1
PHẦN MỞ ĐẦU
• Lý do chọn đề tài
Ngày nay công nghệ nano phát triển mạnh mẽ và được ứng dụng rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực khác nhau như: y học, sinh học, công nghệ xúc tác, công nghệ thông
tin, xúc tác, quang học, dệt may, mỹ phẩm…trong đó công nghệ nano bạc được các
nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm.
Nano bạc có rất nhiều tính chất khác hẳn với bạc khối như tính chất quang, từ,
điện…nhưng đặc trưng nhất của nano bạc là tính kháng khuẩn. Nano bạc có khả năng
giết chết hơn 650 loại vi khuẩn khác nhau chỉ trong vòng một phút. Tất cả các vi
khuẩn không bị lờn với kháng sinh bạc và vì thế, các hạt nano bạc không bị mất tác
dụng. Ngoài ra, các hạt nano bạc cũng sẽ giúp tạo ra các oxygen hoạt tính từ trong
không khí hoặc từ trong nước và từ đó phá hủy các màng tế bào của vi khuẩn. Các hạt
nano bạc đã được đưa vào mọi chất dẻo và ứng dụng khá rộng rãi trong đời sống.
Nano bạc được đưa vào các polymer như polyetylen (PE), polypropylen (PP), các loại
giấy, vải… có khả năng giết chết ba loại vi khuẩn: tụ cầu khuẩn vàng, Bacillus
pneumoniae và E. Coli.
Có rất nhiều cách tổng hợp ra nano bạc như: phương pháp vi sóng, phương pháp
khử sinh học, phương pháp hoá lý… trong đó phương pháp phân huỷ nhiệt phức chất
oxalat bạc nhằm tạo ra các hạt nano bạc là phương pháp mới áp dụng nhưng đã có
hiệu quả khá cao. Nano bạc tạo ra từ phương pháp này có độ sạch khá cao, do khí CO2
được thoát ra dễ dàng, không lẫn bất kỳ một tạp chất nào. Hơn nữa, trong dung dịch
keo nano bạc hoàn toàn không có sự hiện diện của ion Ag+ nên màu sắc của các sản
phẩm ứng dụng các dung dịch này không bị ảnh hưởng.
Dung dịch keo nano bạc được điều chế trong điều kiện hoá học xanh với tiền
chất oxalate bạc, chất bảo vệ là polyvinyl pyroidone (PVP) trong môi trường
glycerine có sự hỗ trợ của nhiệt vi sóng. Đây là một phương pháp khá tiện lợi, đơn
giản, thời gian phản ứng nhanh. Từ những ưu điểm của nano bạc cũng như tính hữu
ích, sự khác biệt của phương pháp phân hủy nhiệt so với phương pháp khác đã thúc
2
đẩy cho chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu chế tạo vật liệu nano bạc trong môi trường
glycerin và sản phẩm ứng dụng” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
• Tổng quan về lịch sử nghiên cứu của đề tài
Ngày nay trên thế giới cũng như trong nước, khoa học và công nghệ nano đang
phát triển rất mạnh mẽ và được ứng dụng rộng rãi trong các ngành khoa học khác
nhau như điện tử, vật lý, hóa học, sinh học, y học, môi trường...trong đó nổi bật là các
ứng dụng của nó trong các việc xử lý nhiễm khuẩn, không gây độc hại cho con người
và không gây kích ứng da.
Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng nano bạc
như: tổng hợp keo bạc trong pha nước/dầu (Wanzhong Zhang, Xueliang Qiao,
Jianguo Chen) [14]; chế tạo khẩu trang phẩu thuật chứa nano bạc với hiệu suất kháng
khuẩn cao (Sougata Sarkar, Atish Dipankar Jana, Samir Kumar Samanta, Golam
Mostafa) [13]; cơ chế kháng khuẩn của nano bạc (Y. Li, P. Leung, L. Yao, Q. w.
Song, E. Newton) [16]; tổng hợp và khảo sát các tính chất lý hoá của hạt nano bạc
trong cao su thiên nhiên (N. H. H. Abu Bakar, J. Ismail, M. Abu Bakar) [10]; sản xuất
nano bạc ứng dụng trong dược phẩm (X. Chen, H. J. Schluesener) [15]; chế tạo màng
lọc nước kháng khuẩn bằng mút xốp Polyurethane chứa nano bạc (Prashant Jain, T.
Pradeep) [11]; hiệu quả tính kháng của dung dịch keo nano bạc lên vải sợi (H. J. Lee,
S. Y. Yeo, S. H. Jeong) [9]; phân hủy nhiệt tạo ra hạt nano bạc (S. Navaladian, B.
Viswanathan, R. P. Viswanath, T. K. Varadarajan) [12].
Tình hình nghiên cứu trong nước
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực nano trên thế giới, trong nước
cũng có khá nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này tiêu biểu như: Nhóm nghiên cứu
nano tại Phòng thí nghiệm công nghệ nano – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã
chế tạo nano bạc từ tiền chất AgNO3 bằng phương pháp khử vật lý; khử polyol có sự
hỗ trợ của nhiệt vi sóng; ứng dụng dung dịch keo nano bạc ngâm tẩm trên vật liệu
polyurethan để xử lý nguồn nước uống nhiễm khuẩn [3]; chế tạo nano bạc trên nền
3
cao su thiên nhiên bằng phương pháp khử hóa học [4]; Tổng hợp xanh hạt nano bạc
và dung dịch keo nano bạc (N.T.P. Phong, Ngô Hoàng Minh, Ngô Võ Kế Thành và
Đặng Mậu Chiến) [7]; Chế tạo hạt keo nano bạc trong PVP bởi tia gama (Bùi Duy Du,
Đặng Văn Phú, Nguyễn Ngọc Duy, Nguyễn Thị Kim Lan, Võ Thị Kim Lang, Ngô Võ
Kế Thành, Nguyễn Thị Phương Phong và Nguyễn Quốc Hiền) [5]; chế tạo màng lọc
nước kháng khuẩn bằng mút xốp Polyurethane chứa nano bạc (Nguyễn Thị Phương
Phong, Võ Kế Thành, Phan Huê Phương) [6].
• Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Điều chế nano bạc trong môi trường glycerin bằng phương pháp khử nhiệt có
sự hỗ trợ của vi sóng.
Khảo sát khả năng kháng khuẩn của dung dịch nano bạc bằng phương pháp
vòng kháng khuẩn tại Viện Pasteur Thành Phố Hồ Chí Minh.
Ứng dụng vật liệu nano bạc vào các sản phẩm như: gel rửa tay kháng khuẩn.
Kiểm tra khả năng kháng khuẩn của sản phẩm gel rửa tay tại Viện Pasteur –
TP.Hồ Chí Minh.
• Phương pháp nghiên cứu
Điều chế phức chất bạc oxalat và xác định các tính chất lý hoá bằng các
phương pháp phân tích FE – SEM, EDS, XRD.
Chế tạo hạt nano bạc bằng phương pháp phân huỷ nhiệt, thay đổi nhiệt độ
nung mẫu và xác định các tính chất lý hoá bằng các phương pháp phân tích
như XRD, TEM.
Điều chế dung dịch keo nano bạc trong điều kiện hoá học xanh với tiền chất
oxalate bạc, chất bảo vệ là polyvinyl pyroidone (PVP) trong môi trường
glycerine có sự hỗ trợ của nhiệt vi sóng. Thay đổi các thông số như nồng độ
bạc oxalat, nhiệt độ, thời gian. Sử dụng các phương pháp phân tích: UV-Vis
và TEM.
4
Kiểm tra khả năng kháng khuẩn trên các dung dịch nano Ag và sản phẩm ứng
dụng tại Viện Pasteur – TP.Hồ Chí Minh.
Kiểm tra diệt khuẩn với 6 con vi khuẩn do bộ Y tế quy định
Bảng I: Các loại vi khuẩn và những bệnh thường gặp
STT
Loại vi khuẩn
Những bệnh thường gặp
1
Staphylococcusaureus ATCC 25923
Gây mụn nhọt, viêm mô tế bào
2
Salmonella typhi
Gây thương hàn, dịch tả ở lợn
3
Escherichia coli ATCC 25922
Gây bệnh tiêu chảy
4
Pseudomonasaeruginosa ATCC
Gây viêm lỗ chân lông
27853
5
Shigella flexneri NCDC 2774-71
Gây tiêu chảy ở người
6
Bacillus subtilis ATCC 6633
Gây ôi thiu các loại thực phẩm
• Những đóng góp mới của đề tài và những vấn đề mà đề tài chưa làm được
- Đề tài này mở ra một hướng mới cho việc chế tạo các hạt nano bạc bằng dung môi
xanh thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, sản phẩm của đề tài được ứng dụng tạo
ra các gel rửa tay kháng khuẩn, an toàn cho người sử dụng.
- Đã ứng dụng được vào sản phẩm nhưng chưa phát triển sản phẩm chế tạo được rộng
rãi trên thị trường.
5
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về vật liệu nano
1.1.1. Khoa học nano: là ngành khoa học nghiên cứu về các hiện tượng và vận
dụng vào các vật liệu tại các quy mô nguyên tử, phân tử và đại phân tử. Tại các quy
mô đó, tính chất của vật liệu khác hẳn với tính chất của chúng tại các quy mô lớn hơn.
1.1.2. Công nghệ nano: là việc thiết kế, phân tích đặc trưng, chế tạo và ứng dụng
các cấu trúc, thiết bị, và hệ thống bằng việc điều khiển hình dáng và kích thước trên
quy mô nanomet.
1.1.3. Vật liệu nano: là đối tượng của hai lĩnh vực là khoa học nano và công nghệ
nano, nó liên kết hai lĩnh vực trên với nhau. Kích thước của vật liệu nano trải dài một
khoảng khá rộng, từ vài nm đến vài trăm nm.
1.2. Giới thiệu về kim loại bạc
Bạc là một trong những kim loại được con người phát hiện ra từ rất sớm
(khoảng 5500 đến 6000 năm về trước) chỉ sau vàng và đồng. Tuy nhiên lúc bấy giờ
bạc được xem là một kim loại rất hiếm do khai thác rất ít. Qua những pháp lệnh của
vua Ai Cập Menet (khoảng 3600 năm trước công nguyên), người ta biết giá cả vàng
bạc lúc bấy giờ là 1: 2,5.
Ký hiệu của bạc là Ag có nguồn gốc từ chữ Argentum trong tiếng la tinh, bạc
được biết đến từ thời tiền sử, nó được nhắc tới trong cuốn Chúa sáng tạo ra thế giới,
các đống xỉ bạc đã được tìm thấy ở Tiểu Á và trên các đảo thuộc biển Aegean chứng
minh rằng bạc đã được tách khỏi chì từ thiên niên kỷ thứ 4 trước công nguyên.
1.2.1. Các tính chất vật liệu nano
Vật liệu có những tính chất kỳ lạ, khác hẳn với các tính chất của vật liệu khối
mà người ta nghiên cứu trước đó. Sự khác biệt về tính chất của vật liệu nano so với
vật liệu khối bắt nguồn từ hai hiện tượng sau:
6
1.2.1.1. Hiệu ứng bề mặt
Khi vật liệu có kích thước nhỏ thì tỉ số nguyên tử trên bề mặt và tổng số nguyên
tử của vật liệu gia tăng. Ví dụ, xét vật liệu tạo thành từ các hạt nano hình cầu. Nếu gọi
ns là số nguyên tử nằm trên bề mặt, n là tổng số nguyên tử thì mối liên hệ giữa hai con
số trên sẽ là ns = 4n2/3. Tỉ số giữa số nguyên tử trên bề mặt và tổng số nguyên tử sẽ là f
= ns/n = 4/n1/3 = 4r0/r, trong đó r0 là bán kính của nguyên tử và r là bán kính của hạt
nano. Như vậy, nếu kích thước của vật liệu giảm (r giảm) thì tỉ số f tăng lên. Do
nguyên tử trên bề mặt có nhiều tính chất khác biệt so với tính chất của các nguyên tử
ở bên trong lòng vật liệu nên khi kích thước vật liệu giảm đi thì hiệu ứng có liên quan
đến các nguyên tử bề mặt, hay còn gọi là hiệu ứng bề mặt tăng lên do tỉ số f tăng. Khi
kích thước của vật liệu giảm đến nm thì giá trị f này tăng lên đáng kể. Sự thay đổi về
tính chất có liên quan đến hiệu ứng bề mặt không có tính đột biến theo sự thay đổi về
kích thước vì f tỉ lệ nghịch với r theo một hàm liên tục.
Bảng 1.1 cho biết một số giá trị điển hình của hạt nano hình cầu. Với một hạt
nano có đường kính 5 nm thì số nguyên tử mà hạt đó chứa là 4000 nguyên tử, tỉ số f là
40 %, năng lượng bề mặt là 8,16×1011 và tỉ số năng lượng bề mặt trên năng lượng
toàn phần là 82,2 %. Tuy nhiên, các giá trị vật lí giảm đi một nửa khi kích thước của
hạt nano tăng gấp hai lần lên 10 nm.
Bảng 1.1: Số nguyên tử và năng lượng bề mặt của hạt nano hình cầu
Đường kính
Số nguyên
Tỉ số nguyên tử
Năng lượng
Năng lượng bề mặt/
hạt nano (nm)
tử
trên bề mặt (%)
bề mặt (erg/mol)
Năng lượng tổng (%)
10
30.000
20
4,08×1011
7,6
5
4.000
40
8,16×1011
14,3
2
250
80
2,04×1012
35,3
1
30
90
9,23×1012
82,2
7
1.2.1.2. Hiệu ứng kích thước
Tính chất thú vị của vật liệu nano bắt nguồn từ kích thước của chúng rất nhỏ bé
có thể so sánh với các kích thước tới hạn của nhiều tính chất hóa lý của vật liệu. chỉ là
vấn đề kích thước thôi thì không có gì đáng nói, điều đáng nói là kích thước của vật
liệu nano đủ nhỏ để có thể so sánh với các kích thước tới hạn của một số tính chất.
Vật liệu nano nằm giữa tính chất lượng tử của nguyên tử và tính chất khối của
vật liệu. Đối với vật liệu khối, độ dài tới hạn của các tính chất rất nhỏ so với độ lớn
của vật liệu, nhưng đối với vật liệu nano thì điều đó không đúng nên các tính chất
khác lạ bắt đầu từ nguyên nhân này.
1.3. Các phương pháp chế tạo hạt nano
Vật liệu nano được chế tạo bằng hai phương pháp: phương pháp từ trên xuống
(top – down) và phương pháp từ dưới lên (bottom – up). Phương pháp từ trên xuống
là phương pháp tạo hạt kích thước nano từ các hạt có kích thước lớn hơn; phương
pháp từ dưới lên là phương pháp hình thành hạt nano tứ các nguyên tử.
1.3.1. Phương pháp từ trên xuống
Nguyên lý của phương pháp này là dùng kỹ thuật nghiền và biến dạng để biến
vật liệu thể khối với tổ chức hạt thô thành cỡ hạt kích thước nano. Đây là phương
pháp đơn giản, rẻ tiền nhưng rất hiệu quả, có thể tiến hành cho nhiều loại vật liệu với
kích thước khá lớn (ứng dụng làm vật liệu kết cấu). Trong phương pháp nghiền, vật
liệu ở dạng bột được trộn lẫn với những viên bi được làm từ các vật liệu rất cứng và
đặt trong một cái cối. Máy nghiền có thể là nghiền lắc, nghiền rung hoặc nghiền quay
(còn gọi là nghiền kiểu hành tinh). Các viên bi cứng va chạm vào nhau và phá vỡ bột
đến kích thước nano. Kết quả thu được là vật liệu nano không chiều (các hạt nano).
Phương pháp biến dạng được sử dụng với các kỹ thuật đặc biệt nhằm tạo ra sự biến
dạng cỡ lớn (có thể >10) mà không làm phá huỷ vật liệu. Nhiệt độ có thể được điều
chỉnh tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Nếu nhiệt độ gia công lớn hơn nhiệt độ
kết tinh lại thì được gọi là biến dạng nóng, còn ngược lại thì được gọi là biến dạng
nguội.
8
Kết quả thu được là các vật liệu nano một chiều (dây nano) hoặc hai chiều (lớp
có chiều dày nm). Ngoài ra, hiện nay người ta thường dùng các phương pháp quang
khắc để tạo ra các cấu trúc nano phức tạp.
1.3.1.1. Phương pháp ăn mòn laser
Đây là phương pháp từ trên xuống. Vật liệu ban đầu là một tấm bạc được đặt
trong một dung dịch có chứa một chất hoạt hoá bề mặt. Một chùm laser xung có bước
sóng 532nm, độ rộng xung là 10 ns, tần số 10Hz, năng lượng mỗi xung là 90mJ,
đường kính vùng kim loại bị tác dụng từ 1 – 3mm. Dưới tác dụng của chùm laser
xung, các hạt nano có kích thước khoảng 10nm được hình thành và được bao phủ bởi
chất hoạt hoá bề mặt CnH2n+1SO4Na với n = 8, 10, 12, 14 với nồng độ từ 0,001÷ 0,1M.
1.3.2. Phương pháp từ dưới lên
Nguyên lý của phương pháp này là hình thành vật liệu nano từ các nguyên tử
hoặc ion. Phương pháp từ dưới lên được phát triển rất mạnh mẽ vì tính linh động và
chất lượng của sản phẩm cuối cùng. Phần lớn các vật liệu nano mà chúng ta dùng hiện
nay được chế tạo từ phương pháp này. Phương pháp từ dưới lên có thể là phương
pháp vật lý, hóa học hoặc kết hợp cả hai phương pháp hóa – lý.
1.3.2.1. Phương pháp khử hoá học
Đây là phương pháp từ dưới lên. Phương pháp khử hoá học là dùng các tác
nhân hoá học để khử ion kim loại thành kim loại. Thông thường các tác nhân hoá học
ở dạng dung dịch lỏng nên còn gọi là phương pháp hoá ướt. Dung dịch ban đầu có
chứa các muối của các kim loại như: HAuCl4, H2PtCl6, AgNO3. Tác nhân khử ion kim
loại Ag+, Au+ thành Ag0, Au0 là các chất như: acid citric, vitamin C, Sodium
Borohydride (NaBH4), Ethanol (cồn)…Để các hạt phân tán tốt trong dung môi mà
không bị kết tụ thành đám, người ta sử dụng phương pháp tĩnh điện để làm cho bề mặt
các hạt nano có cùng điện tích đẩy nhau hoặc dùng phương pháp bao bọc bằng chất
hoạt động bề mặt hoặc các polymer.
9
Phương pháp tĩnh điện đơn giản nhưng bị giới hạn bởi một số chất khử. Phương
pháp bao phủ thì phức tạp nhưng vạn năng hơn, hơn nữa phương pháp này có thể làm
cho bề mặt nano có các tính chất cần thiết cho các ứng dụng. Các hạt nano như: Ag,
Au, Pt, Pd, Rh với kích thước từ 10 – 100 nm có thể được chế tạo từ phương pháp
này.
1.3.2.2. Phương pháp khử vật lý
Phương pháp khử vật lý dùng các tác nhân vật lý như điện tử, sóng điện từ năng
lượng cao như tia gamma, tia tử ngoại, tia laser khử ion kim loại thành kim loại. Dưới
tác dụng của tác nhân vật lý, có nhiều quá trình biến đổi của dung môi và các phụ gia
trong dung môi để sinh ra các gốc hoá học có tác dụng khử ion thành kim loại. Ví dụ:
người ta dùng chùm laser xung có bước sóng 500nm, độ dài xung 6ns, tần số 10 Hz,
công suất 12 – 14 mJ chiếu vào dung dịch có chứa AgNO3 như là nguồn ion kim loại
và Sodium Dodecyl sulfate (SDS) như là chất hoạt hoá bề mặt để thu được hạt nano
bạc.
1.3.2.3. Phương pháp khử hoá lý
Đây là phương pháp trung gian giữa hoá học và vật lý. Nguyên lý là dùng
phương pháp điện phân kết hợp với siêu âm để tạo hạt nano. Phương pháp điện phân
thông thường chỉ tạo được màng mỏng kim loại. Trước khi xảy ra sự hình thành
màng, các nguyên tử kim loại sau khi được điện hoá sẽ tạo ra hạt nano bám lên điện
cực âm. Sau đó người ta tác dụng một xung điện siêu âm đồng bộ với xung điện phân
thì hạt nano kim loại sẽ rời khỏi điện cực và sẽ đi vào dung dịch.
10
Hình 1.1: Phương pháp khử hóa lý
1.3.2.4. Phương pháp khử sinh học
Dùng vi khuẩn là tác nhân khử ion kim loại. Cấy vi khuẩn MKY3 vào dung dịch
có chứa ion bạc để thu được hạt bạc nano. Phương pháp này đơn giản, thân thiện với
môi trường và có thể tạo hạt với số lượng lớn.
1.3.2.5. Phương pháp micell đảo
Phương pháp này cho hạt kim loại có kích thước khoảng 1 – 20nm, với kích
thước nano thì đặc tính của nó được biểu hiện trong biên độ khá rộng.
11
Dung dịch micell đảo khá sạch, trạng thái nhiệt ổn định, là hỗn hợp của bộ ba:
pha nước, pha dầu và chất hoạt động bề mặt được gọi chung là vi nhũ. Trong vi nhũ
hạt nano nằm trong các giọt nước và được bao phủ bởi phần ưa nước của chất hoạt
động bề mặt, còn phần đuôi kỵ nước lại bị solvat hoá trong dầu.
1.3.2.6. Phương pháp khử nhiệt
Là phương pháp tạo ra hạt bạc có độ tinh khiết cao không yêu cầu phải có mặt
chất hoạt động bề mặt (hoặc chỉ cần một lượng rất nhỏ) cũng như tác nhân khử. Các
phát minh hiện nay là tạo ra hạt bạc bằng cách phân huỷ oxalat bạc ở nhiệt độ cao trên
1000C để tạo ra hạt nano bạc.
1.4. Tính chất của hạt nano bạc
Hạt nano bạc có hai tính chất khác biệt so với vật liệu khối đó là hiệu ứng bề
mặt và hiệu ứng kích thước. Tuy nhiên, do đặc điểm hạt nano bạc có tính kim loại, tức
là có mật độ điện tử tự do lớn thì các tính chất thể hiện có những đặc trưng riêng khác
với các hạt không có mật độ điện tử tự do cao.
1.4.1. Tính chất quang học
Tính chất quang học của hạt nano bạc trộn trong thủy tinh làm cho các sản phẩm
từ thủy tinh có các màu sắc khác nhau đã được người La Mã sử dụng từ hàng ngàn
năm trước. Các hiện tượng đó bắt nguồn từ hiện tượng cộng hưởng Plasmon bề mặt
(surface plasmon resonance) do điện tử tự do trong hạt nano bạc hấp thụ ánh sáng
chiếu vào. Kim loại có nhiều điện tử tự do, các điện tử tự do này sẽ dao động dưới tác
dụng của điện từ trường bên ngoài như ánh sáng. Thông thường các dao động bị dập
tắt nhanh chóng bởi các sai hỏng mạng hay bởi chính các nút mạng tinh thể trong kim
loại khi quãng đường tự do trung bình của điện tử nhỏ hơn kích thước. Nhưng khi
kích thước của kim loại nhỏ hơn quãng đường tự do trung bình thì hiện tượng dập tắt
không còn nữa mà điện tử sẽ dao động cộng hưởng với ánh sáng kích thích. Do vậy,
tính chất quang của hạt nano bạc có được do sự dao động tập thể của các điện tử dẫn
đến từ quá trình tương tác với bức xạ sóng điện từ. Khi dao động như vậy, các điện tử
sẽ phân bố lại trong hạt nano bạc làm cho hạt nano bạc bị phân cực điện tạo thành một
12
lưỡng cực điện. Do vậy xuất hiện một tần số cộng hưởng phụ thuộc vào nhiều yếu tố
nhưng các yếu tố về hình dáng, độ lớn của hạt nano bạc và môi trường xung quanh là
các yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất. Ngoài ra, mật độ hạt nano bạc cũng ảnh hưởng đến
tính chất quang. Nếu mật độ loãng thì có thể coi như gần đúng hạt tự do, nếu nồng độ
cao thì phải tính đến ảnh hưởng của quá trình tương tác giữa các hạt.
1.4.2. Tính chất điện
Tính dẫn điện của kim loại rất tốt, hay điện trở của kim loại nhỏ nhờ vào mật độ
điện tử tự do cao trong đó. Đối với vật liệu khối, các lý luận về độ dẫn dựa trên cấu
trúc vùng năng lượng của chất rắn. Điện trở của kim loại đến từ sự tán xạ của điện tử
lên các sai hỏng trong mạng tinh thể và tán xạ với dao động nhiệt của nút mạng
(phonon). Tập thể các điện tử chuyển động trong kim loại (dòng điện I) dưới tác dụng
của điện trường (U) có liên hệ với nhau thông qua định luật Ohm: U = IR, trong đó R
là điện trở của kim loại. Định luật Ohm cho thấy đường I – U là một đường tuyến
tính. Khi kích thước của vật liệu giảm dần, hiệu ứng giam cầm lượng tử làm rời rạc
hóa cấu trúc vùng năng lượng. Hệ quả của quá trình lượng tử hóa này đối với hạt nano
bạc là I – U không còn tuyến tính nữa mà xuất hiện một hiệu ứng gọi là hiệu ứng chắn
Coulomb (Coulomb blockade) làm cho đường I – U bị nhảy bậc với giá trị mỗi bậc
sai khác nhau một lượng e/2C cho U và e/RC cho I, với e là điện tích của điện tử, C
và R là điện dung và điện trở khoảng nối hạt nano bạc với điện cực.
1.4.3. Tính chất từ
Bạc có tính nghịch từ ở trạng thái khối do sự bù trừ cặp điện tử. Khi vật liệu thu
nhỏ kích thước thì sự bù trừ trên sẽ không toàn diện nữa và vật liệu có từ tính tương
đối mạnh.
1.4.4. Tính chất nhiệt
Nhiệt độ nóng chảy Tm của vật liệu phụ thuộc vào mức độ liên kết giữa các
nguyên tử trong mạng tinh thể. Trong tinh thể, mỗi một nguyên tử có một số các
nguyên tử lân cận có liên kết mạnh gọi là số phối vị. Các nguyên tử trên bề mặt vật
liệu sẽ có số phối vị nhỏ hơn số phối vị của các nguyên tử ở bên trong nên chúng có
13
thể dễ dàng tái sắp xếp để có thể ở trạng thái khác hơn. Như vậy, nếu kích thước của
hạt nano bạc giảm, nhiệt độ nóng chảy sẽ giảm.
1.5. Cơ chế kháng khuẩn và các ứng dụng của nano bạc
1.5.1. Cơ chế kháng khuẩn của nano bạc
Nano bạc kháng khuẩn theo hai cơ chế chính:
• Làm biến chất vi khuẩn bằng cách phá vỡ các nối disulfit: các nối disulfit (–S–S–)
trong vi khuẩn rất quan trọng vì nó đóng vai trò như một công tắc đóng, mở thuận
nghịch để tạo ra protein khi tế bào vi khuẩn gặp các phản ứng oxy hóa. Đây là cấu
trúc quan trọng của các enzyme trong vi khuẩn với tính chất xúc tác, nano bạc vô hiệu
hóa enzyme mà vi khuẩn, virus và nấm cần cho quá trình chuyển hóa oxygen [2].
• Phá vỡ màng tế bào vi khuẩn bằng các phản ứng oxy hóa: nano bạc giúp tạo ra oxy
hoạt tính trong không khí hoặc từ nước. Những oxy hoạt tính này có khả năng phá vỡ
màng tế bào hoặc thành tế bào của vi khuẩn [2].
Hình 1.2: Cơ chế phá vỡ màng tế bào bằng phản ứng oxy hóa
¾ Ưu điểm của nano bạc so với thuốc kháng sinh:
Nano bạc giết chết vi khuẩn ngay lập tức bằng 2 cơ chế làm biến chất và oxi
hóa. Vì vậy vi khuẩn không có khả năng kháng lại bạc. Các tế bào của con người ở
dạng mô nên không bị ảnh hưởng bởi quá trình này.
14
Không như các thuốc kháng sinh bị hấp thụ trong quá trình diệt khuẩn, nano bạc
hoạt động như chất xúc tác mà không bị hấp thụ.
Một tính chất khác giúp nano bạc tăng cường hiệu quả trong cơ thể người là do
nó ở dạng những hạt nhỏ kim loại khác với ion bạc thường bị chuyển thành clorua bạc
trong bao tử hay trong mạch máu. Clorua bạc tan rất ít và kém hiệu quả hơn nhiều so
với bạc kim loại hay ion bạc. Chỉ có bạc kim loại mới có thể sống được với HCl trong
bao tử mà vẫn giữ được các hoạt tính trong các mạch máu và mô cơ thể. Điều này rất
có ý nghĩa vì theo EPA (Environmental Protection Agency – Cơ quan bảo vệ môi
trường của Mỹ), một người chỉ có thể dùng 350µcg/ liều dùng mỗi ngày, nếu nhiều
hơn sẽ bị trúng độc bạc. Nếu dùng 1 – 2 muỗng cà phê/ ngày (20ppm) tương đương
với 100 – 200 µcg/ ngày (Thấp hơn so với khuyến cáo của EPA về lượng bạc cung
cấp trong nguồn nước ở Mỹ), sẽ có hiệu quả phòng bệnh rất tốt. Điều này có thể đảm
bảo cho người dùng sử dụng nano bạc như một chất bổ sung trong bữa ăn cũng như
trong nước uống mà không bị ngộ độc [2].
1.5.2. Ứng dụng hạt nano bạc
1.5.2.1. Trong y tế, mỹ phẩm
Bạc đã được sử dụng khá thành công trong chiến tranh thế giới thứ nhất để ngăn
ngừa sự truyền nhiễm trước khi có kháng sinh. Dung dịch bạc nitrat được dùng như
dung dịch chuẩn để bôi những vết bỏng nặng và sau này được thay thế bằng kem
silver sulfadiazine (SSD Cream) mãi đến những năm cuối thập kỷ 90. Hiện nay, gạc
phủ bạc hoạt hóa, được dùng kèm với kem SSD và tác dụng giảm đau và thuận lợi
trong việc điều trị tại gia.
Việc phổ biến sử dụng bạc trong điều trị đã giảm hẳn vì sự phát triển của nhiều
loại thuốc kháng sinh hiện đại. Tuy nhiên gần đây, bạc lại được tái quan tâm vì có phổ
sát khuẩn rộng. Đặc biệt, khi nó được sử dụng chung với alginate, một loại polymer
sinh học tự nhiên chiết xuất từ rong biển. Một số sản phẩm bạc alginate được điều chế
nhằm ngăn ngừa việc nhiễm khuẩn trong quá trình điều trị vết thương, đặc biệt là đối
với bệnh nhân phỏng.
15
Ngày này nano bạc còn được ứng dụng rất nhiều trong các sản phẩm y tế ví dụ
như: Găng tay kháng khuẩn, khẩu trang kháng khuẩn, các loại vải kháng khuẩn trong
bệnh viện...
Hình 1.3: Ứng dụng của nano bạc vào khẩu trang y tế và kem trị phỏng
1.5.2.2. Vật dụng, trang thiết bị
Năm 2007, công ty AGC Flat Glass Europe (Canada) giới thiệu loại thủy tinh
sát khuẩn đầu tiên để đối phó vấn nạn nhiễm khuẩn trong bệnh viện. Loại thủy tinh
này được phủ một lớp bạc mỏng. Hơn nữa, Samsung đưa ra loại máy giặt có lần xả
cuối cùng chứa ion bạc để có thể giúp áo quần kháng khuẩn trong nhiều ngày. Kohler
đã giới thiệu một dòng sản phẩm bồn cầu có phủ ion bạc để diệt khuẩn.
Hình 1.4: Ứng dụng của nano bạc vào thiết bị công nghệ
16
Hình1.5: Ứng dụng của nano bạc vào các vật dụng và trang thiết bị
1.5.2.3. Xử lý môi trường: Màng lọc nước thải nano bạc
Để xử lý những ô nhiễm nguồn nước do nước thải sinh hoạt và các khu công
nghiệp gây ra, hiện nay trên thế giới cũng như trong nước đã có nhiều công trình
nghiên cứu về việc ứng dụng công nghệ nano bạc cho việc xử lý nước thải.
Ngoài ra hiện nay còn có rất nhiều công ty sản xuất về hạt nano dùng cho sơn,
kính che nắng và các ống cacbon dùng trong ngành điện tử.
Hình 1.6: Ứng dụng của nano bạc vào sơn và xử lý nước thải
17
Bạc hạn chế sự phát triển của vi khuẩn và nấm mốc, giảm mùi hôi và giảm thiểu
rủi ro nhiễm khuẩn và nấm. Áo quần, nhất là tất vớ có sử dụng bạc giúp chúng có thể
sử dụng nhiều ngày hơn mà ít bị bốc mùi. Bạc được đưa vào áo quần dưới hai dạng:
(1) ion bạc được tích hợp vào polymer dùng để tạo sợi vải, (2) phủ bạc kim lọai lên
sợi vải. Cả hai dạng đều cho khả năng sát khuẩn và nấm mốc rộng. Điều đáng lưu ý là
tính sát khuẩn của bạc rất thân thiện đối với da người và diệt khuẩn mạnh không như
thuốc kháng sinh đôi khi có sự sốc thuốc và bị lờn thuốc sau một thời gian sử dụng.
Hình 1.7: Ứng dụng nano bạc vào mũ bảo hiểm
1.5.2.4. Ứng dụng trong nông nghiệp: Ngày nay nano bạc cũng được ứng
dụng rộng rãi trong nông nghiệp, nhằm tiêu diệt những con vi khuẩn, nấm bệnh
thường có ở trên cây trồng, đặc biệt hơn nữa là ứng dụng nano bạc vào thuốc bảo vệ
thực vật và dung dịch nước rửa kháng khuẩn không gây hại cho người sử dụng.
Hình 1.8: Nước rửa trái cây kháng khuẩn
18
Chương 2
THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất và dụng cụ
2.1.1. Hoá chất
Bảng 2.1: Các hóa chất sử dụng
Tên hóa chất
Công thức
Hãng sản xuất
Thành phần
Polyvinyl pyrolidone
(C6H9NO)n
BASF-Germany
Bạc Nitrate
AgNO3
Merck- Germany
99%
Oxalic axid
H2C2O4
Merck- Germany
99%
Glycerin
C3H8O3
Trung Quốc
99%
Mw = 55.000 g/mol
(PVP)
Nước tinh khiết
Phòng TN khoa Công Nghệ
Hóa – Thực Phẩm
2.1.2. Dụng cụ và thiết bị thí nghiệm
- Erlen 250ml, đĩa petri, que khuấy, becher 250ml, pipet, micropipet
- Máy khuấy từ (Hiệu Yellow MAG HS 7, made by IKA)
- Máy ly tâm
- Tủ sấy (Hiệu Shellab, made in China).
- Cân phân tích 4 số (Hiệu Sartorius BS210S, made by Satorius).
- Nhiệt kế (3000C)
19
Hình 2.1: Thiết bị lò vi sóng dùng để chế tạo dung dịch keo nano bạc
Hình 2.2: Cân và máy ly tâm
20
2.2. Tổng hợp nano bạc
2.2.1. Chế tạo bạc oxalat (Ag2C2O4)
Phương trình phản ứng
AgNO3 + H2C2O4 → Ag2C2O4(r) + 2HNO3
Cho 40 ml dung dịch AgNO3 0,5M tác dụng với 30 ml dung dịch axit oxalic.
Kết tủa này được để lắng và sau đó ly tâm, lấy phần rắn rửa với nước cất nhiều lần
cho đến khi pH trung hòa, sấy khô ở nhiệt độ 600C, thu nhận sản phẩm và tính hiệu
suất.
Hình 2.3: Quy trình chế tạo bạc oxalat
- Xem thêm -