Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh lạ...

Tài liệu Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh lạng sơn hiện nay

.PDF
111
42
72

Mô tả:

ĐAI HOC Qllốc GIA IIẢ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN ĐỨC QUYỂN NÂNG CAO NANG Lực Tư DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ CÁN Bộ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN ở TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY C hu y ên n g ành : C H Ủ N G H ĨA DUY V Ậ T B IỆN C H Ú N G VẢ C H Ủ N G IIĨA M ã SỐ: 1HIY V Ậ T L ỊC H s ử 5 . 0 1 .0 2 LUẬN VĂN t h ạ c s ỹ k h o a h ọ c t r iế t h ọ c • ■ ■ Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Trí Thức I là Nội- 2004 ■ LỜI CAM ĐOAN Tòi xin cam đoan đày là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các sò liệu trong luận ván là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Nếu sai tôi xin loàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội ngày 28 tháng 10 nám 2004 Nguyễn Đức Quyển MỤC LỤC Mở đíìu 2 Chương 1: Năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó dối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay 1. 1- Năng lực tư duy lý luân và nhưng yêu tố ảnh hương đến nó 1.2 - Năng lực lư duy lý luận với hoạt dộng lãnh đạo, quảnlý của dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện 8 24 Chương 2: Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Lạng Sơn hiện nay: thực trạng và giải pháp 2.1. Thực trạng và nguyên nhân hạn chế năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn 40 2.2. Một số nguyên tắc cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán hộ chủ chốt cấp huyôn 68 2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyôn ở lỉnh Lạng Sơn 77 Kết luận 91 Danh mục tài liệu tham khảo 96 Phụ lục 103 2 MỎ ĐẨU 1. Tính cấp thiết cùa dề tài Tư duy là một đặc tính căn bản của con người. Tư duy nói riêng và tư duy !ý luận nói chung là cấp độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái quát, tích cực và sáng tạo những mối quan hệ bản chất, những qui luật vận động của thế giới. Nỏ đem lại cho con người sự hiểu biết sâu sắc, chính xác. dầv đủ và có hệ thống về đôi tượng nhận thức, qua đó chủ Ihể không ngừng nâng cao hiệu quả nhân thức và hoạt dộng thực tiền của minh. Ph.Ăng-ghen từng khẳng định: “một dân tộc muốn dứng vững trên dính cao của khoa học thì khổng thể không có tư duy lý luận” [50, tr. 489]. Nhận định khoa hục này, có ý nghĩa to lứn đối với sự phát triổn đất nước ta trong hối cảnh hiện nay. Đường lối, chủ trương của Đảng là dịnh hướng ử tầm vĩ mô, khi triển khai ử các địa phương, đặc biôt là ở cấp huyện, đòi hỏi một sự năng dộng sáng tạo thì mới đạt được kết quả cao. Để đổ đáp ứng những yêu cầu đó, dội ngũ cán bô chủ chốt cấp huyôn phải có một năng lực tư duy lý luận nhất định mới thực hiện tốt những nhiCm vụ đang đặt ra. NAng cao năng lực tư duy lý luận cho dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện là vấn dồ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi lẽ, tư duy lý luận đôi với cán bọ chủ chốt cấp huyỌn như là "chìa khoá " mở cửa cho hoạt động nhận thức và thực tiỗn của họ. Năng lực tư duy lý luận là co sở quan trọng để cán bộ chủ chốt nhận thức một cách sâu sắc, dầy đủ các quan điểm, dường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trên cơ sở đó mà vận dụng vào trong quá trình lãnh dạo, quản lý đạt hiệu quả cao nhất. Thực tiền sau hem 17 năm đổi mới cho thấy, độ ngũ cán bộ lãnh dạo, quản lý nói chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyên nói riêng dã có những chuyển biến mạnh mẽ vổ cơ cấu, trình độ, ngày càng được trẻ hoá, năng dộng 3 và hoạt động ngày càng đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong hối cảnh loàn cầu hóa với nhiều cư hội và thách thức hiện nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ chù chốt cấp huyện cần phải không ngừng nâng cao trình độ và năng lực tư duy lý luận đổ ngang tầm với nhiệm vụ của mình. Thực tố hiện nay, giữa lý luận và thực tiễn có một khoảng cách khá xa, tình trạng giáo điều, sách vở, xa rời quần chúng, nói một đằng làm một nẻo vẫn còn khá phổ biến. Do vậy, một số Nghị quvểt, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước khó đi vào đời sống, lhậm chí, không ít người, ít nơi còn làm sai lệch dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Tinh trạng suy nghĩ và hành động theo thói quen, kinh nghiệm chủ nghĩa và lối suy nghĩ thô thiển, trực quan, cảm tính vẫn đang là lực cản trong bản thân đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, nhất là ử miền núi. Tư tưửng Ihụ động trông chờ, ỷ lại sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên, chưa dám mạnh dạn đề xuất những biên pháp tích cực phù hựp với địa phương vẫn phổ biến, vì thế, nhiều vấn đề thực tiễn nảy sinh chưa dược giải quyết kịp thời. Điều này chứng tỏ, năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện chưa đáp ứng được yôu cầu của thực tiễn đổi mới. Đây là một vấn dề hết sức quan trọng đối với chiến lược cán hộ của Đảng ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiôn đại hoá dất nước. Nhận thức như thế và với mong muốn góp một tiêng nói từ thực tiễn đối với công tác cán bộ của Đảng trong giai đoạn hiộn nay, tồi chọn vấn đồ : " N â n g c a o n ă n g tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay" làm đồ tài luân văn Thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đê tài Vấn đề tư duy lý luận từ lâu dã dược nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đã có nhiều cồng trình đưực công bố, trong đó, có những công trình liên quan trực tiếp đến dề tài này như: "Yêu cầu mới vê nùng lực, trí tuệ của Đảng ta 4 trong íỊÌai đoạn hiện nay' của GS.TS Phạm Ngọc Ụuang (Tri ốt học, sổ 21994); "Nâng cao năng lực tư duy của đội /lịỊŨ cán bộ chủ cliốt cấp xã hiện nay”, của Hổ Bá Thâm, Nxb Cliínli trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; "Nâng cao năng lực tư d u \ lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang", luận văn thạc sĩ triết học của Vũ Đình Chuyên; "Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy" của GS.TS Nguyễn Ngọc Long (Cộng sản, số 10-1987); "l'ư tưởng Hồ Chí Minh vê vai trò của năng lực trí tuệ vù lý luận" của PGS Trần Đinh Huỳnh (Xây dựng Đảng, số 2-1995); "Nâng cao nũng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở trường chính trị tỉnh", luận án Tiến sĩ triết học của Nguyễn Đình Trãi; "Vai trò của đổi mới tư duy'XCộng sản số 21987) của GS. Đặng Xuân Kỳ và ,v.v.. Cùng với những công trình nghiôn cứu chuyên sâu về tư duy và năng lực tư duy của cán bộ, đảng viên còn có những bài viết, những công trình nghiên cứu và đánh giá về những hạn chế, yếu kém trong tư duy lý luân cùa cán bộ, đảng viên như: ''Mấy vấn đ ề về đổi mới tư duy” của học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, 1998; “Tliực trạng tư duy của cán bộ Đảng viên ta và căn nguyên của nó” (Triết học, số 4-1988) và "Đổi mới tư duy - xây dựng tư duy khoa học” (Triết học, số 1-1987) của LO Thi; “Một s ổ căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta” (Triết học, số 2-1988) của Lô Hữu Nghĩa... Tuy nhiôn, vấn đề năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyỌn ở tỉnh Lạng Sơn đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào thực hiện. Mặt khác, việc đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý luận của dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện còn rất mới mẻ. Vì thế, việc nghiên cứu tìm hiểu thực trạng, đồ xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này 5 còn ít dược quan tâm, nhất là dôi với các huyện miền núi. Vì vậy, vấn dề nang cao năng lực lư duy lý luận cho dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện nói chung và ở tỉnh Lạng Sơn nói riêng là một vấn đồ có có vai trò quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức trong quá trình đổi mới đất nước. 3.Mục đích và nhiệm vụ của luận văn +Mục đích: Trên co sở làm rõ vai trò của lư dưy lý luận đối với hoạt động lãnh dạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện và Ihực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này ử tỉnh Lạng Sơn, đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp chủ yếu "nhằm góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tỉnh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiộp đổi mới đất nước.. + Nhiệm vụ : - Làm rõ bản chất, đặc trưng của lư duy lý luân và vai trò của nó đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện; những yêu cầu nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này hiện nay. - Đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp liuyôn ử tỉnh Lạng Sơn hiện nay và chỉ ra những nguyên nhân hạn chế năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này. - Đề xuất một số nguyên lắc, giải pháp chủ yếu để từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyộn tỉnh Lạng Sơn hiện nay. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận vàn: Luận văn tập trung nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó dối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán hộ chủ chốt cấp huyện ở lỉnh Lạng Sơn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương plĩáp nghiên cứu Luận văn dược thực hiện trên cơ sử những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hổ CỈ1Í Minh, quan diểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ, về vai trò của tư duy lý luận trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của cán bộ lãnh dạo, quản lý nói chung, cán bộ chủ chốt cấp huyện nói riông. Luận văn kế thừa kết quả của những công trình khoa học đã đưực công bố những năm gần dây ở nước ta có liên quan trực tiếp đến đổ tài, sử dụng các lài liệu của cấp uỷ Đảng, chính quyồn các huyên ử tỉnh Lạng Sơn qua thống kô, tổng kết hàng năm. Luận văn chủ yếu sử dụng phưưng pliáp phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như diều Ira xã hội học, thống kê, so sánh,... 6. Đóng góp của luận văn Góp phẩn làm rõ một số đặc trưng cư bản của tư (Juy lý luận, vai trò cùa lư duy lý luận đối với hoạt dộng lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay. 7 Góp phần làm rõ thực lrạng năng lực độ tư duy lý luận của dội ngũ cán hộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn liiỌn nay. Đổ xuất một sổ nguyên tắc, giải pháp chủ yếu nhằm liếp tục nâng cao năng lực tư duy lý luận cho dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần nghicn cứu năng lực lư duy lý luận và vai trò của nó dối với hoạt động lãnh đạo, quản lý nói chung và đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ử nước ta hiện nay nói riông. Kêì quả của luân văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiôn cứu, giảng dạy những vấn đề liên quan đến nội dung luân văn; làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chính sách dào tạo, bổi dưỡng cán hộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp huyện của tỉnh Lạng Sơn. 8. Kết cấu của luận vàn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn còn gồm 2 chương, 5 tiết. s Cìiiúínịị / NĂNCỈ Lực T ư DUYL Ý LUẬN VẢ VAI T R Ò C Ủ A N Ó Đối VỚI HOẠT ĐỘNC, LẢNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN HỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.1. Năng lực tư duy lý luận và những yếu tỏ ảnh hưởng đến nó 1.1.1. 1'ưduv và tư du V/v luận Tư duy là một thuộc tính đặc biệt của con người, nó thể hiện trình độ nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn của chủ thể. Tư duy bao giờ cũng là vấn đề cư bản nhất cùa nhân thức luận. Chính vì vậy, từ xa xưa, tư duy dã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tư duy đưực tiếp cận nghiên cứu từ nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Tâm lý học nghiôn cứu tư duy với tư cách là hoạt động của não bộ, của hệ thần kinh cao cấp trong lương tác với môi trường xung quanh. Sinh lý học nghiên cứu tư duy với tư cách là hoạt động thuần túy của hệ thần kinh. Nhận thức luận nghiôn cứu tư duy trong quá trình nhận thức với các mối quan họ giữa tri thức và hiện thực, giữa chù thổ và khách thể. Lổgích học nghiôn cứu các quy luật cũng như các hình thức, thao tác của tư duy.v.v.. Trong lịch sử triết học, khi dổ cập đốn lý luận nhận thức, các nhà triết học hao giờ cũng trình bày quan điểm của mình vổ vấn đổ tư duy. Tuy nhiôn, do xuất phát từ các lập trường triết học khác nhau nên cũng có rất nhiều quan niộm khác nhau về tư duy. Song, dù theo lập trường duy tâm hay duy vật, trong sự kế thừa lẫn nhau, các nhà triết học trước Mác đã đạt được những thành quả nhất dịnh trong phân dịnh các giai đoạn của nhân thức, khẳng định vai trò của cảm giác, kinh nghiệm hoặc lý tính, tư duy. Nhưng vẫn chưa có quan điểm nào giải quyết một cách đúng đắn, khoa học về vai trò, tác dụng, cách thức hoạt động của cảm tính, tư duy; vồ quan hệ biện chứng giữa cảm l) tính và lý tính theo lập trường duy vật. Mặc dù đã có nhiều cô gắng nhưng nhận thức triết học đốn trước khi chù nghĩa Mác ra đời vẫn chưa xây dựng dược một quan niôm đầy đủ vồ tư duy nói riông và một phương pháp nhận thức khoa học nói chung cho nhận thức và hoạt dộng của con người. Quan điổrn duy vật hiện chứng cùa Chủ nghĩa Mác -Lênin cho rằng, tư duy là sản phẩm cao nhất của một dạng vất chất dưực tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, quá írình phàn ánh tích cục ihỗ giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận,.v.v.. Tư duy xuất hiện irong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con người và phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hựp quy luật của thực tại [82, tr. 634-635]. Ph. Ăng-ghen từng khẳng định, “Nếu người ta đặl câu hỏi rằng lư (Juy và ý thức là gì, chúng từ đâu đến, thì người ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc người” [50, tr. 55]...và, “Ý thức, cũng như tư duy của chúng ta có vẻ siêu cảm giác như thế nào di chăng nữa, cũng chỉ là sản vật của một khí quan vật chất, nhục thể, tức bộ ó c ”[51, tr. 408], Tư duy là sự phản ánh klìái quái và gián tiếp hiện thực klĩáclì quan. Nói cách khác, tư duy là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người một các khái quát và gián tiếp. Tư duy xuất hiện trong quá Irình lao động sản xuất của xã hội con người và bảo đảm phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiôn những mối quan hệ hợp quy luật của thực tại. Tư duy gắn liền với quá trình hoạt động sinh lý của não hộ, song ngoài yếu tố cơ bản là sinh học ra, nhân tô' có ý nghĩa quyết định dối với tư duy là yếu tố xã hội. Tư duy là sản phẩm của xã hội cả về những đặc diểm xuất hiôn, phương thức hoạt dộng mà cả kết quả của nó. Tư duy dù thế nào cũng không bao giờ tách rời các hoạt động đặc trưng của xã hội loài người là lao động sản xuất và giao tiếp ngôn ngữ. 10 Chính sự xuất hiện những khái niệm chung, các phạm trù cho thấy khả năng phản ánh thực lại mang tính khái quát cao của tư duy con người. Từ việc xây dựng các khái n i ệ m và phạm trù qua quá trình suy lý và phán đoán Iilìững thao tác cùa tư duy mà con người ta dã phát hiện ra các quy luật. Khả năng phản ánh thực tại khách quan một cách khái quát và gián tiếp của tư duy được biểu hiện ở khả năng phán đoán, suy lý, kết luận lôgíc và chứng minh của con người. Bắt đầu lừ sự phàn tích những hiện tượng, sự kiện cụ thể tri giác đưực một cách trực tiếp, cho phép con người ta nhận thức được những gì không thể tri giác được nhờ các giác quan cụ thể. Như thế, xuất phát từ tri thức có được từ sự nhận thức trực tiếp cảm tính hởi các giác quan, quá trình tư duy cho phép con người có khả năng nhận thức đưực những đối tưựng một cách gián tiếp mà không cần thông qua các giác quan cụ thể. Tư duy là cấp độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh gián tiếp, khái quát, tích cực và sáng tạo về thế giới khách quan. Sự phản ánh gián tiếp của tư duy được biểu hiện ở khả năng suy lý, kết luân lôgíc, chứng minh của con người. Đỏ là xuất phát từ chỗ phân tích những sự kiện có thể tri giác Irực tiếp, nó cho phép nhân thức được những gì không thể tri giác trực tiếp bởi các giác quan cụ thổ. Khả năng phản ánh thực tại một cách khái quát của tư duy được biổu hiện ử khả nâng con người có ihể xây dựng những khái niệm chung gắn liền với sự trình bày những quy luât tương ứng. Tính tính tích cực của tư duy thể hiện ở chỗ nó vưựt lẽn nhận thức cảm tính, trôn cơ sở vật liệu của nhận thức cảm tính, nó xAy dựng nên hệ thống tri thức mới về thố giới khách quan trong tính toàn vẹn và vì thố mà phản ánh dưực bản chất của sự vật. Ngoài ra, tư duy còn mang tính sáng tạo sâu sắc. Khả năng xây dựng các khái niệm, phạm trù, liên kết chúng lại với nhau, hệ thống hóa tri thức, vạch ra những mối quan hệ, liên Ỉ1Ộ giữa chúng, khái quát được các quy luật chi phối tư nhiên xã hội và bản thân chính là quá trình tư duy khám phá, sáng tạo ra những tri thức mới. Mặc dù năng lực sáng tạo của tư duy ử mỗi con người là 11 hạn chê và phụ thuộc vào nhiều yêu lô clnì quan và khách quan nhưng năng lực sáng tạo của tư duy nhân loại là vồ lận. Tư duy của con người như vây, rõ ràng mang bản chất người, thuộc phạm trù trí tuệ người, giúp cho con người khám phá các thuộc tính, các mặt, các mối liên hệ của sự vật, hiện iưựng, di sâu vào bản chất, phát hiện ra những quy luật vận động và phát triển của thực tại khách quan [82, tr. 634-6351. Thực tế cho thấy, quá tiình tư duy cũng chính là quá irìnli vận dụng tri thức vào đời sống hiện thực. Tu duy bị qui dịnh hởi hoạt động thực liễn lịch sử cụ thể của con người. Đổng thời, với quá trình cải tạo giới lự nhiôn và cải tạo xã hội, con người cũng cải tạo chính bản thân mình, biến đổi và phát triển tư duy của bản thân, v ề điều này, Ph. Ăng-ghen khẳng định: "... chính việc người ta biến dổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cư sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người phát triển song song với việc người ta đã hục cải biến tự nhiôn" [50, tr. 720]. Như vậy, hoạt động thực tiễn của con người là nguồn gốc, động lực chủ yếu của tư duy, và vì thế, thực tiễn trở thành tiôu chuẩn cao nhất của tư duy con người. Chính nó sẽ khẳng định và điều chỉnh tư duy. V.I. Lônin khẳng định, “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan dicm thứ nhất và cơ bản'của lý luận về nhận thức” [38, tr. 167Ị. c . Mác cũng từng nói rằng, “Vấn đổ tìm hiổu xem tư duy của con người có thổ đạt tới chAn lý khách quan không, hoàn toàn không phải là mội vấn đề lý luận, mà là một vấn dề thực tiễn. Chính trong thực tiền mà con người phải chứng minh chân lý...” (47, tr. 9-10]. Tuy nhiên, nhận thức khoa học không phải chỉ có tiêu chuẩn thực tiễn là tiôu chuẩn duy nhất, nó còn có tiêu chuẩn riêng là tiêu chuẩn lôgíc. Dĩ nhiên, tiêu chẩn lôgíc dù quan trọng đến mấy cũng không thổ thay 12 thế tiêu chuẩn thực tiền, và xét đốn cùng thì, tiêu chuẩn lôgíc cũng phụ thuộc vào liêu chuẩn thực tiền. V.I. Lên in đã khái quát một cách sáng rõ mối quan hệ giữa lư duy và thực tiền cũng như hiện chứng của quá trình nhân thức là: "Từ trực quan sinh động đốn tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tưựng đến thực tiễn - đó là con dường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan" (40, tr.120]. Như thố, xuất phát lừ thực tiỗn, tư duy khòng dừng lại ở trừu tượng, mà nó còn quay trở lại thực tiễn dể kiểm tra các tri thức mới thu được. Bằng cách quay trở lại thực tiễn, con người chứng minh tính đúng đắn, chân thực của lư duy, nghĩa là chứng minh tính hiện thực, tính trần tục và sức mạnh của tư duy của mình. Tư duy bao giờ cũng gắn liền với ngôn ngữ, chúng luôn luôn thống nhất với nhau. Ill co c . Mác, ngôn ngữ là cái vó vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Tư duy khổng thể tồn tại thiếu ngôn ngữ. Tư tưửng chỉ có thổ đưực diỗn đạt bằng ngôn ngữ, ngôn ngữ là phưưng tiện tổn tại của tư tường, khổng cố) ngốn ngữ, tư duy của con người cũng khổng tổn tại dược. Tư duy phản ánh siự vật khách quan còn ngổn ngữ thể hiộn, biổu đạt sự vât. Tư duy có chức năng khái quát, tổng hợp, sáng tạo thông tin mới, còn ngôn ngữ là cổng cụ chuyổn tải thông tin. Với ý nghĩa này, ngồn ngữ mới mang chức năng nhân thức. Từ sự trình bày trôn, ta có thổ nôu một số đặc trưng cơ bản của tư duy sau: Tư duy pliản ánh cái chung. Cái chung ử đây được hiểu là những dấu hiệu, những thuộc tính chung của sự vật hiện tượng. Tư duy là trình dộ cao của quá trình nhận thức. Đó là quá trình phản ánh khái quát hóa chỉ cổ ở trình dộ nhận thức này mới phản ánh dược những thuộc tính chung mang tính phổ biến 13 và cơ bản của sự vật khách quan. Cái chung trong thê giới hiện thực kliông bao giờ tổn tại một cách cụ thể, độc lạp mà cùng tồn tại ở nhiều sự vật, hiện lưựng khác nhau, vì thê, nỏ không lách rời khỏi cái riêng, cái đặc ihù, nlurng trong lư duy cái chung lại dược khu biệt ra một cách độc lập, được trừu tưựng hỏa tách ra khỏi mọi cái riông cảm tính. Trừu tượng hỏa. Khi tách cái chung ra khỏi mọi cái riêng trong tư duy là một sự trừu tượng hóa. Trừu tượng hòa chính íà một đạc trưng CƯ bản của tư duy. V.I. Lênin nói về sự ưu việt của sự trừu tượng hóa của tư duy là: những sự trừu tượng về vất chất, về quy ỉuật lự nhiên, sự trừu lượng hóa về giá lrị,v.v.. phản ánh giới tự nhiên sâu sắc hem, Irung thành hơn. Tư duy phản ánh thê giới khách quan một cách gián tiếp. Tư duy phản ánh sự vật không phải từ những cảm giác trong tiếp xúc trực tiếp với sự vật, hiện tưựng mà là trôn CƯ sở các hình thức cùa nhân thức cảm tính như cảm giác, tri giác và hiểu tượng - nghĩa là nó mang tính gián tiếp. Chính vì phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp mà tư duy có khả năng tách rời nhất định với sự vật, không bị sự vật, hiện tượng chi phối nên nó có một sự độc lập tưưng dối. Do sự độc lập này mà lư duy có một sức mạnh to lỏn trong sự phản ánh thế giới khách quan. Tư duy phản ánh th ế giới khách quan một cách lích cực, sáng tạo. Bản chất của con người là một thực thổ năng dộng, sáng tạo luôn muốn vươn tới nhận thức và cải tạo thế giới, do đỏ, xuất phát từ cư sở hoạt động thực tiỗn ncn tư duy của con người cũng phản ánh thế giới một cách sáng tạo và tích cực. Tư duy, mặc dù diễn ra trong đầu óc của con người nhưng nó có xu hướng vươn ra đời sống, quay về thực tiền để chỉ dạo hành động của con người. V.I. Lênin cho rằng, sự chuyển hóa từ tư duy đến thực tại là rất quan trọng đối với tiến trình phát triển cùa lịch sử. Chính bằng tư duy mà con người có thể xây dựng 14 các già tliuyêì khoa học, các lý ihuyốt liìru lượng, các mô hình lý tưởng cho hiện tliực và dự háo tương lai. Tư duy cỏ nhiều đặc trưng tùy llieo các cácli liếp cận khác nhau. Trên đây chỉ là sự trình bày một cách hốt sức cô đọng 4 đặc trưng cơ bản của tư duy. Sự phân chia chúng thành các đặc trưng liêng chỉ mang tính tương đối, hởi thực ra chúng tổn tại, gắn bổ, liên hệ với nhau hết sức chặt chẽ, chúng làm giả dinh lẫn nhau, làm tiền dề cho nhau. Cũng tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà người ta có thể có các cách phân loại tư duy khác nhau. Chẳng hạn, vồ phương pháp tư duy, có tư duy biộn chứng và tư duy siêu hình; về loại hình tư duy, có tư duy logic và tư duy hình tưựng, tư duy khoa học và tư duy tiền khoa học; về lĩnh vực tư duy, có tư duy triết học, tư duy toán học, tư duy chính trị, lư duy kinh tế, tư duy văn hóa, tư duy nghộ thuật; về cấp độ tư duy, có tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận,... Mỗi cấp độ, mỗi loại hình tư duy có chức năng, đối tưưng, phương pháp, vị trí và vai trò khác nhau. Tư duy kinh nghiêm có chức năng, có dối tưựng và phương pháp khác với tư duy ]ý luận. Đối tượng cùa lư duy kinli nghiộm là những khách thể hiện thực tổn tại trong không gian, thời gian với sự thống nhất giữa chung và riông, đặc ihù và phổ biến...Tư duy kinh nghiệm sản sinh ra những tri thức dơn nhất, còn tư duy lý luận sản sinh ra những tri thức phổ biến. Tư (Juy kinh nghiệm mang tính chất tác động trực tiếp cải biến khách thổ hiện thực, thiên về phản ánh mặt hiện iưựng, nặng vổ mồ tả các sự kiện. Khác với tư duy kinh nghiệm, trên cơ sử hệ thống tri thức tích lũy được từ tư duy kinh nghiệm, lư duy lý luận phản ánh thố giới khách quan ử trình độ khách quát và trừu tượng với các khái niệm, phán đoán và suy luận. Tư duy lý luận phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan nhờ các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hỏa, trừu tượng hóa. Chính nó tạo nên hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Do tính chất gián tiếp của sự phản ánh hiện thực nên, tư IS duy lý luận inang tính chất tác dộng gián liếp đôi với khách thổ hiện thực và ihường nặng vổ sự định hướng, vổ trình độ phản ánh thì nếu tư duy kinh nghiêm chỉ dừng lại ở sự mô tả các môi quan hệ bề ngoài, liệt kê các sự kiện, hiện tượng rời rạc thì tư duy lý luận phán ánh sâu sắc các mối quan hệ nội tại mang tính quy luật, các cấp đô bản chất của sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan. Tư duy ỉý luận piiản ánh hiện thục khách quan bằng hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luặt vi thế nó dem lại những hiểu biết sâu sắc về bản chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật và hiện tưựng khách quan. Tư duy lý luận, xét về bản chất là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, theo con đường trừu tượng hỏa, khái quát hoá, đi sâu vào nhận thức những mối quan hệ nội tại, bản chất, qui luật của sự vật và hiện tưựng. Vì vậy, tư (Juy lý luận có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vân động, phát triển của sự vật, hiện tưựng. Cũng chính vì vây, lư duy lý luân đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của khoa học cũng trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn xã hội của con người. Tư duy lý luận giúp chủ thể nhận thức đạt được những kết quả nhận thức về đối tượng khách quan mộl cách sâu sắc hơn, chính xác hem, hệ thống hơn và mang tính phổ quát, vì thế, khả năng ứng dụng các tri thức có được từ tư duy lý luận ihường mang tính chung, tính phổ biến. Dĩ nhiên, cũng cần lưu ý rằng do tính gián tiếp và tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực khách quan nên các kết quả của tư duy lý luận cổ nhiổu khả năng xa rời thực tiễn và có nguy cơ trở thành không tưởng. Tư duy lý luận là biểu hiện trình dộ phát triển cao của năng lực tư duy của chủ thể nhận thức, hởi lẽ, năng lực là toàn bộ những đặc tính tâm lý của con người khiến cho nó thích hợp với một hình thức hoạt động nghề nghiệp nhất định dã hình thành trong lịch sử. Năng lực của con người là sản phẩm của 16 sự phát triển lịch sử. Nó khổng những do hoại dộng của hộ não quyếl định, mà trước hốt, là do trình độ phát triển lịch sử mà loài người dã đạt dược. Như thế, năng lực của con người gắn liền khổng ihổ tách rời với tổ chức lao dộng xã hội và với hệ thống giáo dục tưcmg ứng. 7.7.2. M ột sỏ yếu tố ảnh hường đến ntĩHỊỊ lực tư duy lý luận - Năng lực tư duy lý luận Năng lực lư duy lý luận là một vấn dề Ihu hút sự quan tâm cùa nhiều nhà lý luận trong quá trình đổi mới tư duy thòi gian qua. Đã có nhiều công trình nghiên cứu một cách khá sâu sắc về khái niệm, cấu trúc và vai trò của năng lực tư duy đưực công bố và dã góp phần làm cơ sở khoa học cho viôc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho con người Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước và hòa nhập quớc tế. Có thể nêu một số ý kiến về vấn đề này như sau: có tác giả khẳng định, năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ đáp ứng yôu cầu nhận thức thế giới và đảm bảo cho hành dộng sáng tạo của con người. Năng lực đó đưực biểu hiện ở khuynh hướng nhận thức và vận động, ử kết quả xử lý thông tin và nhất là kết quả hoạt đổng. Phương pháp tiếp cân vấn dề khác nhau chính là biểu hiện trình độ khác nhau của năng lực lư duy. Có tác giả lại cho rằng, năng lực tư duy là một phẩm chất, một sức mạnh thật sự của con người, năng lực tư duy là sức mạnh đổ sáng tạo tinh thần, phát triổn và vận dụng tri thức vào cuộc sống. Tác giả này còn chỉ rõ 3 yếu tố cơ bản cấu thành năng lực tư duy là: Năng lực ghi nhớ, tái hiộn bằng ngôn ngữ, hình ảnh (Jo nhận thức cảm tính đưa lại; năng lực trừu tượng hoá, khái quát hoá thông qua phân tích, tổng hợp; và năng lực tưởng tượng, suy luận, liên tưởng, đổ phân biệt, phát hiện, lựa chọn, xử lý (rong nhận thức và hành động. Tư duy, như chúng ta biết, không tồn tại một cách trừu tượng ở đâu đó mà bao giờ cũng gắn với các chủ thể nhất định. Vì lõ đó, nói vồ tư duy, không 17 thể nói một cách chung chung, mơ hồ mà bao giờ cũng nói một cách cụ thổ về năng lực và trình độ tư duy của các chủ thổ cụ thê. Năng lực tư duy của chủ thổ, trước hết, gắn liền với yếu tô di truyền sinh học. Tuy nhiôn, đó mới chỉ là cư sử ban đầu, chính nhân tô xã hội quyết định tư - Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng