Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật tự sự trong văn xuôi đỗ kim cuông...

Tài liệu Nghệ thuật tự sự trong văn xuôi đỗ kim cuông

.PDF
203
46
88

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 LÃ THỊ HỒNG NGÂN NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG VĂN XUÔI ĐỖ KIM CUÔNG Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện HÀ NỘI - 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo, PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện người đã hướng dẫn tận tình để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, phòng Sau đại học, quý thầy cô đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt khóa học. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô trong Hội đồng chấm luận văn đã dành thời gian đọc và đóng góp ý kiến. Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ động viên của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này. Mặc dù đã có những cố gắng, tìm tòi nhất định, song chắc chắn luận văn không tránh khỏi hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy, cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2016 Học viên Lã Thị Hồng Ngân LỜI CAM ĐOAN Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện. Tôi xin cam đoan: - Luận văn là kết quả nghiên cứu tìm tòi của riêng tôi. - Những tư liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực. - Những gì được triển khai trong luận văn không trùng khít với bất kì công trình nghiên cứu của các tác giả nào đã được công bố trước đó. Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2016 Học viên Lã Thị Hồng Ngân MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 5 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 5 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 6 6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 6 7. Đóng góp của luận văn................................................................................ 7 8. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 7 PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 8 Chương 1. HIỆN THỰC PHẢN ÁNH .......................................................... 8 VÀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG VĂN XUÔI ĐỖ KIM CUÔNG ....... 8 1.1. Hiện thực phản ánh trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông ............................. 8 1.1.1. Đề tài chiến tranh................................................................................... 8 1.1.2. Đề tài đời sống xã hội thời hậu chiến ................................................. 14 1.2.1. Điểm nhìn trần thuật............................................................................ 21 1.2.1.1. Khái niệm điểm nhìn .......................................................................... 21 1.2.1.2. Điểm nhìn trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông ......................................... 24 1.2.2. Giọng điệu người kể truyện ................................................................. 36 1.2.2.1. Khái niệm giọng điệu ......................................................................... 36 1.2.2.2. Giọng điệu trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông ........................................ 38 Chương 2. NHÂN VẬT TRONG VĂN XUÔI ĐỖ KIM CUÔNG ........... 50 2.1. Khái niệm nhân vật ................................................................................ 50 2.2. Nhân vật trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông ............................................. 52 2.2.1. Nhân vật người lính ............................................................................. 52 2.2.1.1. Người lính trên chiến trường ............................................................. 52 2.2.1.2. Người lính sau chiến tranh. ............................................................... 60 2.2.2. Nhân vật phụ nữ .................................................................................. 66 2.2.3. Các loại nhân vật khác ........................................................................ 70 2.3. Một số biện pháp khắc họa nhân vật ................................................... 72 2.3.1. Nghệ thuật khắc họa ngoại hình ......................................................... 72 2.3.2. Nghệ thuật khắc họa tâm trạng nhân vật ........................................... 76 2.3.2.1. Đối thoại............................................................................................. 76 2.3.2.2. Độc thoại nội tâm ............................................................................... 79 2.3.3. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện............................................. 85 Chương 3. CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU TRONG VĂN XUÔI ĐỖ KIM CUÔNG .......................................................................................................... 90 3.1. Cốt truyện trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông .......................................... 90 3.1.1. Khái niệm cốt truyện ............................................................................ 90 3.1.2. Cốt truyện trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông .......................................... 91 3.1.2.1. Cốt truyện trong truyện ngắn ............................................................. 91 3.1.2.2. Cốt truyện trong tiểu thuyết ............................................................... 96 3.2. Kết cấu trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông.............................................. 102 3.2.1. Khái niệm kết cấu............................................................................... 102 3.2.2. Kết cấu trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông ............................................. 103 3.2.2.1. Kết cấu đơn tuyến............................................................................. 103 3.2.2.2. Kết cấu đa tuyến. .............................................................................. 106 3.2.2.3. Kết cấu đảo trật tự thời gian và kết cấu truyện lồng trong truyện. . 109 KẾT LUẬN .................................................................................................. 115 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 118 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Đỗ Kim Cuông sinh năm 1951, bút danh Đỗ Hồng Hà, Trà Lý, Trâm Anh. Sinh ra ở Thái Bình, nhưng suốt một thời tuổi trẻ, Đỗ Kim Cuông gắn bó với miền Trung. Năm 1968, ông gia nhập quân đội rồi vào chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên - Huế và khu Năm, đến sau ngày thống nhất đất nước, ông đến với giảng đường đại học, vào học khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Huế (1976-1980). Ra trường, ông về dạy học và làm công tác văn hóa văn nghệ tại Nha Trang, rồi ra Hà Nội. Ông từng giữ nhiều vị trí quan trọng khác nhau: nguyên Vụ trưởng Vụ văn hóa văn nghệ (Ban Tuyên giáo Trung ương), hiện là Phó Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Nhà văn Đỗ Kim Cuông là tác giả của nhiều tiểu thuyết như: Người đàn bà đi trong mưa (1986); Một nửa đại đội (1987); Hai người còn lại (1987); Vùng trời mộng ảo (1991); Giáp ranh (1995); Miền hoang dã (1999); Thung lũng tử thần (2000); Phòng tuyến sông Bồ (2010); Sau rừng là biển (2011); Lỗi hẹn với Sêpôn (2013)… Ngoài ra ông còn hàng chục tập truyện ngắn như: Đá trắng (2004); Đêm ngâu (2005); Chuyện tình ở biển (2006); Một mảnh hồn quê (2007); Tự thú người gác rừng (2008); Người kéo vó bè (2008); Chớp biển (2009)… Có thể nói, Đỗ Kim Cuông là cây bút có nhiều đóng góp cho văn học hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm khá lớn. Ông xuất hiện từ giữa những năm 80 của thế kỉ trước với những sáng tác nổi bật về đề tài chiến tranh và đời sống xã hội thời hậu chiến. Mảng đề tài quen thuộc và gần gũi này thực sự đem lại tên tuổi cũng như tiếng vang của ông trong làng văn Việt Nam những năm cuối thế kỉ trước và đầu thế kỉ này. Với những đóng góp của mình, nhà văn Đỗ Kim Cuông đã nhận được nhiều giải thưởng văn chương như: Giải A cho tiểu thuyết Phòng tuyến sông Bồ trong cuộc thi 2 sáng tác văn học do Quân chủng Hải quân tổ chức (1995); Giải Cây bút vàng do Hội nhà văn Việt Nam và tạp chí Văn nghệ Công an tặng (1998); Giải A cuộc thi truyện vừa do Hội nhà văn Việt Nam và tạp chí Tác phẩm mới tổ chức (1998); giải thưởng Văn học Sông Mê Công (2013)... 1.2. Những nghiên cứu về Đỗ Kim Cuông mới chỉ dừng lại ở các bài viết nhỏ lẻ của Thi Thi, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Hiệp, Ngọc Diệp, Mai Quốc Liên, Nguyễn Thế Quang…Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là những nhận định mang tính khoa học chuyên sâu về đóng góp của nhà văn cho nền văn học đương đại. Cho đến nay, những nghiên cứu về Đỗ Kim Cuông mới chỉ là những bài viết phê bình ngắn, cảm nhận về một tác phẩm cụ thể hoặc những bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn về vấn đề nhân vật, hoàn cảnh ra đời cũng như thông điệp mà nhà văn gửi gắm qua tác phẩm trên các báo, các tạp chí mà thôi. Do vậy, chúng tôi xác định luận văn này là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về nhà văn Đỗ Kim Cuông. 1.3. Trong khoa nghiên cứu văn học, Tự sự học là một bộ môn nghiên cứu giàu tiềm năng, giúp ta có thể khám phá hết nghệ thuật, tài năng qua ngòi bút của nhà văn và có thể đánh giá được dấu ấn của thời đại trong văn chương. Theo giáo sư Trần Đình Sử trong cuốn Tự sự học - một số vấn đề lí luận và lịch sử thì “nội dung của khoa học tự sự là nghiên cứu cấu trúc văn bản tự sự và những vấn đề có liên quan” [41, tr.16], “Tự sự học giúp hiểu rõ mọi hình thức tự sự, nghệ thuật và phi nghệ thuật” [41, tr.19]. Việc lựa chọn đề tài: Nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông của chúng tôi bắt nguồn từ tầm quan trọng cũng như khả năng của tự sự học trong nghiên cứu văn học. Qua đó, chúng tôi góp phần khẳng định vị trí và những đóng góp của Đỗ Kim Cuông trong văn học Việt Nam hiện đại. Ngoài ra, thực hiện đề tài này chúng tôi cũng muốn nhận diện sâu sắc hơn sự phát triển và dấu ấn của lý thuyết tự sự trong văn xuôi Việt Nam hiện đại qua sáng tác của một nhà văn. 3 Có thể nói, Đỗ Kim Cuông là một nhà văn có vị trí và đóng góp vào tiến trình phát triển của văn xuôi hiện đại Việt Nam, nhưng lại chưa có một công trình nghiên cứu nào về ông toàn diện và quy mô để xác lập được những cống hiến xứng đáng của ông. Do vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài: Nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về nội dung phản ánh và giá trị nghệ thuật cũng như những đặc sắc về phong cách, bút pháp tự sự của Đỗ Kim Cuông qua văn xuôi của ông. 2. Lịch sử vấn đề Nhà văn Đỗ Kim Cuông cho tới nay đã cho xuất bản 18 tiểu thuyết và hơn mười tập truyện ngắn. Đây là số lượng tương đối lớn với sự nghiệp văn chương của một nhà văn. Đỗ Kim Cuông thực sự thành công nổi bật với thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh và đời sống xã hội thời hậu chiến. Từ những tác phẩm đầu tay Người đàn bà đi trong mưa (tiểu thuyết -1986), Một nửa đại đội (tiểu thuyết - 1987), Hai người còn lại (tiểu thuyết - 1987) đến những tác phẩm vừa xuất bản như Sau rừng là biển (tiểu thuyết - 2011), Trang trại hoa hồng (tiểu thuyết - 2016), bạn đọc nhận thấy nhân vật trung tâm trong các tác phẩm của Đỗ Kim Cuông là hình ảnh người lính như chính lời tự bạch của tác giả: “Những người lính là nhân vật của tôi. Niềm hạnh phúc của tôi trên mỗi trang sách. Ngày nay những anh lính cụ Hồ ấy có người đã trở thành viên chức, nhà doanh nghiệp, trí thức, có nhiều người trở về với con trâu, cái cày, ... Dù thế nào đi chăng nữa, họ còn theo tôi, tạo cho tôi niềm cảm hứng trên mỗi trang viết” [11, tr.185]. Ông là một nhà văn đi ra từ một người lính thứ thiệt, đã từng tham chiến ở một vùng đất máu lửa là chiến trường Trị Thiên Huế, giai đoạn từ 1968 đến 1975. Đó là khoảng thời gian khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh. Những năm tháng trở về thời bình, lúc đi dạy học, làm báo, viết văn, đi qua nhiều vùng đất nước, bằng sự trải nghiệm của chính mình và đồng đội, nhà 4 văn đã gặp lại những người từng mặc áo lính, ngồi sau xe ôm của họ, lắng nghe biết bao chuyện cảm động, đồng cảm với họ để viết về họ chân thực và sâu sắc. Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên khi đọc Phòng tuyến sông Bồ nhận thấy “Ngồn ngộn những sự kiện, những con người, những số phận, tính cách ấy không thể thoát ra ngoài cuộc chiến. Chiến tranh, chiến trường, con người và số phận của nó là vấn đề của tiểu thuyết này. Tác giả có một vốn sống, vốn cảm xúc đồ sộ, và anh đã trải nó ra trong từng câu văn, từng tình huống, tâm trạng, đối thoại, khắc họa...” [28]. Cũng trong các sáng tác của mình, Đỗ Kim Cuông dành sự quan tâm đặc biệt tới số phận của những người lính sau những năm tháng chiến đấu gian khổ, may mắn sống sót trở về, lại hòa nhập vào cuộc sống đời thường lam lũ, nghèo khó, trong cuộc vật lộn đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu… trong cuộc chuyển mình để làm nên sự nghiệp đổi mới có ý nghĩa sinh tử của đất nước, để nêu cao những phẩm giá tốt đẹp của người lính cụ Hồ. Sau rừng là biển là cuốn tiểu thuyết thứ 18 của Đỗ Kim Cuông thể hiện rõ nội dung này. Ngay đầu cuốn sách ông ghi: Tưởng nhớ những người bạn của tôi đã hy sinh trên chiến trường Trị Thiên - Huế. Rời quân ngũ đã gần 40 năm mà trái tim ông vẫn vẹn nguyên những tình cảm đằm thắm với những con người mà ông đã cùng sống và chiến đấu, rồi làm sống lại hình ảnh họ với tất cả tình yêu, nỗi xót thương và trân trọng. Đánh giá về cuốn tiểu thuyết, Nguyễn Thế Quang đã có cái nhìn khái quát “Trang trại Hoa Hồng đưa ta đến những không gian rộng lớn từ làng quê Bắc Bộ đến giải đất miền Trung và Cao nguyên, với những người lính, người dân quê, những người ông, người bà, những người cha người mẹ cùng con cháu suốt những năm bom đạn rồi hòa bình” [36, tr.40] và khẳng định: “Đây là cuốn tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn. Hình ảnh nhân vật, sự kiện liên tục tạo ra những bất ngờ... Đằng sau những câu văn giản dị mà xúc động, một cách viết kiệm lời ta bắt gặp một Đỗ 5 Kim Cuông từng trải, điềm tĩnh, sâu sắc và nhân hậu” [36, tr.44]. Đây cũng là những nét chính trong hầu hết các sáng tác của Đỗ Kim Cuông. Nhiều người biết đến Đỗ Kim Cuông - một nhà văn. Về sau, khi đã làm công tác quản lý, ông vẫn được yêu mến bởi những trang viết. Tác phẩm của ông mộc mạc, dung dị, song ẩn chứa trong những con chữ là sự rộng mở của một tấm lòng. Ông từng là người lính và cho đến giờ, truyện ngắn, tiểu thuyết của ông vẫn đậm chất lính. Ông từng là nhà giáo, và cho đến giờ cốt cách của ông vẫn như một nhà giáo. Cương vị của ông chính là sự phản ánh nhân cách của một nghệ sĩ căn cốt dám sống, dám nghĩ, dám nói sự thật. Đỗ Kim Cuông là một nhà văn có vị trí trong văn học Việt Nam sau 1986, nhưng những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của ông mới chỉ dừng lại ở những bài viết nhỏ, đơn lẻ. Do vậy, với đề tài: Nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông, chúng tôi hy vọng sẽ mang tới cái nhìn tổng quan, sâu sắc hơn về nhà văn và những cống hiến của ông trong văn học giai đoạn từ 1986 tới nay. 3. Mục đích nghiên cứu Với đề tài đã chọn, luận văn của chúng tôi nhằm: - Làm rõ nội dung sáng tác của Đỗ Kim Cuông qua đề tài chiến tranh và đời sống xã hội, con người thời hậu chiến. - Làm rõ những đặc sắc của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Đỗ Kim Cuông. - Qua những kết quả nghiên cứu, luận văn khẳng định những đóng góp của ông trong văn xuôi Việt Nam đương đại. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Qua những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông, luận văn có nhiệm vụ làm rõ tư tưởng nghệ thuật và phong cách tự sự độc đáo của văn xuôi Đỗ Kim Cuông. 6 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Thực hiện đề tài này, luận văn tập trung khảo sát, thống kê, phân tích sáu tác phẩm tiêu biểu của ông. Đó là bốn tiểu thuyết: Vùng trời mộng ảo, Nxb Phụ nữ năm 1999; Sau rừng là biển, Nxb Hội Nhà văn, 2011; Phòng tuyến sông Bồ, Nxb Văn hóa dân tộc, 2012; Lỗi hẹn với Sêpôn, Nxb Hội Nhà văn, 2013. Hai tập truyện ngắn: Đêm ngâu, Nxb Chính trị quốc gia, 1999; Chuyện tình ở biển, Nxb Thanh Niên, 2003. Với nhiệm vụ luận văn là tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông nên những tác phẩm về thể loại tự sự liên quan đến đề tài cũng được so sánh, đối chiếu. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Vận dụng lý thuyết tự sự học và các phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm rõ vấn đề người kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, cốt truyện, giọng điệu và kết cấu trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp phân tích tác phẩm Phương pháp này giúp người viết nhận thức được đặc sắc ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tuy vậy chúng tôi sẽ tập trung một số tác phẩm nổi bật, những chi tiết cụ thể để làm rõ luận điểm. 6.2. Phương pháp hệ thống, tổng hợp Để hiểu được nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông, chúng tôi xem xét các yếu tố, các khía cạnh tạo nên chỉnh thể của nghệ thuật tự sự. Từ những tác phẩm tiểu thuyêt và truyện ngắn, chúng tôi tập trung, tổng hợp để nêu bật những luận điểm cụ thể. 6.3. Phương pháp phân loại thống kê Với từng khía cạnh, cấp độ nghệ thuật tự sự, chúng tôi khảo sát, phân loại, thống kê bằng những số liệu cụ thể. 7 6.4. Phương pháp so sánh Luận văn sử dụng so sánh, đối chiếu với một số nhà văn khác để làm rõ những đặc sắc, riêng biệt trong nghệ thuật văn xuôi Đỗ Kim Cuông. 6.5. Phương pháp loại hình. 7. Đóng góp của luận văn - Đây là công trình đầu tiên đi sâu vào nghiên cứu một số phương diện trong nghệ thuật tự sự của văn xuôi Đỗ Kim Cuông. - Luận văn làm rõ những đặc sắc phong cách và bút pháp nghệ thuật của văn xuôi Đỗ Kim Cuông. - Khẳng định giá trị và đóng góp của nhà văn đối với truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được triển khai trong ba chương: Chương 1. Hiện thực phản ánh và người kể chuyện trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông. Chương 2: Nhân vật trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông Chương 3: Cốt truyện và kết cấu trong trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông 8 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 HIỆN THỰC PHẢN ÁNH VÀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG VĂN XUÔI ĐỖ KIM CUÔNG 1.1. Hiện thực phản ánh trong văn xuôi Đỗ Kim Cuông Đỗ Kim Cuông là một nhà văn từng mặc áo lính. Mỗi khi ngồi trước trang giấy, dường như kí ức của một thời xa lắc, xa lơ hiện về: “Suốt gần cả chục năm trời tôi chỉ làm những việc: đi bám địch, chốt phục kích, đi mua gạo dưới đồng bằng, đánh nhau với tụi Mỹ, Ngụy; và khi có dịp vào bãi đóng quân của địch kiếm đồ hộp, gạo sấy… Đau đớn hơn cả là mỗi trận đánh trở về tự tay mình đào huyệt chôn cất một vài bạn bè đồng học, đồng ngũ với mình trong những cánh rừng, những thửa ruộng ngập nước ở vùng ven đô Huế, Quảng Trị… Sau này khi đã trở về với cuộc sống đời thường, nhiều cay nghiệt, vượt lên sự túng thiếu, bần hàn những trang viết về người lính của tôi lặng lẽ ra đời. Tôi viết như một niềm hối thúc nội tại, viết để trả món nợ cho những người đã khuất và cho cả bao người lính sau cuộc chiến may mắn trở về” [11, tr.182-184]. Từ lời trò chuyện ấy, cùng dõi theo hành trình sáng tác của Đỗ Kim Cuông, bạn đọc nhận thấy hiện thực nổi bật trong các sáng tác của nhà văn là Chiến tranh và Đời sống xã hội thời hậu chiến. 1.1.1. Đề tài chiến tranh Chiến tranh - cho đến nay vẫn là một đề tài lớn, mang tầm vóc nhân loại. Nó từng có bề dày trong tiến trình của lịch sử văn học thế giới. Sự hiện diện của mảng đề tài này trong văn học chính là sự phản ánh sinh động nhất bức tranh hiện thực cuộc sống trong những giai đoạn lịch sử đặc biệt của từng dân tộc và của cả loài người. Với Văn học Việt Nam, chiến tranh và người lính từ lâu đã được xem như là đề tài có tính truyền thống. Điều này có cơ sở 9 thực tế lịch sử - xã hội Việt Nam. Ra đời phát triển trong môi trường, bối cảnh lịch sử dân tộc suốt nghìn năm giặc phương Bắc xâm lăng, ngót trăm năm dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và hàng mấy chục văm dưới chế độ thực dân kiểu mới - đế quốc Mĩ, văn học Việt Nam là tấm gương phản ánh trung thành và chân thực hiện thực cuộc sống của đất nước và con người trong những cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước. Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam cũng tự nhiên từng bước hình thành qua mỗi chặng đường phát triển của văn học dân tộc. Ở mỗi chặng đường, đề tài chiến tranh lại được tiếp cận và phản ánh từ những góc độ khác nhau, theo những cảm hứng khác nhau. Đặc biệt sau khi hòa bình và thống nhất đất nước, văn học vẫn không thôi viết về chiến tranh và càng hăng hái trong nhiệm vụ phản ánh đời sống thời hậu chiến. Lúc này người viết đã có độ lùi cần thiết để nhìn nhận về cuộc chiến, để xâm nhập sâu hơn vào đời sống tinh thần của người lính, vì vậy mà chiến tranh đã trở thành “siêu đề tài”, người lính trở thành “siêu nhân vật” (Chu Lai), càng khám phá càng thấy độ sâu không mòn nhẵn. Ở mảng văn xuôi viết về đề tài chiến tranh có thể kể tới các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Nguyễn Quang Sáng,... Nhà văn Đỗ Kim Cuông, trước khi trở thành cán bộ lãnh đạo tại các cơ quan trung ương chỉ đạo văn học nghệ thuật, từng chiến đấu nhiều năm trên chiến trường Trị Thiên Huế. Trong hơn hai chục tác phẩm đã xuất bản, nhà văn dành nhiều tâm huyết và cả ngàn trang sách miêu tả những năm tháng hào hùng và bi tráng của quân dân Thừa Thiên Huế mà ông là người trong cuộc. Vốn sống đó là một mỏ quý vô tận đối với người sáng tác. Đã có hàng chục cuốn tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn của các nhà văn trong cả nước viết về cuộc chiến đấu của quân dân Trị Thiên chống ngoại xâm trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Nhiều tác phẩm đã lên phim, lên 10 sân khấu. Đó là tiểu thuyết của các nhà văn như Phùng Quán, Xuân Thiều, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Quang Hà, kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường…nhưng có lẽ vẫn chưa đủ. Ngồn ngộn hiện thực của cuộc sống và con người Trị Thiên trải dài qua cả thế kỷ sống trong binh đao lửa đạn, giữa cái sống và cái chết. Ngay cả những điều nhà văn biết, trải nghiệm về cuộc chiến ở vùng đất này đã khai thác để đưa vào truyện ngắn, tiểu thuyết cũng chỉ là mảng nhỏ của bức tranh chiến sự bộn bề. Với ông, viết về chiến tranh cách mạng là nỗi ám ảnh khôn nguôi. Đó không chỉ còn là lựa chọn mà còn trở thành một thôi thúc tự nhiên. Chỉ có điều, khi Đỗ Kim Cuông đến với “địa hạt” này, ở đó đã có những “tượng đài” sừng sững về hiện thực chiến trường. Làm sao để viết về chiến tranh, về người lính mà không trùng lặp, không để người đọc có cảm giác “quen mòn”, đó là thách thức lớn đặt ra cho ngòi bút Đỗ Kim Cuông. Lật giở những trang truyện của nhà văn, từ Hai người còn lại, Một nửa đại đội, Phòng tuyến sông Bồ, Tự thú người gác rừng, Đá trắng, Lỗi hẹn với Sê Pôn…bạn đọc hoàn toàn bị lôi cuốn. Sức hấp dẫn từ những trang văn không phải ở kĩ thuật viết “hậu hiện đại” (Đỗ Kim Cuông không phải là nhà văn đam mê theo đuổi mốt cách tân trong lối viết truyện này) mà chính bởi tâm huyết của người cầm bút, vốn từng trải và cả nỗi thắc thỏm không yên của một người từng đi qua chiến tranh đã lay động tâm hồn độc giả. Tiểu thuyết Phòng tuyến sông Bồ: Ngồn ngộn những sự kiện, những con người, những số phận, tính cách được khắc họa và những số phận, tính cách ấy không thể thoát ra ngoài cuộc chiến tranh. Chiến tranh, chiến trường, con người và số phận của nó là vấn đề của tiểu thuyết này. Tác giả có một vốn sống, vốn cảm xúc đồ sộ và ông đã trải nó ra trong từng trang văn, từng tình huống tâm trạng, đối thoại, khắc họa. Phòng tuyến sông Bồ mở ra bằng một trận đánh phục kích. Tác giả chậm rãi mô tả trận đánh, cũng đồng thời làm động tác giới thiệu nhân vật và tình huống. Một trận đánh cụ thể được tái hiện 11 với nhãn quan của người trong cuộc đã cho ta hiểu biết sinh động về cuộc chiến vừa qua. Lồng vào đó nhà văn bắt đầu nêu lên tình huống: đơn vị chủ lực của trận đánh đang bị giải thể để trở về địa phương bám dân, giữ đất, làm du kích, giữ lấy chỗ đứng chân cho cách mạng. Lúc này là sau Mậu Thân, lực lượng ta teo tóp, mỗi xã chỉ còn vài ba người, không còn quân. Đó là một tình huống đầy kịch tính và trong tình huống đó, bộc lộ tính cách và tâm trạng của từng nhân vật. Đó là những tính cách như Phong, Cường… những người chỉ huy; mà cuộc đời họ gắn bó với đồng đội, với chiến trường như là sự gắn bó tự nhiên, máu thịt. Nhưng bên trong, khuất sau những hành động là những mối tình, những trắc trở, những âm thầm khổ đau hay hạnh phúc của Phong và Tâm, của Cường và Hạnh… Không gian sự việc của tiểu thuyết mở ra quá rộng, và Đỗ Kim Cuông thừa vốn sống để “tham lam” mở ra rộng, ôm chứa cho hết những tháng ngày ông đã trải qua, nhưng đã “rộng” thì thường khó “sâu”. Và các thủ pháp của tiểu thuyết, các cách kể chuyện, các thi pháp tiểu thuyết; nhất là sự soi rọi ngọn đèn vào sâu hơn nữa nội tâm con người… vẫn còn là một thách thức với nhiều tác giả viết về chiến tranh, ham “đại cảnh” mà xao lãng cái “vi mô”. Nhưng có thể khẳng định, toàn bộ cuốn tiểu thuyết là một cống hiến đáng quý cho văn học, cho cuộc sống, hôm nay và cả mai sau. Nếu có ai đó làm phim về cuốn tiểu thuyết này, thì bản thân cuốn tiểu thuyết với nhiều chi tiết đặc hiệu của nó, đã là những phần quý giá của một kịch bản phim truyện. Cuộc sống đang có những biến động, thay đổi nhiều chiều. Nhưng dù có thay đổi thế nào, cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc ta vừa qua vẫn là một đề tài bất tận. Làm sao cho mỗi người hôm nay, mỗi người sắp tới nhận được cái ánh lửa thiêng soi rọi từ cuộc chiến ấy, để mà sống mà làm việc. Phòng tuyến sông Bồ của Đỗ Kim Cuông góp phần khơi lên ngọn lửa thiêng quý giá ấy. 12 Viết về cuộc chiến mà mình đã đi qua với độ lùi của thời gian, Đỗ Kim Cuông một mặt tìm kiếm những giá trị tinh thần cũ, tri ân sâu sắc những hy sinh thiêng liêng của đồng đội, đồng bào, làm nổi rõ tầm vóc của cuộc chiến tranh bằng những trận đánh và tượng đài bất tử của những người lính bình dị. Mặt khác, tác phẩm cũng cho thấy rằng cần phải nhìn chiến tranh từ chiều kích của thảm họa nhân văn của con người, chiến tranh với tất cả những xung đột tàn nhẫn từ bên trong đến bên ngoài, không chỉ hủy hoại mạng sống con người mà còn hủy hoại cả kí ức và khả năng sống bình thường của con người, đầu độc cuộc sống của con người ở những tầng sâu nhất. Những trang viết về sự thật gân guốc, cay đắng mà con người phải chịu trong chiến tranh cũng được nhiều nhà văn khắc họa như hàng loạt tác phẩm: Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Thời xa vắng của Lê Lựu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Bức tranh của Nguyễn Minh Châu, Mười ba bến nước của Sương Nguyệt Minh…Ở sáng tác của Đỗ Kim Cuông cũng vậy. Cuộc chiến được mô tả trong Phòng tuyến sông Bồ, Lỗi hẹn với Sê Pôn, Đá trắng… không chỉ là cuộc đối đầu giữa hai lực lượng Ta và Địch mà còn là trận chiến của những con người bình thường có, anh hùng có, hi sinh có, tính toán có. Một mặt, Phòng tuyến sông Bồ ngợi ca những con người cùng chung lý tưởng với những phẩm chất trong sáng tuyệt đẹp như Phong, Cường, Nhàn, Thái Long, Tâm, Hạnh… “Cái nghiệt ngã của chiến tranh ít khi làm cho ai khóc, nhưng trái tim người lính nhức nhối, vò xé họ trong cõi thẳm sâu. Không, không thể tính hết bằng nước mắt. Họ cùng nhau chia từng bát cơm, hụm nước, điếu thuốc, hòa với nhau niềm vui, nỗi cực nhọc… Họ bất tử, dầu họ chưa được nhận phong anh hùng hay những tấm huân chương” [13, tr.62-63]. Mặt khác Phòng tuyến sông Bồ cũng dựng lên chân dung những kẻ suy thoái về tinh thần, đạo đức, sự thủ tiêu nhân cách một cách thảm hại như Thoan, Tam, 13 Lân và Lý - những kẻ cơ hội, toan tính, yếu hèn và bội phản, những kẻ mà qua họ Phong nhận ra: “Tôi đã tìm ra mẫu người anh hùng trong tiểu đoàn 10, trong những người lính C1 của tôi. Tôi đã tìm thấy ở em, ở thím Tư Biều, ở ông già Miên… Bây giờ tôi lại tìm thấy một âm bản khác của chiến tranh, của những con người như Lân, Tam, Thoan… Bất giác tôi thấy kinh tởm, buồn nôn. Thực là khủng khiếp và ghê sợ” [13, tr.192]. Đó là góc khuất bi thảm của chiến tranh mà ít nhà văn thời chiến có thể khắc họa. Âm hưởng nghiền ngẫm các giá trị khác của cuộc chiến ở các tác phẩm này cũng là cảm hứng chung của các tác phẩm viết về chiến tranh từ thập kỉ 80 trở đi. Phần lớn tác phẩm của Đỗ Kim Cuông là viết về chiến tranh, nơi nhà văn sống thời trai trẻ với bao lý tưởng, ước vọng. Cuộc sống vất vả không bóp nghẹt tâm hồn lãng mạn, cảm xúc của nhà văn: “Hơn 40 năm trước, sau mỗi lần bị quân Mỹ, quân Ngụy phục kích, chốt chặn ở Khe Trái, Đóc Đoác, địa đạo 310; đánh nhau với tụi lính Bảo an, dân vệ, lính của sư đoàn 54 Ngụy ở Dốc Đu, Dốc Cát, đồi Chóp Nón, Hòn Vượn, ở Phú Ổ La Chử, Văn xá Trung, Văn xá Làng, Bồn Chí, Bồn Phổ… vừa đào đất chôn bạn mình, vừa giật mình tự hỏi “Sao mi lại còn sống? Sau những trái mìn Claymo lửa xanh chớp lè?”. Càng không mơ tưởng mình sẽ viết văn”. Vậy nhưng, văn chương trong ông là một đời sống say mê, có thật. Ông viết văn như một chuyện tự nhiên, viết về những đồng đội, về đồng bào, về vùng đất Thừa Thiên - Huế, về những ngày chiến đấu oanh liệt… Viết về chiến tranh là viết về con người, nhà văn không để các sự kiện đè bẹp con người. Hiện thực chiến tranh không phải là mục đích tái hiện mà chỉ là đường viền làm nổi rõ số phận con người. Nhìn chiến tranh từ góc độ số phận con người và thể hiện chiến tranh qua tâm trạng con người, Đỗ Kim Cuông đã đi đến đáy cùng của hiện thực chiến tranh. Hiện thực ấy được thể hiện trong một giọng văn nhẹ nhàng mà sâu sắc, chân thật mà tinh tế. Cái sâu sắc và tinh tế ấy đến từ tâm hồn của người viết và sự 14 giàu có cảm xúc khởi nguồn từ những gian truân, hiểu đời của nhà văn Đỗ Kim Cuông. 1.1.2. Đề tài đời sống xã hội thời hậu chiến Thực chất, văn học “hậu chiến’ là một khái niệm ước lệ chỉ một giai đoạn văn học sau chiến tranh mà cảm hứng chính của nó vẫn là suy ngẫm về chiến tranh trong hoàn cảnh mới, của những con người vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh, còn bị chi phối bởi quán tính của cuộc chiến. “Những cuộc chiến tranh có bắt đầu nhưng chẳng có kết thúc. Nó dai dẳng trên nước mắt người vợ góa, người mẹ, nỗi buồn của trẻ mồ côi, tiếng rên rỉ của người lính bị thương. Những vết thương trên mặt đất biến dần, bãi chiến trường xưa thay bằng những luống cày mới, nhưng rất lâu, rất lâu trong những mẩu bánh vẫn lưu lại mùi vị chua của bụi đất và thương đau” (Văn hóa và đời sống, Số 61980). Nhận định này của Bôrit Vaxiliep thật trùng khớp biết bao với hiện thực hậu chiến ở Việt Nam. Khoảng thời gian từ 1975 đến 1986, Văn học Việt Nam đã bắt đầu chạm tới mức xung đột không tránh khỏi của một xã hội đang cố hàn gắn vết thương chiến tranh. Những xung đột đến mức đã có những cuộc hoán vị giữa anh hùng và hèn yếu, cao thượng và tính toán, lí tưởng và sa đọa… Những người lính trở về từ chiến tranh không còn quán tính sống chết nữa, mà phải đối diện với trăm ngàn điều đời thường, nhiều sự oái oăm bi hài, nhiều nghịch cảnh không thể cứu chữa. Văn học loay hoay trước những sự lệch pha dữ dội giữa định hướng sáng tác cũ và những vấn đề đặt ra của cuộc sống mới. Nhìn lại quá khứ đã qua, khoảng cách thời gian đã đưa lại cho người cầm bút những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc về số phận con người ở khía cạnh mà trước đây luôn bị làm mờ đi, nhạt đi trước số phận dân tộc: khía cạnh bi kịch cá nhân. Cảm hứng bi kịch là cội nguồn cho sự xuất hiện của một loại nhân vật mang diện mạo tinh thần hoàn toàn mới trong văn học sau 1975, 15 nhất là sau năm 1986 nhờ nỗ lực đổi mới và dân chủ hóa đời sống văn hóa văn nghệ thể hiện rõ qua các tác phẩm tiêu biểu như Thời xa vắng (Lê Lựu), Mảnh đất tình yêu (Nguyễn Minh Châu), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Bến không chồng (Dương Hướng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai)… Nhà văn Đỗ Kim Cuông trong một lời trò chuyện cùng bạn đọc đã viết: “Những trang viết về chiến tranh cách mạng, về cuộc sống ngày hôm nay, phải khác với ngày hôm qua. Một độ lùi 30 năm đủ để cho nhà văn suy ngẫm một cách nghiêm túc nhất về hiện thực của đời sống, của chiến tranh cách mạng. Có những giá trị, chuẩn mực xã hội đã đổi thay. Nhà văn cần có một cái nhìn mới, cách nghĩ mới về cuộc sống, con người để làm sao đưa đến cho bạn đọc những trang viết chân thực nhất về cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của dân tộc, về cuộc sống và con người Việt Nam với bao niềm vui, nỗi buồn, hy vọng trong biến thiên của lịch sử…” (Sách Nhà văn Việt Nam hiện đại – Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ 4/2010). Có lẽ, Sau rừng là biển đã được tác giả viết với quan niệm và cách nhìn này, tuy nhiên, từ “lý thuyết” đến thực tiễn sáng tạo bao giờ cũng có một khoảng cách. Bằng một kết cấu đa chiều- cả về không gian, thời gian, giọng điệu nhân vật - nhà văn Đỗ Kim Cuông qua 230 trang tiểu thuyết Sau rừng là biển đã cố gắng phản ánh một hiện thực trong và sau chiến tranh phong phú, phức tạp, không dễ “kết luận” như nó vốn có và như ông đã từng chứng kiến. Một cuốn tiểu thuyết hơn 200 trang nhưng mở ra cho người đọc những nẻo đến để đồng cảm với thân phận con người, đặc biệt là số phận những người lính trở về sau chiến tranh. Đọc những trang đầu, tưởng chỉ là câu chuyện đơn giản và quen thuộc: ba người lính quê một tỉnh đồng bằng Bắc bộ, từng sống chết bên nhau ở Trị Thiên, gặp lại nhau sau chiến tranh, những hồi ức xen lẫn với bao vất vả trong cuộc mưu sinh hiện tại. Ba người lính không thuộc loại có nhiều “sao vạch”,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan