Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu biến động cảnh quan và đa dạng sinh học đất ngập nước ven biển thái b...

Tài liệu Nghiên cứu biến động cảnh quan và đa dạng sinh học đất ngập nước ven biển thái bình, định hướng quy hoạch sử dụng vùng cho phát triển bền vững 002

.PDF
211
3
94

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 4 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................................................. 8 1.1. Nghiên cứu cảnh quan và hƣớng tiếp cận sinh thái cảnh quan ....................................... 8 1.1.1. Các nghiên cứu cảnh quan học ............................................................................... 8 1.1.2. Các nghiên cứu sinh thái học, hệ sinh thái ............................................................ 11 1.1.3. Tiếp cận sinh thái cảnh quan ................................................................................ 12 1.2. Đa dạng sinh học ........................................................................................................ 13 1.2.1. Đa dạng sinh học ở Việt Nam .............................................................................. 14 1.2.2. Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam .................................................................. 17 1.3. Tổng quan về đất ngập nƣớc ....................................................................................... 18 1.3.1. Cấu trúc và chức năng đất ngập nƣớc ................................................................... 18 1.3.2. Đất ngập nƣớc châu thổ sông Hồng...................................................................... 19 1.3.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến vùng đất ngập nƣớc ven biển Thái Bình ...................................................................................................................... 21 1.4. Quan điểm phát triển bền vững ................................................................................... 24 1.4.1. Khái niệm phát triển bền vững ............................................................................. 24 1.4.2. Phát triển bền vững ở Việt Nam ........................................................................... 26 Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG, QUAN ĐIỂM VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................ 28 2.1. Địa điểm và đối tƣợng nghiên cứu .............................................................................. 28 2.2. Tài liệu nghiên cứu ..................................................................................................... 28 2.3. Các quan điểm tiếp cận trong nghiên cứu.................................................................... 29 2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................ 31 2.4.1. Phƣơng pháp kế thừa ....................................................................................... 31 2.5. Quy trình nghiên cứu .................................................................................................. 39 Chƣơng 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ............................................................................ 41 3.1. Các nhân tố hình thành cảnh quan đất ngập nƣớc ven biển Thái Bình ......................... 41 3.1.1. Địa chất - nhân tố thành tạo nền tảng rắn trong cảnh quan ................................ 41 3.1.3. Khí hậu - nhân tố thành tạo nền tảng nhiệt ẩm trong cảnh quan ............................ 43 3.1.4. Thủy hải văn - nhân tố thành tạo nền tảng ẩm trong cảnh quan............................. 47 3.1.7. Tác động của con ngƣời - nhân tố liên quan đến việc hình thành và phát triển cảnh quan .............................................................................................................................. 57 3.2. Cấu trúc sinh thái cảnh quan vùng đất ngập nƣớc ven biển Thái Bình ......................... 60 3.2.1. Hệ thống phân loại cảnh quan áp dụng cho thành lập bản đồ sinh thái cảnh quan vùng đất ngập nước ven biển Thái Bình......................................................................... 60 3.2.2. Cấu trúc sinh thái cảnh quan vùng ĐNN ven biển Thái Bình ................................ 63 3.2.3. Đặc điểm các tiểu vùng CQ trên vùng ĐNN ven biển Thái Bình ......................... 75 3.3. Đa dạng sinh học vùng đất ngập nƣớc ven biển Thái Bình .......................................... 78 3.3.1. Đa dạng hệ sinh thái .............................................................................................. 78 3.3.2. Đa dạng loài ........................................................................................................... 86 3.4. Biến động CQ và ĐDSH vùng ĐNN ven biển Thái Bình qua các thời kỳ .................... 97 3.4.1. Một vài nhận thức ................................................................................................ 97 3.4.2. Giai đoạn 1965-1986 ........................................................................................... 98 3.4.3. Giai đoạn 1986-2007 ......................................................................................... 115 1 3.5. Đề xuất định hƣớng quy hoạch sử dụng vùng cho phát triển bền vững ...................... 139 3.5.1. Bối cảnh ............................................................................................................ 139 3.5.3. Nhiệm vụ quy hoạch .......................................................................................... 146 3.5.5. Giải pháp thực hiện các định hƣớng quy hoạch sử dụng vùng ............................ 157 KẾT LUẬN .................................................................................................................... 163 KIẾN NGHỊ .................................................................................................................... 165 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 166 2 MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của luận án Vùng cửa sông ven biển là nơi tiếp giáp giữa lục địa và biển nên ở đây xuất hiện các loài đặc trưng cho môi trường sông biển cùng với những loài thích nghi tồn tại trong các sinh cảnh khác nhau như bãi triều, vũng vịnh, cồn cát,... Do đó, đã từ lâu đất ngập nước (ĐNN) ven biển là địa bàn hoạt động của con người, tạo nên nền kinh tế đa ngành, là đối tượng sử dụng quan trọng trong cơ cấu chung của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, do nhu cầu đời sống ngày một tăng, hoạt động của con người ngày một đa dạng với cường độ ngày càng cao đã để lại cho vùng đất ven biển những hậu quả sinh thái nặng nề, cảnh quan bị xáo trộn, đa dạng sinh học (ĐDSH) bị thất thoát, nguồn lợi sinh vật và chất lượng môi trường suy giảm. Chính vì thế, phát triển bền vững (PTBV) được đưa ra là mục tiêu thiên niên kỷ không chỉ ở mức độ toàn cầu mà còn là của mỗi địa phương nhằm kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Thái Bình là một trong những tỉnh nông nghiệp then chốt thuộc đồng bằng Bắc Bộ với 49,5 km đường bờ biển trải dài trên hai huyện Tiền Hải và Thái Thụy cùng các cửa sông đổ ra biển đã tạo nên hàng ngàn ha đất bãi bồi góp phần mở rộng diện tích cho vùng. Tuy nhiên, cũng như các vùng ĐNN ven biển khác trong điều kiện đất nước đổi mới, nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, sức ép dân số gia tăng nên hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong vùng ngày càng “hối hả” và mãnh liệt hơn làm cho cảnh quan (CQ) bị biến đổi nhanh chóng. Do đó, để có được những định hướng quy hoạch sử dụng vùng theo quan điểm PTBV, chúng tôi đã thực hiện đề tài luận án “Nghiên cứu biến động cảnh quan và đa dạng sinh học đất ngập nước ven biển Thái Bình, định hướng quy hoạch sử dụng vùng cho phát triển bền vững” Mục tiêu nghiên cứu + Nghiên cứu về cấu trúc và xu hướng biến động của các loại cảnh quan trên vùng đất ngập nước ven biển Thái Bình; + Nghiên cứu hiện trạng đa dạng sinh học và biến động các hệ sinh thái tại vùng đất ngập nước ven biển Thái Bình; + Định hướng quy hoạch sử dụng vùng cho phát triển bền vững. 1 Nhiệm vụ nghiên cứu + Tổng hợp các kết quả nghiên cứu khoa học có liên quan; + Tiến hành các đợt khảo sát thực địa và làm việc với các cơ quan quản lý ở địa phương để bổ sung và hoàn chỉnh số liệu; + Tổng quan các quan điểm phân loại cảnh quan, xây dựng hệ thống phân vị và chỉ tiêu cụ thể đối với từng bậc phân loại cảnh quan ở vùng ĐNN ven biển Thái Bình (đối với bản đồ tỷ lệ 1:50.000); + Thành lập các bản đồ chuyên đề (bản đồ lớp phủ thực vật, bản đồ thổ nhưỡng, bản đồ địa mạo), bản đồ sinh thái cảnh quan, bản đồ phân vùng cảnh quan và bản đồ biến động cảnh quan theo thời gian; + Phân tích cấu trúc sinh thái cảnh quan và các tiểu vùng cảnh quan; + Phân tích hiện trạng đa dạng sinh học trong vùng; + Phân tích biến động cấu trúc của các loại cảnh quan theo từng tiểu vùng và biến động các hệ sinh thái trên toàn vùng; + Phân tích các nguyên nhân gây biến động cảnh quan và đa dạng sinh học; + Đề xuất định hướng quy hoạch quản lý tài nguyên cho phát triển bền vững vùng ĐNN ven biển Thái Bình. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: vùng nghiên cứu của luận án là vùng đất ngập nước ven biển Thái Bình được giới hạn ở đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm huyện Tiền Hải và huyện Thái Thụy; về phía biển tính đến độ sâu 6m khi triều kiệt. - Đối tượng: với các mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, luận án được giới hạn trong các vấn đề sau: + Phân tích cấu trúc sinh thái cảnh quan vùng nghiên cứu theo hệ thống phân loại đã lựa chọn ở các mốc thời gian: năm 1965, năm 1986 và năm 2007. + Phân tích biến động cấu trúc các loại cảnh quan theo từng tiểu vùng và biến động của các hệ sinh thái trong vùng qua 2 giai đoạn: 1965-1986 và 1986-2007. + Nghiên cứu hiện trạng đa dạng sinh học (đa dạng hệ sinh thái và đa dạng loài) ở vùng ĐNN ven biển Thái Bình; 2 Những điểm mới của luận án + Xây dựng cơ sở dữ liệu cập nhật về hiện trạng ĐDSH tại vùng nghiên cứu; + Phân loại cảnh quan và thành lập bản đồ sinh thái cảnh quan vùng ĐNN ven biển Thái Bình tỷ lệ 1:50.000; + Lần đầu tiên bản đồ biến động các loại cảnh quan tỷ lệ 1:50.000 cho vùng đất ngập nước ven biển Thái Bình được thành lập. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa khoa học: các kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ hiện trạng các loại cảnh quan và đa dạng sinh học cũng như biến động của chúng trong những giai đoạn lịch sử nhất định của vùng đất ngập nước ven biển Thái Bình. - Ý nghĩa thực tiễn: hệ thống cơ sở dữ liệu, tập bản đồ cũng như các định hướng quy hoạch được đưa ra trong luận án là những tài liệu có giá trị cho các nhà quản lý trong quy hoạch lãnh thổ theo hướng phát triển bền vững. Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, các kiến nghị và tài liệu tham khảo, luận án được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1. Tổng quan tài liệu: tổng quan khái niệm các nội dung có liên quan và các công trình nghiên cứu đã triển khai ở vùng nghiên cứu. Chương 2. Đối tượng, quan điểm và phương pháp nghiên cứu: bao gồm đối tượng và địa điểm nghiên cứu, tài liệu nghiên cứu, các quan điểm nghiên cứu, các nguyên tắc cũng như phương pháp thành lập bản đồ ở vùng nghiên cứu. Chương 3. Kết quả và bàn luận: bao gồm - Các chỉ tiêu phân loại cảnh quan đối với vùng đất ngập nước ven biển Thái Bình tỷ lệ 1:50.000; - Các nhân tố hình thành cảnh quan; - Cấu trúc sinh thái cảnh quan tại các mốc thời gian; - Hiện trạng đa dạng sinh học; - Phân tích biến động các loại cảnh quan và các hệ sinh thái ở từng giai đoạn nghiên cứu và nguyên nhân gây biến động; - Đề xuất định hướng quy hoạch sử dụng vùng cho phát triển bền vững. 3 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Nghiên cứu cảnh quan và hƣớng tiếp cận sinh thái cảnh quan 1.1.1. Các nghiên cứu cảnh quan học Khái niệm CQ đã được hình thành và phát triển từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX bởi các nhà địa lý người Nga như: V. V. Docutraev, L. C. Berg, G. N. Vưxotxkii, G. F. Morozov,… ở Đức có các tác giả: Z. Passarge, A. Hettner; ở Anh có E. J. Gerbertson; và một số ít các nhà địa lý Mỹ, Pháp,… Đầu tiên phải kể đến công trình của V. V. Docutraev (1846-1903), người được coi là nhà khoa học đặt nền móng cho khoa học CQ Xô Viết, là người đầu tiên thực hiện nguyên tắc tổng hợp nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, ông cho rằng thổ nhưỡng là hàm số của tất cả các yếu tố địa lý khác: kiểu nham thạch, khí hậu, sinh vật… Theo ông: “phải nghiên cứu thiên nhiên thống nhất, toàn vẹn và không tách rời từng phần” [54]. Phát triển tư tưởng của Docutraev, năm 1931, L. C. Berg đã đưa ra khái niệm “cảnh quan địa lý là một tập hợp hay một nhóm các sự vật, các hiện tượng, trong đó đặc biệt là địa hình, khí hậu, nước, đất, lớp phủ thực vật và giới động vật cũng như hoạt động của con người hòa trộn với nhau vào một thể thống nhất hòa hợp, lặp lại một cách điển hình trên một đới nhất định nào đó của Trái đất” và cho ra mắt công trình đầu tiên về phân vùng toàn nước Nga (ông gọi đó là các đới CQ) [32, 54, 56, 130] Tuy nhiên, chỉ sau chiến tranh thế giới thứ II, CQ học mới thực sự phát triển mạnh và tìm được chỗ đứng cho mình, khi đó CQ được xác định như một “đơn vị cơ sở dựa trên sự thống nhất các quy luật phân hóa địa đới và phi địa đới”. Các nhà địa lý Liên Xô cũ đã có những đóng góp to lớn vào việc hoàn thiện và phát triển lý thuyết, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu CQ. Và cho đến nay, các nhà khoa học nghiên cứu về CQ ở nước ta chủ yếu đều dựa trên nền tảng lý luận của trường phái nước Nga Xô Viết, cùng thống nhất ba quan niệm về CQ (Từ điển Bách khoa Địa lý Xô viết, 1988) [32, 54, 56] để chỉ các hình thức CQ khác nhau phụ thuộc vào các quan niệm của người nghiên cứu. - Quan niệm chung: CQ được hiểu như một khái niệm chung, ý nghĩa tương tự khái niệm “địa hình”, “khí hậu”, “thổ nhưỡng”,… đồng nghĩa với khái niệm địa tổng thể các cấp. Người đề xuất quan điểm này là F.N. Milkov và được D.L. Armand, P.X. Kuzonhexov, V.P. Prokaev… tích cực ủng hộ. Tuy nhiên, quan niệm này thường “được dùng cho các công trình chung nghiên cứu môi trường tự nhiên hoặc nghiên cứu một 4 dạng sử dụng rất cụ thể như cho các vườn bảo vệ tự nhiên, cho phát triển một số giống, loài nào đó”, bởi CQ ở đó không có giới hạn rõ rệt về lãnh thổ, không theo trật tự phân cấp logic nào. - Quan niệm kiểu loại: CQ là đơn vị cơ sở, là cấp phân vị, đơn vị phân loại trong hệ thống phân chia các thể tổng hợp địa lý tự nhiên lãnh thổ. Mỗi cấp phân chia phải dựa trên các chỉ tiêu đặc trưng và có cấu trúc hình thái riêng từ trên xuống hoặc từ dưới lên. Tuy nhiên, theo quan niệm này cần xét đến sự phân hóa của các đơn vị CQ đều chịu ảnh hưởng của quy luật địa đới và phi địa đới (A. G. Ixatrenco, 1965). Quan niệm này chúng ta thường thấy trong các công trình nghiên cứu của các tác giả A. G. Ixatrenco, Gerenchuc, A. M. Marinhich, N.A. Gvozdexki,.. và của đa số các tác giả nghiên cứu về CQ ở Việt Nam (TT Địa lý tài nguyên nay là Viện Địa lý, Khoa Địa lý trường ĐH Tổng hợp Hà Nội nay là trường ĐH Khoa học Tự nhiên). Quan niệm này có lợi thế trong nghiên cứu thành lập bản đồ CQ phục vụ mục đích thực tiễn, ở tỷ lệ lớn và trung bình, đối với các CQ bị biến đổi bởi các hoạt động của con người. Theo quan niệm này đã có rất nhiều hệ thống phân loại cảnh quan của các tác giả trong và ngoài nước được đề xuất. Đó là hệ thống phân vị cảnh quan của Nhikolaev (1979) gồm 12 bậc: thống → hệ → phụ hệ → lớp → phụ lớp → nhóm → kiểu → phụ kiểu → hạng → phụ hạng → loại → phụ loại. Năm 1985, Phạm Quang Anh [1] đã đưa ra hệ thống phân vị CQ chủ yếu dựa trên cơ sở hệ thống phân vị CQ của Nhikolaev và có điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam, hệ thống đó bao gồm 5 bậc: hệ → phụ hệ → lớp → phụ lớp → kiểu. Trong công trình nghiên cứu định hướng phát triển cây cà phê ở Đăk Lăk (1985) các tác giả Phạm Quang Anh đã tiến hành phân kiểu cảnh quan vùng chuyên canh cà phê ở bản đồ tỷ lệ 1:100.000 với 4 cấp: hệ → lớp → phụ lớp → kiểu cảnh quan [1]. Năm 1993, tập thể tác giả phòng Địa lý tự nhiên thuộc Trung tâm Địa lý Tài nguyên (nay là Viện Địa lý) đã công bố cuốn sách “Nghiên cứu xây dựng bản đồ cảnh quan các tỷ lệ trên lãnh thổ Việt Nam” [55] trong đó hệ thống phân loại CQ Việt Nam bao gồm các cấp: hệ → phụ hệ → lớp → phụ lớp → kiểu → phụ kiểu → hạng → loại cảnh quan, các đơn vị cấu trúc hình thái CQ: dạng địa lý - nhóm dạng - diện địa lý nhóm diện. Mỗi cấp đều có nội dung và chỉ tiêu phân chia cụ thể nhưng các cấp “phụ” không nhất thiết phải phân chia trong mọi trường hợp (nó phụ thuộc vào sự phức tạp của cấp chính) 5 Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh (1997) [32] đã đưa ra bảng “Hệ thống các chỉ tiêu phân loại CQ áp dụng cho bản đồ cảnh quan Việt Nam tỷ lệ 1/1.000.000”, hệ thống này bao gồm các cấp: hệ thống CQ → phụ hệ thống CQ → lớp CQ → phụ lớp CQ → kiểu CQ → phụ kiểu CQ → loại (nhóm loại) CQ. Đơn vị nhỏ hơn cảnh quan trong thứ tự phân loại đó là dạng cảnh quan và diện cảnh quan. Các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về cảnh quan cũng đã đưa ra các định nghĩa khác nhau cho chúng [32]. Hệ thống phân loại là một trong những khâu quan trọng để thành lập bản đồ CQ. Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có một hệ thống phân loại nào được công nhận là có đầy đủ cơ sở khoa học và chỉ tiêu cụ thể cho từng cấp. Do đó mà khi tiến hành nghiên cứu, thành lập bản đồ CQ trên các khu vực, các tỷ lệ khác nhau các tác giả thường xác lập một hệ thống phân loại trên cơ sở những hệ thống phân loại đã có trước. - Quan niệm cá thể: Người đầu tiên đề xướng quan niệm này là L. X. Berg và sau này được phát triển trong các công trình của A. A. Grigoriev (1957), X. V. Kalexnic (1947-1959), A. G. Ixatrenco (1953, 1965, 1989), N. A. Xolnsev (1948, 1949), theo đó CQ là những cá thể địa lý không lặp lại trong không gian, là đơn vị địa lý tự nhiên cơ sở, là đối tượng cơ bản để nghiên cứu lãnh thổ. Theo quan niệm này, Vũ Tự Lập khi nghiên cứu CQ địa lý Miền Bắc Việt Nam đã định nghĩa: “CQ địa lý là một tổng thể được phân hoá trong phạm vi một đới ngang ở đồng bằng và một đai cao ở miền núi, có cấu trúc thẳng đứng đồng nhất về nền địa chất, kiểu địa hình, kiểu khí hậu, kiểu thuỷ văn, về đại tổ hợp thổ nhưỡng, đại tổ hợp thực vật mà bao gồm tập hợp có quy luật của những dạng địa lý và những đơn vị cấu tạo nhỏ khác theo một cấu trúc ngang đồng nhất” [52], ở đó các cá thể CQ của ông không lặp lại ở bất kỳ lãnh thổ khác. Cảnh quan học đã cung cấp lý luận về tính hệ thống và tính thứ bậc chặt chẽ trong cấu trúc môi trường của sinh vật, là cơ sở hình thành hướng tiếp cận sinh thái cảnh quan của trường phái Nga Xô Viết (cũ) và được các nhà cảnh quan học Việt Nam kế thừa, phát triển. 1.1.2. Các nghiên cứu sinh thái học, hệ sinh thái Sinh thái học (ecology) là một khoa học cơ bản trong sinh vật học, nghiên cứu các mối quan hệ của sinh vật với sinh vật và sinh vật với môi trường ở mọi mức tổ chức, từ cá thể, quần thể đến quần xã sinh vật và hệ sinh thái (HST) [72]. 6 Thuật ngữ sinh thái học xuất hiện từ giữa thế kỷ XIX bởi một nhà động vật học người Đức, Haeckel (1866), đó là “nghiên cứu tổ hợp các mối tương quan của con vật với môi trường của nó và trước tiên là mối quan hệ “bạn bè”, “thù địch” với một nhóm động, thực vật mà con vật đó tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp” [72, 76]. Đến đầu thế kỷ XX, sinh thái học chuyển sang nghiên cứu sinh thái học quần xã sinh vật. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, sinh thái học đã phát triển một bước quan trọng, coi hệ sinh thái như là một đơn vị cơ sở, gồm hai hệ thống nhỏ quần xã sinh vật và môi trường. Cho đến nay, sinh thái học đã trở thành một khoa học giúp chúng ta ngày càng hiểu biết sâu về bản chất của sự sống trong mối tương tác với các yếu tố môi trường, từ đó tạo nên những nguyên tắc, định hướng cho chiến lược phát triển bền vững của xã hội con người. Khái niệm hệ sinh thái (ecosystem) lần đầu tiên được đề xuất bởi nhà sinh thái học A. Tansley (1935) đó là “một tập hợp các vật sống (thực vật, động vật, vi sinh vật) và môi trường vô cơ nơi chúng sinh sống (khí hậu, đất)”, sau đó được các nhà sinh thái học ở Mỹ kế thừa và phát triển (Linderman, 1942; Odum, 1971; Whittaker, 1975). Khái niệm này đã chỉ ra mối quan hệ giữa các yếu tố vô sinh (đối tượng nghiên cứu của các nhà địa lý) với các yếu tố hữu sinh (đối tượng nghiên cứu của các nhà sinh học), là cơ sở để hình thành khái niệm “sinh thái cảnh quan” (landscape ecology). Các nghiên cứu của Holling (1992) cũng đã kết luận: mọi hệ sinh thái đều được điều khiển và tổ chức bởi các loài sinh vật ưu thế và các quá trình vô sinh đặc thù để tạo thành cấu trúc cảnh quan ở các tỷ lệ khác nhau [86]. Từ các nghiên cứu sinh thái học và hệ sinh thái cho thấy, nhược điểm của tiếp cận nghiên cứu hệ sinh thái là không xác định được thứ bậc về không gian của lãnh thổ nghiên cứu, do đó có thể bao trùm lên không gian bất kỳ từ hệ sinh thái gốc cây, hệ sinh thái rừng đến hệ sinh thái vũ trụ. Đó chính là lý do mà các nhà sinh thái rất quan tâm đến cách tiếp cận không gian của địa lý học với hệ thống phân vị chặt chẽ, có ý nghĩa thực tiễn rất cao trong nghiên cứu sinh thái học. Bên cạnh đó, các nhà cảnh quan học “sinh thái hóa cảnh quan” để định lượng hóa các chỉ tiêu về trao đổi vật chất, trao đổi năng lượng trong CQ. Và bản thân việc hội tụ của CQ và sinh thái học đã thể hiện “nhân” và “quả” của phân hóa tự nhiên, của sự tương tác giữa thế giới vô cơ và hữu cơ [55, 129]. 1.1.3. Tiếp cận sinh thái cảnh quan Hướng nghiên cứu sinh thái cảnh quan hay địa sinh thái đã phát triển mạnh ở CHLB Đức và một số nước Bắc Âu từ những năm 60 của thế kỷ XX. Theo hướng này 7 Hội Sinh thái cảnh quan Quốc tế đã được thành lập năm 1982 và cho đến nay “sinh thái cảnh quan” đã trở thành một bộ môn khoa học có đối tượng nghiên cứu rõ ràng. Theo Rister và nnk (1984) “sinh thái CQ nghiên cứu sự phát triển và động lực của tính không đồng nhất không gian, các mối tương tác và trao đổi theo thời gian và không gian thông qua các cảnh quan không đồng nhất, các ảnh hưởng của tính phân dị không gian đến các quá trình sinh học và phi sinh học, quản lý tính phân dị không gian đó” [122, 127]. Sinh thái cảnh quan là một hướng nghiên cứu liên ngành và tổng hợp hình thành trên cơ sở kết hợp các phương pháp nghiên cứu định lượng của sinh thái học và tính tổng hợp, tính trật tự, tính phân cấp của cảnh quan học nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội. Sinh thái học cảnh quan ra đời với mục đích xúc tiến sự liên kết giữa các nhà khoa học và các nhà lập kế hoạch [129]. Tuy nhiên, lần đầu tiên thuật ngữ “sinh thái cảnh quan” được đưa ra bởi nhà địa lý sinh vật người Đức Carl Troll (1939), ông đã tiến hành nghiên cứu sinh thái của cảnh quan nhằm xác định chất lượng cân bằng thiên nhiên của vật chất trong phạm vi một vùng hoặc một phần lãnh thổ. Sinh thái cảnh quan là học thuyết tổng hợp về cân bằng thiên nhiên, nhờ đó có thể nhận biết được mối quan hệ tương hỗ chức năng tồn tại bên trong các cảnh quan, hiểu được tính nhân quả sinh học và lý-hóa của chúng và xác định (số lượng và chất lượng) trật tự phụ thuộc trong tổng hợp thể hiện tự nhiên này của các quan hệ chế ước lẫn nhau. Theo ông, sinh thái cảnh quan có hai nội dung nghiên cứu chính: (1) nghiên cứu cảnh quan bằng con đường phân tích mối quan hệ qua lại giữa các quần thể sinh vật với môi trường; (2) nghiên cứu quan hệ giữa các tổng thể tự nhiên với nhau, kể cả ảnh hưởng của những hoạt động của con người [124]. Nếu như mục đích của nghiên cứu cảnh quan truyền thống là tìm ra các đơn vị cảnh quan đồng nhất theo các cấp khác nhau trong không gian (giống như một bức khảm) thì các nhà nghiên cứu sinh thái cảnh quan đang tích cực nghiên cứu và xây dựng các nguyên tắc về các kiểu đa dạng sinh học và các quá trình tự nhiên xảy ra trong nội bộ bức khảm đó và mối liên quan với bức khảm lân cận nhằm thực hiện các ý đồ về quy hoạch, thiết kế, quản lý và lập các chính sách về đất đai [31, 32, 122, 124]. Ở đó có sự hội tụ và bổ sung cho nhau của hai ngành địa lý và sinh học. Các nhà địa lý đi từ giới vô cơ dần dần đến giới hữu cơ và cuối cùng đã thấy sinh vật đóng vai trò chủ đạo trong các hệ tự nhiên và hệ tự nhiên hoạt động tốt nhất là hệ tự nhiên có năng suất sinh vật cao nhất [126]. Do vậy, cải tạo hệ tự nhiên phải bắt đầu bằng việc cải tạo 8 thực vật. Các nhà sinh học khi tìm hiểu giới sinh vật không thể không đề cập đến môi trường vô cơ như đất, nước, không khí. Cả hai đều phát sinh phát triển trong mối quan hệ tương tác và thống nhất với nhau thành một hệ tự nhiên. Từ các quan điểm nêu trên, luận án thống nhất với quan niệm kiểu loại trong nghiên cứu cảnh quan vùng ĐNN ven biển Thái Bình, trong đó đơn vị cơ sở được sử dụng là “loại cảnh quan”. Tuy nhiên, ngay trong cấu trúc của mỗi loại cảnh quan tính sinh thái đã được thể hiện từ sự kết hợp của các nhân tố môi trường và quần xã sinh vật, nên thuật ngữ “cảnh quan” và “sinh thái cảnh quan” được coi là đồng nhất trong nội dung luận án. Đồng thời, quan niệm cá thể, thể hiện tính phân vị chặt chẽ trong phân hóa lãnh thổ, cũng đã được phân tích trong cấu trúc của các tiểu vùng sinh thái cảnh quan. 1.2. Đa dạng sinh học Thuật ngữ "Đa dạng sinh học" (biodiversity, biological diversity) lần đầu tiên được Norse and McManus (1980) đưa ra, bao hàm hai khái niệm có liên quan với nhau là đa dạng di truyền (tính đa dạng về mặt di truyền trong một loài) và đa dạng sinh thái (số lượng các loài trong một quần xã sinh vật). Cho đến nay đã có ít nhất 25 định nghĩa cho thuật ngữ này. Theo Công ước Đa dạng sinh học (1992) thì "Đa dạng sinh học là sự phong phú của mọi cơ thể sống có từ tất cả các nguồn trong các HST trên cạn, ở biển và các hệ sinh thái dưới nước khác, và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên” [8, 39]. Từ góc độ này, người ta có thể tiếp cận với ĐDSH ở cả ba mức độ: mức độ phân tử (đa dạng di truyền), mức độ cơ thể (đa dạng loài) và mức độ hệ sinh thái (đa dạng hệ sinh thái) (IUCN, 1994). Một số công bố gần đây cho thấy ĐDSH bao gồm cả đa dạng văn hóa, là sự thể hiện của xã hội con người, một thành viên của thế giới sinh vật và đồng thời là một nhân tố quan trọng của các HST. Đa dạng văn hóa được thể hiện bằng sự đa dạng ngôn ngữ, tín ngưỡng tôn giáo, tri thức bản địa, bản sắc văn hóa độc đáo cũng mỗi dân tộc. Do đó, ĐDSH được coi là sản phẩm của sự tương tác giữa hai hệ thống tự nhiên và xã hội. Đa dạng sinh học có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự nhiên và cân bằng sinh thái, đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài người, sự bền vững của thiên nhiên trên trái đất. Theo ước tính giá trị của tài nguyên đa dạng sinh học toàn cầu cung cấp cho con người là 33.000 tỷ đô la mỗi năm (Constan Za et al., 1997). Đối với Việt Nam nguồn tài nguyên đa dạng sinh học trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản hàng năm cung cấp cho đất nước khoảng 2 tỷ đô la [21]. 9 1.2.1. Đa dạng sinh học ở Việt Nam Nằm ở vùng Đông Nam châu Á, Việt Nam là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới. Đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu,… của Việt Nam đã góp phần tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái và các loài sinh vật. Về mặt địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các hệ động thực vật thuộc vùng Ấn Độ-Miến Điện, Nam Trung Quốc và Indo-Malaysia. Các đặc điểm trên đã tạo cho nơi đây trở thành một trong nhưng khu vực có tính đa dạng sinh học cao của thế giới với khoảng 10% số loài sinh vật trong khi chỉ chiếm 1% diện tích đất liền trên thế giới [21]. 1.2.1.1. Đa dạng nguồn gen Việt Nam được đánh giá là một trong 12 trung tâm nguồn gốc giống cây trồng và cũng là trung tâm thuần hóa vật nuôi nổi tiếng thế giới (Jucovski, 1970). Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005) [8, 21], Việt Nam có 11 loài gia súc và gia cầm đang được chăn nuôi với tổng số 106 giống (53 giống nội và 53 giống nhập ngoại); 802 loài cây trồng phổ biến với hàng nghìn giống khác nhau thuộc 16 nhóm cây trồng. Các loài cá nuôi có nguồn gốc từ nước ngoài được nhập và thuần dưỡng ở Việt Nam khoảng 50 loài trong đó có 35 loài cá cảnh, còn lại là các loài cá nuôi lấy thịt. 1.2.1.2. Đa dạng loài Số lượng các loài sinh vật nhiều, sinh khối lớn; cấu trúc loài rất đa dạng, có nhiều loài có hàng chục dạng sống khác nhau; khả năng thích nghi của loài cao, có đặc tính chống chịu cao đối với các thay đổi của các yếu tố và điều kiện ngoại cảnh. Theo các tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ đa dạng sinh học cao trên thế giới với dự tính có thể tới 20.00-30.000 loài thực vật, thành phần loài động vật, thực vật ở Việt Nam được thống kê trong bảng 1.1. Bảng 1.1. Sự phong phú thành phần loài sinh vật ở Việt Nam TT Nhóm sinh vật 1 Số loài đã xác định Số loài có trên Tỷ lệ (%) số được ở Việt Nam (VN) thế giới (TG) loài VN/TG Vi tảo - Nước ngọt 1.438 15.000 9,6 - Biển 537 19.000 2,8 10 TT Nhóm sinh vật 2 Số loài đã xác định Số loài có trên Tỷ lệ (%) số được ở Việt Nam (VN) thế giới (TG) loài VN/TG Rong, cỏ - Nước ngọt Khoảng 20 2.000 1 - Biển 667 10.000 6,8 Thực vật bậc cao Khoảng 11.400 220.000 5 - Rêu 1.030 22.000 4,6 - Nấm lớn 826 50.000 1,6 - Nước ngọt 794 80.000 1 - Biển Khoảng 7.000 220.000 3,2 - Đất Khoảng 1.000 30.000 3,3 7 Côn trùng 7.750 250.000 3,1 8 Cá 19.000 13 6.300 4,7 3 4 Động vật KXS - Nước ngọt Trên 700 - Biển 2.527 Bò sát 296 - Bò sát biển 21 10 Lưỡng cư 162 4.184 3,8 11 Chim 840 9.040 9,3 12 Thú 310 4.000 7,5 - Thú biển 25 9 Nguồn: [8, 75] 1.2.1.3. Đa dạng hệ sinh thái Trên lãnh thổ Việt Nam có rất nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau [8] (bảng 1.2). Thành phần các quần xã trong hệ sinh thái rất giàu cùng với cấu trúc quần xã phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh làm cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các nước khác trên thế giới. 11 Bảng 1.2. Một số hệ sinh thái chính ở Việt Nam TT Hệ sinh thái Đặc điểm đa dạng sinh học 1 Rừng nguyên sinh ĐDSH giàu, hệ sinh thái bền vững 2 Rừng thứ sinh ĐDSH trung bình, hệ sinh thái tương đối bền vững 3 Rừng nghèo kiệt ĐDSH nghèo, hệ sinh thái kém bền vững 4 Trảng cỏ ĐDSH nghèo, hệ sinh thái đơn giản 5 Rừng ngập mặn ĐDSH giàu, hệ sinh thái kém bền vững 6 Trảng cát ven biển ĐDSH nghèo, hệ sinh thái kém bền vững, nhạy cảm 7 Núi đất ĐDSH trung bình, hệ sinh thái tương đối bền vững 8 Núi đá ĐDSH nghèo, hệ sinh thái kém bền vững 9 Hệ sinh thái nông nghiệp ĐDSH nghèo, hệ sinh thái kém bền vững 10 Đô thị và khu công nghiệp ĐDSH rất nghèo, hệ sinh thái kém bền vững 11 Nước chảy (suối, sông) ĐDSH trung bình, hệ sinh thái tương đối bền vững 12 Hồ, mặt nước lớn ĐDSH trung bình, hệ sinh thái tương đối bền vững 13 Ao, mặt nước nhỏ ĐDSH nghèo, hệ sinh thái nhạy cảm 14 Bán ngập nước ĐDSH nghèo, hệ sinh thái nhạy cảm 15 Nước lợ, cửa sông ĐDSH giàu, hệ sinh thái nhiều biến động 16 Biển ven bờ ĐDSH giàu, hệ sinh thái nhiều biến động 17 Biển sâu ĐDSH trung bình, hệ sinh thái bền vững 18 Thủy vực ngầm, hang động ĐDSH nghèo, hệ sinh thái nhạy cảm Nguồn: [8] Đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam còn thể hiện ở tính phong phú của các mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý và các yếu tố sinh học, giữa các nhóm sinh vật với nhau, giữa các loài, giữa các quần thể cùng loài; mạng lưới dinh dưỡng, các chuỗi dinh dưỡng với nhiều khâu nối tiếp nhau; các mối quan hệ năng lượng được thực hiện song song với các mối quan hệ vật chất, nhiều tầng bậc thông qua các nhóm sinh vật (sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ và sinh vật phân hủy). Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là các hệ sinh thái nhạy cảm, tính mềm dẻo sinh thái cao làm cho các hệ đó luôn ở trong trạng thái hoạt động mạnh do đó thường rất 12 nhạy cảm với các tác động từ bên ngoài (kể cả các tác động của thiên nhiên cũng như những tác động của con người). 1.2.2. Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam Con người hiện đang phá hủy một trong những nguồn tài nguyên quý giá nhất mà không thể thay thế được trên thế giới là đa dạng sinh học, cơ sở của sự sống còn, sự thịnh vượng và sự phát triển bền vững của xã hội loài người. Chúng ta đã không biết giữ gìn nó mà lại đang khai thác quá mức, tiêu hao và phá hủy nói với danh nghĩa là để phát triển. Thực tế, sự suy thoái ĐDSH trên Trái đất đang âm thầm phá hủy khả năng phát triển của loài người. Chính vì thế, mục tiêu của bảo tồn ĐDSH “nhằm giữ được sự cân bằng tối đa giữa bảo tồn sự đa dạng của thiên nhiên và tăng cường chất lượng cuộc sống của con người” [39]. Bảo tồn ĐDSH ở đây là nói đến các hoạt động nhằm gìn giữ được ĐDSH về các mặt: cung cấp nguyên vật liệu cần thiết cho cuộc sống của con người, các giá trị về xã hội, văn hóa và các dịch vụ về sinh thái. Bảo tồn ĐDSH cũng bao gồm cả các hoạt động liên quan đến bảo tồn các loài, nguồn gen có trong mỗi loài và các sinh cảnh, các cảnh quan thông qua việc bảo tồn các hệ sinh thái và việc khai thác một cách hợp lý nguồn tài nguyên sinh vật. Ở Việt Nam, công tác bảo tồn ĐDSH được tiến hành khá sớm với hai hình thức phổ biến là bảo tồn nội vi (in-situ) và bảo tồn ngoại vi (ex-situ). Bảo tồn nội vi bao gồm các phương pháp và công cụ nhằm mục đích bảo vệ các loài, các chủng và các sinh cảnh, các hệ sinh thái trong điều kiện tự nhiên. Tùy theo đối tượng bảo tồn để có các hình thức quản lý thích hợp. Đây là hình thức bảo tồn ĐDSH chủ yếu ở Việt Nam trong thời gian qua bằng việc thành lập các khu bảo tồn và đề xuất các biện pháp quản lý phù hợp. Kết quả thể hiện rõ nhất của phương pháp bảo tồn này là một hệ thống rừng đặc dụng (128 khu bảo tồn rừng) đã được Chính phủ công nhận và đưa vào hoạt động [21]. Bảo tồn ngoại vi bao gồm các biện pháp di dời các loài cây, con và các vi sinh vật ra khỏi môi trường sống tự nhiên của chúng. Đó là việc hình thành các vườn thực vật, vườn động vật, các bể nuôi thủy hải sản, các bộ sưu tập vi sinh vật, các bảo tàng, các ngân hàng hạt giống, bộ sưu tập các chất mầm, mô cấy,…. Phương pháp bảo tồn này được xác định là tương đối mới ở nước ta, tuy nhiên trong những năm qua cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định. Tính đến năm 2006 đã có 17 khu rừng thực 13 nghiệm được hình thành với tổng diện tích 8.516 ha; 7 vườn cây thuốc và việc lưu giữ nguồn giống cây trồng, vật nuôi mới được thực hiện ở một số cơ sở nghiên cứu. 1.3. Tổng quan về đất ngập nƣớc 1.3.1. Cấu trúc và chức năng đất ngập nước Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều cách định nghĩa về ĐNN khác nhau (trên 50 định nghĩa về ĐNN) tùy theo mức độ ngập nước và mục đích sử dụng khác nhau. Tuy nhiên, định nghĩa về ĐNN của Công ước RAMSAR (Công ước về các vùng ĐNN có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi cư trú của các loài chim nước, năm 1971) có tầm khái quát và bao hàm nhất. Theo định nghĩa này, ĐNN là "những đầm lầy than bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo thường xuyên hay tạm thời với nước chảy hay nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước mặn kể cả những vùng nước biển có độ sâu không quá 6m khi triều thấp” (Điều 1.1. Công ước Ramsar, 1971) [4, 11, 116] ĐNN rất đa dạng về loại hình và kích cỡ, được coi như cấu phần của cảnh quan tự nhiên, phản ảnh những đặc trưng về tự nhiên và sinh học, xác định khuôn khổ của các quy hoạch quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học, tài nguyên và các chức năng sinh thái của nó [128]. Trong cấu trúc, quần xã sinh vật là thành phần quan trọng vì nó là sản phẩm đặc biệt được sinh ra trong những hoàn cảnh cụ thể của ĐNN, song trong hoạt động sống, quần xã sinh vật lại làm biến đổi những đơn vị cấu trúc khác của ĐNN. Những mối tương tác như thế cần được xem là cơ sở của nhận thức, đồng thời trong nghiên cứu, chúng cần được định lượng mới đem lại thành công trong việc khai thác, sử dụng và quản lý các loại hình ĐNN. Từ năm 1971, Công ước Ramsar đã chia ĐNN thành 22 loại hình mà không chia thành các hệ và lớp. Đến nay, đã có rất nhiều hệ thống phân loại ĐNN (theo thứ bậc) được đưa ra trên cơ sở phân loại của Ramsar bởi các tác giả khác nhau tùy theo mục đích, mục tiêu sử dụng và bảo tồn nhưng vẫn chưa có một hệ thống nào thống nhất trên toàn quốc. Vùng ĐNN ven biển được xác định là một trong hai hệ thống của ĐNN Việt Nam thuộc hệ thống phân loại của Cục Bảo vệ môi trường hợp tác với Dự án ngăn ngừa xu hướng suy thoái môi trường biển Đông và vịnh Thái Lan (hợp phần ĐNN) đưa ra năm 2007 mà dưới đó là các phụ hệ thống, lớp và kiểu ĐNN [11]. Diện tích ĐNN trên thế giới được đánh giá vào khoảng 5,2 triệu km2, phân bố rất rộng, từ các bãi lầy rừng ngập mặn nhiệt đới đến đất than bùn cận cực, từ các vực nước 14 nông đến những nơi đất cao bão hòa nước… Ở Việt Nam, ĐNN có trên 10 triệu ha, là chỗ dựa cơ bản cho cuộc sống hàng ngàn năm của dân tộc [76]. Hai vùng ĐNN quan trọng nhất được tạo nên bởi hai hệ thống sông lớn nhất là châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Cửu Long. Cùng với ĐNN nước ngọt là hàng vạn ha ĐNN ven biển là cơ sở quan trọng cho sự phát triển của nghề cá ở nước ta. ĐNN có những chức năng sinh thái quan trọng, cũng như giá trị kinh tế to lớn trong đời sống tự nhiên và của con người, đó là nơi tích tụ, xuất khẩu và biến đổi của các chất dinh dưỡng, duy trì nguồn nước, chuyển hóa năng lượng, … (chức năng sinh thái). ĐNN là nơi sống, nơi kiếm ăn, bãi đẻ của các loài động vật; nơi thanh lọc các chất ô nhiễm, chống xói lở và bào mòn bờ bãi (bảo vệ bờ biển), duy trì độ phì nhiêu cho đất; là nơi cung cấp cho con người những sản vật đa dạng mà trước hết là các đối tượng thiết yếu đối với đời sống được khai thác từ các ngành nông-lâm-ngư nghiệp [116, 121]. 1.3.2. Đất ngập nước châu thổ sông Hồng ĐNN thuộc châu thổ sông Hồng chịu sự chi phối trực tiếp của hệ thống sông Hồng-sông Thái Bình, kéo dài theo đường bờ biển từ Đồ Sơn (Hải Phòng) đến Lạch Trường (Thanh Hoá). Vùng này có trên 10 cửa sông lớn nhỏ đổ nước ra biển, tham gia vào quá trình thành tạo và biến đổi CQ cũng như nhiều đặc tính khác của vùng. Nhiều cửa sông bị con người xây cống chặn lại như cống Lân (cửa Lân), cống Trà Linh I, II (cửa Diêm Điền), cống Ngô Đồng và Nhất Đỗi trên sông Sò (Nam Định) [15, 17, 24]. Nhìn chung, vùng đất ngập nước ven biển châu thổ sông Hồng rộng và tương đối bằng phẳng, nghiêng ra phía biển Đông vài chục phút đến vài độ, với các cửa sông dạng delta điển hình. Địa hình bờ và đáy biển ở đây được phát triển trên cấu trúc sụt võng trong Kainozoi - trũng sông Hồng có phương Tây Bắc - Đông Nam, khá bằng phẳng và bị chia cắt ngang mạnh bởi các cửa sông và lạch. Đường bờ có 2 hướng chính: hướng Bắc - Nam từ Đồ Sơn đến cửa Ba Lạt và hướng Đông Bắc - Tây Nam từ Ba Lạt đến Lạch Trường. Yếu tố động lực đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển bờ là sông và dòng biển (dòng triều, hải lưu ven bờ và dòng sóng). Bờ biển ở đây thuộc loại không ổn định, quá trình tích tụ chiếm ưu thế, điều này dẫn đến quá trình tiến hoá và hình thành vùng đất ngập nước mới. Lục địa ven biển là vùng đồng bằng thấp của châu thổ sông Hồng hiện đại nằm trong đê biển có độ cao trung bình 3 - 4 m, một số 5 - 6 m [3, 17, 83]. 15 Đặc điểm lớn nhất của vùng đất ngập nước ven bờ châu thổ sông Hồng là quá trình bồi tụ mở rộng ngang và bồi tụ nổi cao của các khu đất bồi trên các bãi triều chiếm ưu thế. Chế độ động lực sông giữ vai trò thống trị, lục địa vẫn tiến ra biển, với tốc độ từ 25 m/năm ở phía Đông Bắc đến 80 - 100 m/năm tại cửa Thái Bình, Ba Lạt và phần Tây Nam châu thổ. Tại cửa Đáy sau 60 năm, bồi tụ được 3526 ha, tốc độ trung bình là 58,7 ha/năm. Sau 40 năm (1960 - 2000), tỉnh Thái Bình đã quai đê lấn biển, diện tích đất được mở rộng thêm là 2.400 ha, trung bình 60 ha/năm. Riêng huyện Kim Sơn (Ninh Bình), mỗi năm lấn ra biển 100 m, diện tích đất bồi được mở rộng hàng năm là 81 ha. Tuy nhiên, vẫn có khoảng 20 % chiều dài bờ châu thổ bị xói lở với tốc độ khá mạnh. Đặc biệt, ở bờ biển Văn Lý (Hải Hậu, Nam Định) trong vòng 60 năm (1936-1996) đã bị xói lở mất 650 ha trên chiều dài 30 km, tốc độ trung bình hiện nay là 10 - 15 m/năm, bởi sự thiếu hụt trầm tích, có thể liên quan với sự hình thành cống Ngô Đồng [15, 17, 83, 85]. Căn cứ vào hoạt động của mực nước triều, ở đây có thể được chia thành 3 đới với những đặc tính đất rất khác nhau [17, 47]: - Đới trên triều là nơi đất thắng biển, môi trường nước ngọt, kể cả phần bãi chưa được bồi hoàn chỉnh, nhưng được con người khoanh lại bằng hệ thống đê. Đất được sử dụng để định cư và sản xuất nông nghiệp. Đây là địa bàn trọng yếu nhất, không chỉ ổn định, trên đó đã thiết lập nên nền kinh tế nông nghiệp ổn định, lâu đời với dân cư đông đúc và tiềm lực lao động dồi dào mà còn trở thành cơ sở xuất phát để khai hoang lấn biển, khai thác tiềm lực kinh tế của các vùng tiếp theo. - Đới triều là nơi ngập nước có chu kỳ, đây là nơi biến động nhất và trên đó tồn tại những hệ sinh thái rất nhạy cảm với các tác động của tự nhiên và của con nguời như RNM, bãi cỏ biển. - Đới ngập nước ven bờ (tính từ 0m hải đồ đến độ sâu 20-30m) là địa bàn rộng nhất, diện tích được đánh giá khoảng 1000 km2, rộng 5-15 km, kéo dài từ Đồ Sơn đến Lạch Trường, nơi diễn ra các quá trình sinh địa hoá quan trọng của đới ven biển, đồng thời tạo cơ sở cho nghề khai thác hải sản và giao thông biển phát triển. Ngoài các đới chung nêu trên, tại vùng ĐNN châu thổ sông Hồng còn xuất hiện một dạng địa hình đặc biệt, đó là các cồn và cồn cát ngầm cửa sông. Các cồn cát cửa sông như cồn Đen, cồn Vành, cồn Thủ (bắc cửa Ba Lạt), cồn Ngạn, cồn Lu (nam cửa Ba Lạt) có độ cao thay đổi từ 0,5 - 1,5m. Xa hơn là các cồn Xanh, cồn Mờ, Cồn Tỏ... đang 16 dần nhô lên khỏi mức nước biển, nhưng chưa ổn định. Sự án ngữ của đảo trước các cửa sông thường tạo nên ở phía trong các khu lắng đọng các trầm tích mịn, làm nền cho rừng cây ngập mặn phát triển, còn phía biển, được cấu tạo bằng các trầm tích hạt thô hơn. 1.3.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến vùng đất ngập nước ven biển Thái Bình Kết quả hệ thống hóa các công trình nghiên cứu liên quan đến vùng đất ngập nước ven biển Thái Bình từ trước cho đến nay [15, 16, 17, 20, 36, 37, 42, 52, 60, 61, 62, 70, 74, 81, 89, 91, 94, 95] cho thấy, phần lớn các công trình nghiên cứu triển khai ở vùng ĐNN ven biển Bắc Bộ, vùng châu thổ sông Hồng mà các nghiên cứu cho một vùng cụ thể như Thái Bình còn đơn lẻ; có thể chia thành 4 nhóm công trình: 1.3.3.1. Nhóm các công trình điều tra tổng hợp Đầu tiên phải kể đến công trình “Điều tra tổng hợp vùng cửa sông ven biển châu thổ Bắc bộ nhằm khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường“, Đề tài 52.02.02 do Vũ Trung Tạng chủ nhiệm (giai đoạn 1980-1985) [71]. Tiếp theo là các đề án điều tra cơ bản nhằm khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên dải ven biển như công trình của Nguyễn Đức Cự (1996-1998), Nguyễn Gia Thắng (1998), [86]…. Gần nhất có công trình của Phạm Thế Vĩnh (2004) nghiên cứu cảnh quan sinh thái dải ven biển đồng bằng sông Hồng tỷ lệ 1:100.000 và các định hướng sử dụng hợp lý lãnh thổ [113]. 1.3.3.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về các hợp phần tự nhiên - Nghiên cứu địa chất, địa mạo Đề cập tới tính chất bồi tụ của châu thổ có các công trình của Lê Bá Thảo (1964), Huỳnh Ngọc Hương và Nguyễn Đức Chính (1996). Nghiên cứu về lịch sử tiến hóa vùng nghiên cứu được công bố bởi các tác giả: Hoàng Ngọc Kỷ (1977) nghiên cứu địa chất Đệ tứ đồng bằng Bắc Bộ; Nguyễn Đức Khả (1988) nghiên cứu sự tiến triển của đường bờ biển Thái Bình trong Holoxen muộn hiện đại và vấn đề quai đê lấn biển; Doãn Đình Lâm (2003) nghiên cứu lịch sử tiến hóa trầm tích Holocen châu thổ sông Hồng [52]. Tác giả Nguyễn Hoàn cũng đã công bố kết quả nghiên cứu địa hình và trầm tích tầng mặt vùng ven biển Thái Bình (1986) và nghiên cứu biến đổi địa hình và quá trình hình thành các cồn bãi ở khu vực cửa sông Hồng (cửa Ba Lạt) (1996) [36, 37]… Bên cạnh đó còn có các công trình nghiên cứu về động lực dải ven bờ như của Nguyễn Thế Tiệp (1993), 17 Nguyễn Văn Cư (1994), Hoa Mạnh Hùng (2001 và 1994); Nguyễn Hoàn (1990), [16, 46, 94]…. Từ các kết quả đó, cơ chế thành tạo vùng cửa sông ven biển đồng bằng sông Hồng được làm sáng tỏ. - Nghiên cứu hợp phần khí hậu Vùng nghiên cứu thuộc dải đồng bằng ven biển, đặc điểm địa hình không phân hóa nhiều nên điều kiện khí hậu khá đồng nhất do đó các nghiên cứu về hợp phần này chưa được tập trung, đáng kể có công trình về “Phân kiểu sinh khí hậu” của Nguyễn Can (1994) và “Điều kiện sinh khí hậu dải ven biển Việt Nam” của Mai Trọng Thông và nnk (1994) [20, 87, 107]. - Nghiên cứu về thổ nhưỡng Năm 1994 và 1995, tác giả Trần Duy Tứ và đồng nghiệp đã tiến “Đánh giá tài nguyên đất dải ven biển đồng bằng sông Hồng” và "Đánh giá hiện trạng sử dụng tài nguyên đất huyện Tiền Hải và Thái Thụy tỉnh Thái Bình”. Gần đây nhất, Nhữ Thị Xuân, đã công bố công trình “Ứng dụng hệ thông tin địa lý trong thành lập bản đồ phân hạng thích nghi đất lúa tỉnh Thái Bình” (2005) và “Đánh giá tiềm năng đất đai phục vụ định hướng sử dụng đất nông nghiệp huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình với sự trợ giúp của GIS-ALES” (2006) - Nghiên cứu về đa dạng sinh học và tài nguyên sinh vật Từ những năm 1961, 1964-1965, 1967-1969, Tổng cục Thủy sản kết hợp với các Viện nghiên cứu của Liên Xô (cũ) và Viện Nghiên cứu biển đã tiến hành điều tra thành phần các loài sinh vật trên vùng triều bờ Tây vịnh Bắc Bộ và các cửa sông (Ba Lạt, Lạch Giang, Đáy). Tiếp theo phải kể đến các nghiên cứu về đa dạng thành phần các nhóm loài sinh vật ở vùng ĐNN ven biển Thái Bình như của Phạm Đình Trọng, Đỗ Văn Nhượng và Hoàng Ngọc Khắc (động vật đáy); Lê Nguyên Ngật và Trần Giang Hoàn (lưỡng cư, bò sát); Trần Thanh Thản, Dương Ngọc Cường và Trần Minh Khoa (cá); Lê Diên Dực, Lê Đình Thủy (chim) [19, 24, 62, 89, 90, 95, 96]…. Về thảm thực vật ven biển được mở đầu bằng công trình được công bố trong luận án PTS Sinh học của Phan Nguyên Hồng (1970), “Đặc điểm sinh thái, phân bố của hệ thực vật và thảm thực vật ven biển miền Bắc Việt Nam”. Về đặc trưng đa dạng hệ sinh thái có các công trình như: “Hệ sinh thái vùng triều miền Bắc Việt Nam” của Nguyễn Xuân Dục (1994); “Sinh thái thảm thực vật rừng ngập mặn Việt Nam” của Phan Nguyên Hồng (Luận án TSKH, 1991); “Hệ sinh thái rừng 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất