức chuyển giao công nghệ khác nhau mà doanh nghiệp phải lựa chọn: mua thiết bị, hợp đồng chìa khoá trao tay, liên doanh, mua lixăng, liên kết NC&TK, ... Các phương thức này có liên quan tới lợi ích của các bên và đặc điểm công nghệ. Thông thường, người bán thích được tham gia cổ phần để có thể giám sát được nhiều hơn đối với người mua công nghệ, nhất là đối với những công nghệ quan trọng hoặc đang ở giai đoạn đầu của vòng đời sản phẩm. Trái lại, nếu công nghệ thuộc loại không quan trọng hoặc ở vào giai đoạn cuối của vòng thì người bán thích phương thức bán lixăng. Về phía người mua, quyết định lựa chọn phương thức chuyển giao nào phụ thuộc chủ yếu bởi năng lực công nghệ và các nguồn lực hiện có. Nếu công nghệ định mua đòi hỏi nguồn lực quá cao, người mua thích phương thức liên doanh; nếu người mua có năng lực công nghệ cao, họ không thích việc tham gia cổ phần, trì khi có những lý do như để tiếp cận thị trường. Lựa chọn đúng phương thức chuyển giao công nghệ có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp bởi, như Ramanathan đã chỉ ra3, nó giúp cho chuyển giao công nghệ có hiệu quả, năng lực công nghệ phát triển và lớn mạnh lên một cách vững chắc. Có những giai đoạn khác nhau của quá trình chuyển giao công nghệ mà doanh nghiệp phải trải qua. Trong giai đoạn nhận biết cơ hội doanh nghiệp cần nhận biết được các nhu cầu và lập luận chứng cho việc giao dịch. Giai đoạn lựa chọn đối tác bao gồm việc tìm đối tác, đánh giá và chọn đối tác. Giai đoạn tiếp theo là hoàn thiện phương thức giao dịch với nội dung nhận dạng phương thức chuyển giao công nghệ khả thi và chọn 3 Ramanathan. K,. "Application of Industria Technological Indicators", in Science and Technology Management Informtion Systems, N. Sharif and K. Ramanathan, eds., UNDP - UNESCO - Indonesian Institute of Sciences, Jarkarta, 1994. 4 phương thức giao dịch. Tiếp đến là giai đoạn đàm phán; doanh nghiệp tiến hành đàm phán các điều khoản của hợp đồng, đồng thời hoàn tất các khía cạnh về pháp lý, nguồn lực và hậu cần. Một trong các hoạt động quan trọng trong chuyển giao công nghệ là đánh giá công nghệ ở mức doanh nghiệp nhằm lưa chọn một trong số nhiều công nghệ khác nhau để thoả mãn tối ưu những thông số do doanh nghiệp xác định trước. Đánh giá này thường diễn ra với 4 bước: đánh giá sơ bộ, đánh giá khả năng chuyển giao, đánh giá thị trường, đánh giá thương mại. ở đây có nhiều yếu tố phải xem xét đến. Chẳng hạn, trong đánh giá thị trường - tức là nghiên cứu sản phẩm được tạo ra từ công nghệ đáp ứng thị trường tiềm năng như thế nào, những yếu tố có liên quan là: thị trường (nội địa, khu vực, toàn cầu; hiện nay, mới, có tính chiến lược) mà công nghệ hoặc sản phẩm tạo ra có thể đáp ứng; đánh giá thị phần (giá trị và khối lượng) của sản phẩm tạo ra do công nghệ trong vòng đời công nghệ; chi phí lưu thông và tiếp thị; độ nhậy của công nghệ/sản phẩm đối với biến động/thay đổi của thị trường/công nghệ; các chiến lược cạnh tranh; các đối tác tiềm năng/ có tính chiến lược để đảm bảo thành công trên thị trường; ... Trước những phức tạp trên, cùng với các nỗ lực xử lý của doanh nghiệp, sự trợ giúp từ bên ngoài của tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ là rất cần thiết và hữu ích. Thứ hai, chuyển giao công nghệ không phải chỉ có nhiều thông tin phải xử lý và thể hiện sự phức tạp mà còn liên quan tới một số vấn đề khá xa lạ đối với doanh nghiệp, loại hình tổ chức vốn quen với hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ thông thường. Đó là cảnh báo công nghệ , đánh giá công nghệ, môi trường pháp lý liên quan tới chuyển giao công nghệ, chính sách phát triển công nghệ và chuyển giao công nghệ của nước xuất và nhập công nghệ, ... Chuyển giao công nghệ đòi hỏi phải có hiểu biết sâu sắc, hệ thống về công nghệ và môi trường pháp lý để có những quyết sách chính xác, kịp thời. Lấy ví dụ, thông thường, cơ quan có thẩm quyền của mỗi quốc gia (hệ thống hành chính hoặc hệ thống toà án) đều được phép tự do hành động với một phạm vi rất rộng trong việc xem xét tính hợp pháp của các hợp đồng chuyển giao công nghệ. Nếu hợp đồng có các điều khoản thương mại không lành mạnh thì sẽ bị coi là vô hiệu. Hậu quả tất yếu là không thể tiến hành việc thanh toán ngoại hối, không có sự bồi thường về mặt pháp lý - một rủi ro mà bất kỳ nhà doanh nghiệp nào cũng phải biết để phòng xa khi tham gia các hợp đồng chuyển giao công nghệ với các đối tác nước ngoài. Không thể phủ nhận rằng hiện nay đã có những doanh nghiệp chú trọng phát triển hoạt động NC&PT, tăng cường thu lượm thông tin công nghệ. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy những nỗ lực đồng thời hướng vào các lĩnh vực khác nhau đang đặt các doanh 5 nghiệp trước mâu thuẫn. Nổi bật là mâu thuẫn giữa chú trọng kế hoạch hoá quá trình sản xuất ngắn hạn, bám sát vào thực tại và đi vào giải quyết những sự cố kỹ thuật cụ thể với phải tiếp cận được với kiến thức khoa học của những tổ chức KH&CN hàng đầu, phải có khả năng tiến hành những nghiên cứu giầu trí tưởng tượng (thoát ly khỏi thực tế hiện tại) và phải tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự đổi mới, sáng tạo... Như vậy, thay vì phải tự mình đơn độc, sự hỗ trợ của các tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ sẽ giúp nâng cao tính chuyên nghiệp hơn và vị thế của doanh nghiệp trong đàm phán mua bán công nghệ. Thứ ba, cũng như trao đổi hàng hoá nói chung, chuyển giao công nghệ được diễn ra trên cơ sở đồng thuận lợi ích giữa các bên tham gia. Đồng thời lại có đặc thù ở đây là tồn tại sự khác biệt nhất định khiến việc thống nhất lợi ích trở nên khó khăn: - Trong chuyển giao công nghệ có nhiều yếu tố cần tính toán lợi ích và chỉ có ít yếu tố liên quan đến chi phí thuần tuý về tri thức công nghệ, còn hầu hết các yếu tố khác là về các dịch vụ có liên quan như cung cấp các chi tiết, phụ kiện, thiết bị, đặc quyền kinh doanh, tên nhãn hàng, các dịch vụ chuyên môn, ... Trong chuyển giao công nghệ, các bên thường có động cơ và chiến lược riêng của mình. Do công nghệ là vũ khí cạnh tranh tiềm tàng quan trọng nên nhiều khi nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm liên quan tới công nghệ chuyển giao cũng là nội dung được chú ý trong đàm phán. - Khoảng cách sẽ càng rõ nét khi chuyển chuyển giao công nghệ diễn ra giữa giới khoa học và giới kinh doanh, bởi các nhà khoa học thường đánh giá quá cao sản phẩm nghiên cứu và học còn có xu hướng muốn phổ biến kết quả khoa học do mình tạo ra (liệu có cái này không). Hiện tại đang có nhiều phương pháp định giá công nghệ khác nhau: phương pháp tiếp cận từ góc độ kinh tế của bên cung, phương pháp tiếp cận từ góc độ của bên cầu, phương pháp tiếp thị (tạo nhu cầu thị trường), phương pháp định giá thay thế, phương pháp định giá giá trị bán lại trong tương lai, ... ẩn chứa đằng sau các phương pháp định giá này chính là sự giằng co giữa các lợi ích khác nhau. Những khó khăn về thống nhất lợi ích giữa các bên mua bán công nghệ có thể khắc phục phần nào với sự hỗ trợ của tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ. Đóng vai trò trung gian, các tổ chức tư vấn, môi giới công nghệ có những ưu thế để đưa ra các ý kiến công bằng, tỉnh táo của người thứ ba. 6 Thứ tư, khác với mua bán hàng hoá thông thường, chuyển giao công nghệ đòi hỏi những quan hệ sâu sắc, lâu dài giữa các bên chuyển giao và tiếp nhận. Độ tin cậy của hàng hoá CN không cao do người ta không thể sờ mó và không dễ nhận biết trực tiếp các thuộc tính KH&CN. Trong khi người bán biết rõ hàng hoá của mình, thì người mua thường có rất ít thông tin về chất lượng thực của hàng hoá được mang trao đổi. Giá trị sử dụng của công nghệ chỉ thực sự bộc lộ trong quá trình sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ. Trước một đối tượng khá bí ẩn, quan hệ tin tưởng lẫn nhau có ý nghĩa quan trọng giúp chuyển giao diễn ra trôi chảy. Chuyển giao công nghệ bao hàm cả việc chuyển giao, hấp thụ kiến thức mới của phía tiếp nhận. Sau hành vi mua bán còn có cả những hoạt động thiếp theo như đào tạo, sửa chữa,... thể hiện mối quan hệ gắn bó lâu dài của những người tham gia. Trường hợp người tiếp nhận tiếp tục cải tiến, phát triển công nghệ được chuyển giao và cần sự hợp tác từ phía chuyển giao, quan hệ giữa các bên càng phải bền chặt. Chuyển giao công nghệ chứa đựng nhiều rủi ro. Người bán khó biết được người mua có giữ cam kết trong hợp đồng sau khi đã làm chủ được tri thức hay không. Người có hàng hoá KH&CN dễ bị tổn thương về mặt sở hữu và lợi ích. Tri thức KH&CN có những điểm khác với hàng hoá truyền thống. Việc một người sử dụng một khối lượng tri thức nhất định không ngăn ngừa được người khác sử dụng cũng những khối lượng tri thức đó. Đồng thời, khi tri thức đã bộc lộ ra ngoài xã hội, thì người tạo ra nó rất khó ngăn không cho người khác dùng. Tính chất "không loại trừ" và "không thể bị loại trừ" - theo cách gọi của các nhà kinh tế, thường làm tách rời giữa quyền sở hữu pháp lý và quyền sở hữu thực tế. Chính vì vậy, trong chuyển giao công nghệ người ta nhấn mạnh thuật ngữ ''Đối tác" với ý nghĩa là mua bán công nghệ cần quan hệ mặt thiết hơn nhiều so với "mua đứt bán đoạn", một sự hợp tác trên cơ sở bền vững. Việc hình thành quan hệ hợp tác bền vững rất cần trợ giúp từ tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ giống như những "bà mối". Bà mối là người có điều kiện đi sâu tìm hiểu các bên, là người làm chứng và bảo lãnh uy tín của các bên tham gia chuyển giao công nghệ. Trong khi những gì liên quan tới chuyển giao công nghệ là khá phức tạp thì khả năng bên trong của những chủ thể tham gia mua bán công nghệ lại thường rất hạn chế, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra các doanh nghiệp, nhất là DNVVN, thường chỉ biết đến những nhu cầu công nghệ liên quan tới những cải tiến dần dần về chất lượng sản phẩm và năng suất hoặc nâng cấp thiết bị, và không nắm được các nhu cầu công nghệ liên quan tới đổi mới mang tính đột phá có tính 7 chiến lược. Các doanh nghiệp cũng thường có nhiều hạn chế trong nhìn nhận đánh giá về các quan hệ đối tác công nghệ. Một trong những kiến nghị của Trung tâm chuyển giao công nghệ Châu Á - Thái Bình Dương (APCTT) đưa ra tại khoá họp bàn về "Vấn đề hợp tác giữa các doanh nghiệp và cộng đồng NC&PT trong việc nghiên cứu, thương mại hoá/ứng dụng các kết quả công nghệ" tổ chức tại Niu Đeli từ ngày 7 đến 10 tháng 11 năm 1994 là: các DNVVN không tiếp cận được thông tin công nghệ cần thiết và không có được những năng lực công nghệ cần thiết, do đó cần phải có những hỗ trợ liên quan tới chuyển gia công nghệ.4 Thậm chí, dù biết rõ là hạn chế, các doanh nghiệp vẫn không dễ tự mình khắc phục. Kinh nghiệm của các công ty như Martin Marietta của Mỹ cho thấy, để đào tạo một tiến sỹ khoa học vừa mới bảo vệ xong luận án thành một nhà quản lý công nghệ giỏi cần phải mất 15 năm. Người ta thấy rằng các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển không dễ có được khả năng đào tạo như vậy và do đó phải trông cậy nhiều vào hệ thống tư vấn bên ngoài.5 Cuối cùng, ý nghĩa của hoạt động tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ được nhấn mạnh hơn nữa trong bối cảnh hiện nay, khi mà đang có những thay đổi lớn trong quản lý công nghệ trong hoàn cảnh kinh doanh mới: với việc giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước trong các quản lý xã hội nói chung, quyền quyểt định về công nghệ đã chuyển cơ bản từ Chính phủ sang cho bản thân doanh nghiệp; trong bối cảnh tự do hoá, toàn cầu hoá ngày càng tưng, phạm vi lựa chọn công nghệ sẽ rộng hơn, đồng thời giá cả biến động hơn và liên quan tới nhiều hệ thống luật pháp hơn. Qua đây có thể thấy, việc không đề cập tới tư vấn, môi giới CGCN trong nhiều tài liệu chuyên trình bày về chuyển giao công nghệ như:"Quản trị công nghệ", Nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn (Trần Thanh Lâm); Cẩm nang chuyển giao công nghệ (Trung tâm Chuyển giao công nghệ Châu Á - Thái Bình Dương ); ... không hắn là sự phản ánh thực tế mà chính là khiếm khuyết chủ quan của các tác giả. Điều này cần khắc phục ở các tài liệu khác ... Hoạt động tư vấn, môi giới CGCN có ý nghĩa và vai trò to lớn đối với chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên cũng cần thấy rõ giới hạn vai trò này. Ở các nước đang phát triển, các doanh nghiệp thường không có khả năng mua các công nghệ cần thiết là do các lý do như: vị thế thương lượng kém (trong lượng thấp); năng lực KH&CN ( vốn, hạ tầng 4 Trung tâm Thông tin Tư liệu KH&CN quốc gia: Tổng luận Khoa học - Kỹ thuật - Kinh tế, số 1/1999, trang 45. Trung tâm Thông tin Tư liệu KH&CN quốc gia: Tổng luận Khoa học - Kỹ thuật - Kinh tế, số 1/1999, trang 37 5 8 và nhân lực KH&CN) kém; kỹ năng thương thuyết kém6. Tư vấn chuyển giao công nghệ chỉ có thể hỗ trợ vào nâng cao khả năng thương thuyết và hầu như không có tác dụng đối với các cản trở khác. Xét về những mặt có thể tác động, dù tích cực đến đâu, tư vấn, môi giới CGCN không thể thay thế được khách hàng, mà trái lại phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng chịu tác động. Cụ thể là phụ thuộc vào ý đồ và mục tiêu của từng doanh nghiệp khác nhau, các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì có nhu cầu công nghệ khác nhau. Chẳng hạn: + DNVVN sẽ chủ yếu cần các loại công nghệ: sử dụng nhiều nhân lực; nhu cầu đàu tư ít (trên 1 tấn sản phẩm đầu ra); dễ hiểu và vận hành đối với nhân công thao tác không có kỹ năng cao; có khả năng kiểm tra chất lượng bằng kiểm nghiệm thủ công; phục vụ cho thị trường địa phương. + Doanh nghiệp lớn thông thường cần các loại công nghệ: sử dụng tương đối ít công nhân; có năng suất cao; tự động hoá cao; khả năng kiểm tra chất lượng bằng công cụ hiện đại; có thể phục vụ cho thị trường quốc gia và xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp các chuyên gia tư vấn, môi giới CGCN còn chịu sự chỉ đạo của phía doanh nghiêp như khi chuyên gia tư vấn tham gia là thành viên của Đội ngũ lập kế hoạch và Đội ngũ đàm phán thì phải theo người đứng đầu của nhóm vốn là cán bộ của doanh nghiệp. Khi tiến hành tiếp nhận chuyển giao công nghệ doanh nghiệp phải hình thành Đội ngũ lập kế hoạch và Đội ngũ đàm phán. Đội ngũ lập kế hoạch lập nên kế hoach cho những cuộc đàm phán và đội ngũ này bao gồm ít nhất một chủ dự án, một chuyên gia về kỹ thuật và một chuyên gia về pháp luật. Đội ngũ đàm phán bao gồm các chuyên gia kỹ thuật, tài chính, sản xuất, tiếp thị, pháp luật. Kể cả Đội ngũ lập kế hoạch và Đội ngũ đàm phán, nếu doanh nghiệp (nhất là DNVVN) thiếu các chuyên gia thì cần sự tham gia của tư vấn từ bên ngoài. Trong những trường hợp doanh nghiệp sử dụng đồng thời nhiều loại tư vấn khác nhau nhằm vào những mặt khác nhau trong một quá trình chuyển giao công nghệ (vó dụ tư vấn về pháp lý, tư vấn về kỹ thuật, tư vấn về thương mại, ...), nhiệm vụ kết nối những tư vấn đó phải là do phí doanh nghiệp đảm nhận. Có thể hình dung về chuỗi xoán kép, một cấu tạo ra sự sống - hai dải DNA quấn vào nhau nhưng không dính liền nhau. Sự liên minh giữa tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ và các khách hàng cũng giống với mô hình gắn kết này, trong đó mỗi bên phải có sự độc lập và phát huy được vai trò của mình. Cần có sự kết hợp giữa tổ chức tư vấn và tổ chức được tư vấn. Trường hợp cực đoan là doanh nghiệp trông cậy hoàn toàn vào tổ chức tư vấn bên ngoài sẽ không tránh khỏi những khó khăn cho hoạt động tư vấn và 6 Trung tâm Thông tin Tư liệu KH&CN quốc gia: Tổng luận Khoa học - Kỹ thuật - Kinh tế, số 3/1999, trang 34 9 thường là hiệu quả tư vấn không cao do như thiếu những thông tin đầu vào cần thiết từ phái doanh nghiệp (ý đồ chiến lược trong đổi mới công nghệ, ...), thiếu sự sẵn sàng các hoạt động thực thi ý kiến tư vấn, kiểm tra lại ý kiến tư vấn, hợp đồng tư vấn sẽ chỉ mang tính hình thức, ... Nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp trong mối quan hệ với tư vấn, môi giới CGCN cũng là phù hợp với những điều kiện và quan niệm mới. Đó là: - Trong hoàn cảnh kinh doanh mới, doanh nghiệp, doanh nghiệp phải lựa chọn các công nghệ nhằm tạo được sự khác biệt để cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, các kênh thương mại, cơ cấu giá. Điều đó không thể chỉ dựa vào chuyển giao công nghệ mà cần kết hợp chuyển giao công nghệ với NC&PT của bản thân doanh nghiệp. - Quan niệm về năng lực công nghệ cũng có sự thay đổi. Từ chỗ năng lực công nghệ chỉ có liên quan tới năng lực của các doanh nghiệp trong quản lý việc chuyển giao công nghệ quốc tế (các nước phát triến sang các nước đang phát triển) đã chuyển sang (từ cuối những năm 1970) chú ý xây dựng nền tảng công nghệ bao gồm các kỹ năng, kiến thức, phương tiện và tổ chức nhằm làm chủ công nghệ được chuyển giao . Khái niệm năng lực công nghệ ở các nước đang phát triển đã được hiểu một cách rông hơn và có quan hệ tới năng lực của doanh nghiệp trong việc mua, hiểu, sử dụng, thích nghi/cải tiến và sáng tạo. Như vậy, có thể phân ra 3 loại quan hệ giữa doanh nghiệp và tư vấn, môi giới CGCN: * Loại thứ nhất: doanh nghiệp tiếp nhận thông tin từ tư vấn, môi giới và thịch nghi theo các thông tin từ bên ngoài. * Loại thứ hai: bản thân doanh nghiệp là một tiểu hệ thống hoạt động tương tác với tổ chức tư vấn, môi giới CGCN. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và tổ chức tư vấn, môi giới CGCNdiễn ra không chỉ theo một chiều nhận tin mà còn có sự hồi tin của doanh nghiệp thông qua xử lý, chế biến thông tin đầu vào của "tiểu hệ thống". * Loại thứ ba: doanh nghiệp được bao bọc một môi trường nhiều loại thông tin và nhiều nguồn thông tin khác nhau: phương tiện thông tin đại chúng, triển lãm, hội thảo, thông tin từ doanh nghiệp khác, ...; và tổ chức tư vấn, môi giới CGCN chỉ là một trong số đó. Ở đây , ngoài những quan hệ của loại hình thứ hai, doanh nghiệp còn phải có sự lựa chọn, phối hợp giữa thông tin của tổ chức tư vấn, môi giới CGCN với các loại thông tin và nguồn thông tin khác. Từ loại hình thứ nhất đến loại hình thứ hai và tiếp đến loại hình thứ ba, vai trò của doanh nghiệp dần được nâng lên và mối quan hệ giữa tư vấn, chuyển giao CGCN với doanh nghiệp càng gần với thực tế hơn. Đối tượng nghiên cứu của Đề tài chính là loại hình thứ ba nêu trên. 10 I.3 NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN, MÔI GIỚI CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Có nhiều khía cạnh liên quan tới nội dung của hoạt động tư vấn, môi giới CGCN. Theo quy trình chuyển giao công nghệ, tư vấn CGCN nhằm vào các khâu như: lập phương án sản phẩm - thị trường; lập kế hoạch kinh doanh; tìm kiếm đối tác, nguồn công nghệ; đánh giá, lựa chọn công nghệ; đàm phán hợp đồng chuyển giao công nghệ; thực hiện đầu tư, thực hiện chuyển giao công nghệ, Theo kỹ năng chuyển giao công nghệ, tư vấn CGCN nhằm vào đánh giá công nghệ, định giá công nghệ, đàm phán công nghệ, ... Theo năng lực công nghệ, tư vấn CGCN nhằm vào các mặt như: năng lực giao dịch (năng lực tìm kiếm, đánh giá, đàm phán, mua bán, chuyển giao, thiết kế nhà xưởng, lắp đặt các phương tiện sản xuất), năng lực vận hành (năng lực thao tác, bảo dưỡng, đào tạo, quản lý, kiểm tra chất lượng, ...), năng lực thích nghi (tiếp thu kiến thức, hấp thụ công nghệ, thích nghi và cải tiến sản phẩm), năng lực đổi mới (năng lực R&D, đổi mới sản phẩm).7 Theo loại tư vấn, tư vấn CGCN bao gồm tư vấn đầu tư, tư vấn kỹ thuật, tư vấn kinh doanh và tư vấn pháp lý8. Theo đối tượng phục vụ, tư vấn, môi giới CGCN có các khách hàng khác nhau như các loại doanh nghiệp, các loại tổ chức KH&CN, ... Nội dung của tư vấn, môi giới CGCN cũng rất cụ thể tuỳ theo các hoạt động chuyển giao công nghệ. Lấy tư vấn pháp lý làm ví dụ. Tư vấn pháp lý thường gắn liền với từng khâu trong chuyển giao công nghệ:9 Khâu xuất hiện ý tưởng mua/bán công nghệ. Ngay từ khi xuất hiện các ý tưởng ban đầu, thông thường các doanh nghiệp sẽ xuất hiện nhu cầu cần đến một "bức tranh 7 Có nhiều cách phân loại năng lực công nghệ của doanh nghiệp (Firm - level Technological Capability FTC) khác nhau như phân loại của Fransman, của Lall, ... ở đây là dùng cách phân loại của Viện Nghiên cứu phát triển Thái Lan - Xem "Trần Thanh Lâm "Quản trị công nghệ", Nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn, trang 36-43. 8 Tư vấn đầu tư, tư vấn kỹ thuật và tư vấn kinh doanh có đặc điểm chung là nhằm hỗ trợ các bên nâng cao hiệu quả của hoạt động chuyển giao công nghệ, đó có thể là xây dựng chiến lược, tư vấn thị trường, khảo sát và đánh giá công nghệ, giới thiệu nguồn cung cấp vật tư, ... Nhờ hoạt động này mà lợi ích mang lại từ hoạt động chuyển giao công nghệ đựoc tối đa hoá trong chừng mực có thể. Cụ thể, nhờ thông tin về thị trường hay giá cả của tư vấn cung cấp mà bên mua tìm được công nghệ phù hợp, giá cả hợp lý hoặc bên bán tìm được đối tác thực sự cần công nghệ và sẵn sàng trả giá phù hợp. Trái lại, hoạt động tư vấn pháp lý sẽ không mang thêm lợi nhuận cho các bên nhưng nó sẽ giúp khách hàng bảo vệ quyền lvà lợi ích của mình trong quá trình chuyển giao công nghệ. Cụ thể, hoạt động tư vấn pháp lý sẽ giúp khẳng định quyền sở hữu, quyền sử dụng công nghệ, soạn thảo các giấy tờ nhằm ràng buộc về mặt pháp lý, yêu cầu chấm dứt hoặc bồi thường thịêt hại khi có hành vi vi phạm xẩy ra ... 9 Theo Phạm Thị Thu Hà "Vai trò của tư vấn phát lý trong hoạt động chuyển giao công nghệ" - Bộ KH&CN, Hội thảo "Đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam", Hà Nội, 28/12/2004. 11 tổng quát về thị trường chuyển giao công nghệ" nói chung. "Bức tranh tổng thể" này là nền tảng cơ bản để doanh nghiệp ra quyết định mua/bán, mua gì/bán gì, mua như thế nào/bán như thế nào, ... sau này. Trong giai đoạn đầu vai trò của tư vấn đầu tư và kinh doanh sẽ khá nổi bật, đồng thời, "Bức tranh tổng thể" sẽ trở nên đầy đủ và hấp dẫn hơn nếu nó chứa đựng cả thông tin pháp lý mà doanh nghiệp cần biết như khung pháp lý trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ và tình trạng pháp lý của công nghệ tiềm năng. Trên cơ sở này, nhu cầu của doanh nghiệp đối với nhà tư vấn pháp lý sẽ là: tư vấn chung về các quy định pháp luật, các yêu cầu và rủi ro pháp lý có thể xẩy ra trong hoạt động chuyển giao công nghệ; tra cứu thông tin công nghệ, đặc biệt là tra cứu thông tin sáng chế (đối với các công nghệ đã được đăng ký như sáng chế) - nhà tư vấn pháp lý sẽ giúp doanh nghiệp kiểm tra xem trong lĩnh vực liên quan thì có bao nhiêu công nghệ đã được đăng ký bảo hộ (như sáng chế), đăng ký được tiến hành dưới tên của ai, ... Khâu tìm kiếm đối tác. Sau khi doanh nghiệp đã đi đến quyết định mua/bán công nghệ tư vấn pháp lý có thể giúp doanh nghiệp ở những nội dung như: tra cứu thông tin công nghệ để cung cấp cho doanh nghiệp các thông tin chính xác (đặc biệt khi công nghệ đã được đăng ký sáng chế) về tình trạng pháp lý của công nghệ và phạm vi pháp lý bảo hộ cho công nghệ đó (nếu công nghệ được bảo hộ như sáng chế); thông tin pháp lý về đối tác (loại hình doanh nghiệp, chủ sở hữu, ...). Khâu đàm phán hợp đồng. Ở bước này, nhu cầu của doanh nghiệp đối với tư vấn pháp lý là: trợ giúp trong việc soạn thảo Hợp đồng chuyển giao công nghệ và các thoả thuận liên quan; khuyến cáo các quy đinh bắt buộc của pháp luật mà các bên phải tuân thủ trong giao kết chuyển giao công nghệ, hoặc lưu ý về các quy định mà pháp luật cho phép các bên tuỳ nghi ấn định; tìm kiếm và đề xuất các giải pháp hợp lý và hợp pháp để giải quyết các bế tắc pháp lý có thể phát sinh nếu các bên có yêu cầu nằm ngoài phạm vi pháp luật cho phép. Khâu ký kết và phê duỵêt/đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ. Sự xuất hiện của nhà tư vấn pháp lý trong giai đoạn ký kết và phê duyệt/đăng lý hợp đồng chuyển giao công nghệ sẽ đảm bảo cho các thoả thuận chuyển giao công nghệ đáp ứng đầy đủ các yêu cầu pháp luật về mặt hình thức. Nhà tư vấn pháp lý có thể kiêm tra và khuyến nghị về hình thức hợp đồng (ví dụ đảm bảo người ký có thẩm quyền ký Hợp đồng chuyển giao công nghệ), có thể đại diện, thay mặt doanh nghiệp trước các cơ quan chức năng qua đó tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp và hoàn thành thủ tục một cách hiệu quả hơn. Khâu thực hiện hợp đồng và thanh lý hợp đồng. Trong khâu này, nhà tư vấn pháp lý sẽ song hành cùng các bên, giám sát quá trình thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ và hỗ trợ doanh nghiệp ở các nội dung như: giải quyết các vướng mắc phát sinh; đề xuất, soạn thảo các Phụ lục hợp đồng để sửa đổi hoặc bổ sung thoả thuận chuyển giao công nghệ trước đó cho phù hợp với tình hình thực tế khi thực hiện chuyển giao công nghệ. 12 Khâu thanh lý hợp đồng. Khi thanh lý hợp đồng, các bên sẽ phải thực hiện các thủ tục pháp lý cuối cùng để tổng kết toàn bộ quá trình hợp đồng, xác định thiệt hai (nếu có). Ngay cả khi kết thúc chuyển giao thì một số nội dung hợp đồng vẫn giữ nguyên hiệu lực (ví dụ như những điều khoản về bảo hành công nghệ) đòi hỏi các bên phải duy trì một số nghĩa vụ pháp lý. Nhà tư vấn pháp lý sẽ là người hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các công việc này. Tư vấn CGCN có thể mở ra rất rộng. Một số quan niệm cho rằng tư vấn CGCN phục vụ suốt cả quá trình chuyển giao công nghệ, bao gồm cả vận hành công nghệ, nuôi dưỡng công nghệ, cải tiến và đổi mới công nghệ (Xem Bảng ....). Bảng 1 : Vai trò của tư vấn trong quá trình chuyển giao công nghệ Quy trình CGCN Vai trò của tư vấn (các dịch vụ có thể cung cấp) 1. Phương án sản phẩm thị trường - Nghiên cứu cơ hội đầu tư, tìm kiếm thông tin thị trường, điều tra khảo sát, phân tích cạnh tranh, môi trường đầu tư. Nắm bắt và đưa ra các ý tưởng mới cho doanh nghiệp 2. Kế hoạch kinh doanh - Chiến lược công ty, phân tích thị trường, định hướng công nghệ, các kế hoạch nhân sự, đầu tư, huy động vốn, phân tích tài chính dự án đầu tư. 3. Tìm kiếm đối tác, nguồn công nghệ - Tìm kiếm, phân tích thông tin công nghệ, thông tin về các nhà cung cấp 4. Đánh giá, lựa chọn công nghệ - Đánh giá các đề xuất kỹ thuật và tài chính do các nhà cung cấp gửi đến, lựa chọn phương án đáp ứng mục tiêu về công nghệ và các điều kiện tài chính, thương mại 5. Đàm phàn hợp đồng CGCN, mua sắm thiết bị (toàn bộ) - Xác định phương án đàm phán, hỗ trợ hoặc trực tiếp tham gia đàm phán soạn thảo/phản biện dự án đầu tư hợp đồng chuyển giao công nghệ/mua sắp thiết bị. 6. Thực hiện đầu tư, thực hiện CGCN - Tư vấn đấu thầu, thiết kế quy hoạch chi tiết, thiết kế kỹ thuật - thi công, tuyển dụng và đào tạo nhân viên giám định công nghệ, quản lý dự án nghiệm thu - bàn giao 7. Vận hành công nghệ - Thiết kế sản phẩm, phát triển hệ thống phân phối, kiểm soát hàng tồn kho, kiểm soát chất lượng, cải tiến tổ chức sản xuất, lập kế hoạch sản xuát, quản lý tài chính 8. Nuôi dưỡng công nghệ - Phát triển nguồn nhân lực, thu hút vốn nhằm phát triển kinh doanh, nắm bắt sự thay đổi của môi trường bền ngoài và tư vấn thực hiện những điều chỉnh thích hợp 9. Cải tiến, đổi mới công nghệ - Phân tích xu hướng thị trường, diễn biến cạnh tranh, cung cấp thông tin công nghệ mới, phân tích đầu tư cải tiến và đổi mới công nghệ Nguồn: CONCETTI "Dự thảo Chiến lược phát triển tư vấn Việt Nam, Hà Nội, 5/1998 13 Tuy nhiên, cũng cần phân biệt mức độ chính/chủ yếu và phụ/thứ yếu trong các nội dung của hoạt động tư vấn CGCN trong hỗ trợ mua bán công nghệ của doanh nghiệp. Trong số các năng lực công nghệ (năng lực giao dịch, năng lực vận hành, năng lực thích nghi, năng lực đổi mới) hoạt động tư vấn chuyển giao công nghệ chủ yếu thường gắn với năng lực giao dịch của doanh nghiệp10. Trong các khâu đánh giá công ghệ các nhau (Đánh giá sơ bộ: so sánh các công nghệ khác nhau về ưu thế/lợi ích tạo ra cho doanh nghiệp; Đánh giá khả năng chuyển giao: xác đinh và so sánh các công nghệ đã được lựa chọn về tiềm năng chuyển giao và triển khai thành công trong môi trường mới; Đánh giá thị trường: xem xét khả năng công nghệ và sản phẩm công nghệ tao ra đáp ứng thị trường như thế nào; Đánh giá thương mại: xác định khả năng thương mại và ưu thế của các ông nghệ được lựa chọn), thông thường, đánh giá sơ bộ có thể doanh nghiệp tự làm và sự hỗ trợ bên ngoài sẽ tăng dần ở các đánh giá tiếp theo. Một số trường hợp khác cũng có có thể coi thuộc vào tư vấn CGCN nhưng không nên xếp vào nội dung chính như: - Tổ chức tư vấn, môi giới CGCN tiến hành thu thập và tạo dựng một số bí quyết và tiến hành chuyển giao cho doanh nghiêp. - Tổ chức tư vấn, môi giới CGCN cung cấp các dịch vụ như đào tạo nhân lực vận hành thiệt bị công nghệ. - Tổ chức nghiên cứu của Nhà nước tham gia đảm nhận vai trò tư vấn cho các doanh nghjiệp bằng cách chỉ ra nguồn công nghệ thay thế và tiến hành NC&PT để giảm bớt sự phụ thuộc của các doanh nghiệp địa phương vào các nhà cung cấp công nghệ nước ngoài. - Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào cần có sự liên kết giữa viện - doanh nghiệp và ở đây sẽ có thêm tư vấn và môi giới về đối tác liên kết trong từng công nghệ được chuyển giao. - Đối tượng khách hàng phục vụ là Nhà nước và các tổ chức tư vấn, môi giới CGCN khác. Phân biệt chính/chủ yếu và phụ/thứ yếu trong các nội dung của hoạt động tư vấn CGCN có ý nghĩa nhấn mạnh vào những trường hợp thường gặp, những năng lực cần tập trung đầu tư phát triển đối với tổ chức tư vấn, môi giới CGCN và những quan hệ cần tập trung ưu tiên khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước. 10 Năng lực giao dịch sẽ được thể hiện ở những công việc thuộc các giai đoạn khác nhau: - Giai đoạn nhận biết cơ hội: (i) Nhận biết các nhu cầu; (ii) Lập luận chứng cho việc giao dịch. - Giai đoạn lựa chọn đối tác: (i) Tìm đối tác; (ii) Đánh giá và chọn đối tác. - Giai đoạn hoàn thiện phương thức giao dich: (i) Nhận dạng phương thức giao dịch khả thi; (ii) Chọn phương thức. - Giai đoạn đàm phán: (i) Đàm phán các điều khoản của hợp đồng; (ii) Hoàn tất các khía cạnh liên quan đến pháp lý, nguồn lực và hậu cần. 14 Giới hạn lại pham vi ưu tiên, tập trung phát triển là cần thiết bởi trên thực tế, nguồn lực dành cho hoạt động tư vấn, môi giới CGCN thường khá hạn hẹp so với các đòi hỏi đáp ứng nhu cầu của xã hội. I.4 CÁC HÌNH THỨC CỦA HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN, MÔI GIỚI CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Qua kinh nghiệm của các nước, có thể thấy rõ một số đặc điểm nổi bật của hình thức tổ chức hoạt động tư vấn, môi giới CGCN sau đây: 1. Hoạt động tư vấn, môi giới CGCN thường được thực hiện bởi những tổ chức tiến hành hoạt động tổng hợp về giao dịch công nghệ, về tư vấn nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở một số nước, điều này còn được ghi rõ trong văn bản pháp luật. Chẳng hạn, Điều 17 của Luật Xúc tiến chuyển hoá thành quả KH&CN nước Công hoà nhân dân Trung Hoa quy định: cơ sở hoặc cơ quan làm giao dịch công nghệ thành lập theo luật pháp quy định, có thể tiến hành các hoạt động thúc đẩy chuyển hoá thành quả KH&CN sau: 1/ Giới thiệu hoặc lưu trữ thành quả KH&CN tiên tiến, có ý nghĩa thực tiễn; 2/ Cung cấp thông tin về kinh tế, công nghệ, môi trường và các thông tin khác có liên quan; 3/ Tiến hành hoạt động giao dịch công nghệ; 4/ Cung cấp các dịch vụ tư vấn khác có liên quan cho chuyển hoá thành quả KH&CN11. Hoạt động tư vấn, môi giới CGCN cũng được các viện nghiên cứu, trường đại học vốn có chức năng chính là nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực thực hiện. Việc tham gia của nhiều loại hình tổ chức vào hoạt động tư vấn, môi giới CGCN phản ánh tính chất cạnh tranh của lĩnh vực hoạt động này12. Cùng với và dường như ngược chiều xu hướng tổng hợp là tồn tại các tổ chức tự vấn, môi giới CGCN chuyên hoá theo lĩnh vực hẹp. Ngay trong tư vấn pháp lý hỗ trợ chuyển giao công nghệ cũng có những loại chuyên nghiệp khác nhau (xem Hình 1)13: 11 Văn phòng Quản lý thị trường công nghệ - Bộ Khoa học và Kỹ thuật Trung Quốc: "Tuyển tập pháp quy về chính sách thị trường công nghệ", Bản dịch của Hàn Ngọc Lương, trang 42. 12 Trong một văn bản ("Mục tiêu và nhiệm hoạt động của thị trường công nghệ Trung Quốc"), Chính phủ Trung Quốc nêu rõ: Hệ thống thông tin thị trường công nghệ toàn quốc và các địa phương cần được thể chế hoá và quản lý thống nhất theo nguyên tắc phục vụ có chi, theo cơ chế cạnh tranh, thu hút rộng rãi các xí nghiệp, cơ quan khoa học, trường đại học, cơ quan dịch vụ kinh doanh công nghệ tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu của cả bên bán và mua. (Văn phòng Quản lý thị trường công nghệ - Bộ Khoa học và Kỹ thuật Trung Quốc: "Tuyển tập pháp quy về chính sách thị trường công nghệ", Bản dịch của Hàn Ngọc Lương, trang 244) 13 Th eo Phạm Thị Thu Hà "Vai trò của tư vấn phát lý trong hoạt động chuyển giao công nghệ", trang 3 Bộ KH&CN, Hội thảo "Đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam", Hà Nội, 28/12/2004 15 Hình 1: Các loại tư vấn pháp lý trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ Nhà tư vấn pháp lý trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ LUẬT SƯ Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy đinh của pháp luật và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật. ĐẠI DIỆN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Đại diện sở hữu trí tuệ là doanh nghiệp đã đăng ký hoạt động theo pháp luật với cơ quản có thẩm quyền và được cấp Giấy chứng nhận là Tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp/bản quyền CÁC TỔ CHỨC DỊCH VỤ KHOA HỌC - KỸ THUẬT KHÁC Là tổ chức chủ yếu cung cấp dịch vụ khoa học - kỹ thuật, tư vấn pháp lý thường chỉ là dịch vụ cung cấp kèm theo. Tuy nhiên, mức độ chuyên sâu về các khía cạnh pháp lý thường không bằng hai loại hình bên 2. Bên cạnh các tổ chức tư nhân còn có cả các tổ chức thuộc nhà nước tiến hành hoạt động tư vấn, môi giới CGCN14. Có thể nêu ra một số tổ chức nhà nước tham gia tư vấn, môi giới CGCN điển hình như: - Nhật Bản: Trung tâm thông tin công nghiêp (ITIC) có nhiệm vụ thu thập và phổ biến thông tin về công nghiệp, thương mại và công nghệ.15 - Mêhicô: Tổ chức chính của Nhà nước chịu trách nhiệm thúc đẩy và hỗ trợ hoạt động KH&CN là Hội đồng KH&CN Quốc gia (CONACYT) đã lập ra một trung tâm chuyên phổ biến 14 Ở một số nước như Nhật bản có khái niệm Tư vấn tư nhân và Tư vấn công (Tài liệu Hội thảo chuyển đề "Tóm tắt những chính sách cho DNVVN ở Nhật Bản" do Kohata Kenichi, chuyên gia ASMED-MPI trình bày- TP Hồ Chí Minh, tháng 12/2006, trang 29) 15 Xem thêm: Trần Thanh Lâm "Quản trị công nghệ", Nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn, trang 34. 16 vào thị trường các công nghệ mới được tạo ra, gọi là Trung tâm Dịch vụ thông tin và công nghệ (INFOTEC).16 - Mỹ: Cơ quan Dịch vụ Thông tin Kỹ thuật Quốc gia (NTIS) là cơ quan thuộc Cục Thương mại và Quản lý Công nghệ, có chức năng cung cấp thông tin công nghệ, đóng vai trò như một ngân hàng dữ liệu, tập hợp, phổ biến và chuyển giao thông tin về những công nghệ mới/sở hữu Liên bang có nhiều tiềm năng ứng dụng đối với các Bang, địa phương hoặc khu vực tư nhân. (Điều 3704b của Luật Đổi mới Công nghệ Stevenson-Wydler).17 3. Có sự hình thành những mối liên kết rộng rãi, chặt chẽ và phong phú trong hoạt động tư vấn, môi giới CGCN. Trước hêt là hình thành những mạng lưới các tổ chức tham gia tư vấn, môi giới CGCN. Ở Hàn Quốc, trong những năm 60-70, nhà nước đã dùng nhiều tổ chức phổ biến công nghệ chuyên môn sâu (các công ty tư vấn thiết kế kỹ thuật, các cơ sở nghiên cứu của công chúng...) để chuyển giao công nghệ cho các cơ sở sản xuất. Tuy nhiên các tổ chức loại này đã hoạt động không có hiệu quả. Đến thập kỷ 80, chính phủ Hàn Quốc mới thiết lập được một mạng lưới rộng khắp các cơ sở hỗ trợ thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, quốc doanh, công cộng, tư nhân (phi lợi nhuận) để phổ biên công nghệ trong phạm vi nền kinh tế, và đặc biệt giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ (xem Hình 2). Đặc điểm của hệ thống này là ở chỗ: * Sự tham gia của Trung ương phục thuộc vào đường lối quản lý tập trung và ý đồ kiểm soát tập trung về chuyển giao công nghệ. * Sự tham gia của các viện nghiên cứu gắn làm chủ công nghệ, với quá trình chuyển từ bắt chước sang sáng tạo công nghệ. * Sự tham gia của các tổ chức tư nhân thể hiện phát triển của qnan hệ thị trường công nghệ. Ở Mỹ, Chính phủ cũng thành lập Tổ hợp Phòng thí nghiệm Liên bang về chuyển giao công nghệ với nhiệm vụ điều phối mạng lưới liên kết giữa các Văn phòng Nghiên cứu và Ứng dụng của các phòng thí nghiệm Liên bang; thúc đẩy hợp tác giữa các Văn phòng này với các tổ 16 Xem thêm: Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia: "Khoa học và công nghệ thế giới - Xu thế và chính sách những năm đầu thế kỷ XXI", Hà Nội - 2004, trang 70. 17 Xem thêm: Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN: "Nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về chuyển giao công nghệ của một số nước" (Tài liệu tham khảo phục vụ soạn thảo Luật Chuyển giao công nghệ), Tháng 11/2005, trang 22. 17 chức hỗ trợ chuyển giao công nghệ của Bang và Địa phương; xây dựng ngân hàng dữ liệu đáp ứng nhu cầu về hỗ trợ kỹ thuật; tạo điều kiện thuận lợi truyền bá thông tin và hợp tác với các tổ chức chuyển giao công nghệ công và tư; ... Hình 2: Hệ thống hỗ trợ phổ biến công nghệ ở Hàn Quốc - Quản lý công nghệ ở cấp cao - Điều phối trung ương (a) - Tiêu chuẩn hoá công nghiệp - Quản lý chất lượng - Hỗ trợ kỹ thuật Hội đồng điều phối Công ty xúc tiến công nghệ (b) 9 Chi nhánh vùng Viện Công nghệ công nghiệp Quốc gia (a) Trung tâm sản xuất thủ (c) 9 Viện Công nghệ công nghiệp vùng (a) Trung tâm Thông tin Công nghệ công nghiệp (b) 6 Viện Kiểm tra - Kiểm nghiêm (b) Viện Thiết kế và bao gói Công nghiệp Triều Tiên (b) Hiệp hội Tiêu chuẩn Hàn Quốc (c) Học viện Công nghệ Công nghiệp Hàn Quốc (b) Các Hiệp hội Công nghiệp (EIAK, KOAMI, ...) (c) Các Viện NC&PT Công nghiệp khác (KIST, KIMM....) (b) Các Viện NC&PT Công nghiệp đặc thù (KOTITI, KETI....) (c) Chú thích: (a) Tổ chức Nhà nước (b) Tổ chưc công cộng được Nhà nước hỗ trợ (c) Tổ chức tư nhân phi lợi nhuận Nguồn: Trung tâm Thông tin Tư liệu KH&CN quốc gia: Tổng luận Khoa học - Kỹ thuật Kinh tế, số 6/1998, trang 18 - 20. 18 Bản thân một số nội dung liên quan tới tư vấn chuyển giao công nghệ vốn tồn tại ở nhiều tổ chức và hoạt động . Lấy ví dụ về đánh giá công nghệ18. Có những tổ chức đánh giá công nghệ phục cho nhà nước (Văn phòng đánh giá công nghệ Mỹ phục vụ cho Quốc hội được thành lập vào năm 1973 và sau đó có một số nước Châu Âu lập ra tổ chức tương tự như Pháp, Hà Lan, Đan Mạch, Anh, Đức, Liên minh Châu Âu19); có những chương trình quốc gia như FAST, VALUE II nhằm thúc đẩy những sáng kiến về hoạt động đánh giá công nghệ; công tác đánh giá công nghệ được phát triển tại các trường đại học thành những khoa hoặc bộ môn; đánh giá công nghệ được tiến hành ở các doanh nghiệp nhằm hỗ trợ cho việc lập kế hoạch mang tính chiến lược (công việc này thường giới tên gọi là "đánh giá công nghệ ứng dụng") Như vậy, hoàn toàn có thể có sự liên kết trên cơ sở những tổ chức và hoạt động có nội dung chung. Trong đó kết nối giữa hoạtđộng tư vấn cho nhà nước và tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức NG&PT có ý nghĩa quan trọng để tranh thủ các nguồn lực và phối hợp các nguồn lực trong xã hội. Chẳng hạn trên thực tế, nhiều kết quả tư vấn cho Nhà nước đã được mở rộng cho nhiều đối tượng sủ dụng. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nhiều khi bản thân các tổ chức tư vấn, môi giới CGCN phải sử dụng những môi giới, tư vấn từ bên ngoài. Điển hình ở đây là trường hợp Văn phòng đánh giá công nghệ của Mỹ (OTA). Các báo cáo của Văn phòng đánh giá công nghệ Mỹ (OTA) không chỉ là kết quả của đội ngũ nhân lực nội bộ mà cả của chuyên gia bên ngoài. Mỗt một đánh giá phải có một hội đồng tư vấn bao gồn các nhân vật hữu quan và những chuyên viên khác ... Bên cạnh mối quan hệ liên kết trong nước, quan hệ liên kết quốc tế trong hoạt động tư vấn, môi giới CGCN cũng được đẩy mạnh. Mặc dù OTA (Văn phòng đánh giá công nghệ Mỹ phục vụ cho Quốc hội ) là hình mẫu giúp việc hình thành các tổ chưc đánh giá công nghệ phục vụ nhà nước ở Châu Âu, nhưng trên thực tế vẫn có sự khác nhau đáng kể. Ngoài sự khác nhau về hệ thống chính trị, còn có lý do không kém quan trọng là năng lực. Năng lực của tất cả các tổ chức đánh giá công nghệ cho nhà nước của Châu Âu gộp lại vẫn còn thua xa năng lực phân tích của OTA . Chính vì thế các tổ chức Châu Âu đã coi trọng khai thác những tài liệu đánh giá của OTA 18 Đánh giá công nghệ ở đây không hiểu theo truyền thống là xác đinh những hậu quả tiêu cực hoặc không mong muốn về kinh tế - xã hội của việc phát triển công nghệ mà là theo nghĩa mới. Theo đó, đánh giá công nghệ là quá trình bao gồm phân tích sự phát triển công nghệ và các hệ quả của nó, cùng với việc thảo luận về kết quả của những phân tích này. Mục tiêu của đánh giá công nghệ là cung cấp thông tin cho những người có liên quan về vấn đề phát triển công nghệ để giúp họ lập ra những chiến lược, đối sách của mình. 19 Ở Pháp là Văn phòng đánh giá công nghệ do Quốc hội Pháp thành lập (OPESCST), Hà Lan là Văn phòng Đánh giá Công nghệ Hà Lan (NOTA), Anh là Văn phòng KH&CN phục vụ Quốc hội Anh (POST), Liên minh Châu Âu là Cơ quan Đánh giá các phương án KH&CN (STOA). 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan