ĐAI HOC Qllốc GIA IIẢ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN ĐỨC QUYỂN
NÂNG CAO NANG Lực Tư DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ
CÁN Bộ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN ở TỈNH LẠNG SƠN
HIỆN NAY
C hu y ên n g ành
: C H Ủ N G H ĨA DUY V Ậ T B IỆN C H Ú N G
VẢ C H Ủ N G IIĨA
M ã SỐ:
1HIY V Ậ T
L ỊC H s ử
5 . 0 1 .0 2
LUẬN VĂN t h ạ c s ỹ k h o a h ọ c t r iế t h ọ c
•
■
■
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Trí Thức
I là Nội- 2004
■
LỜI CAM ĐOAN
Tòi xin cam đoan đày là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các sò liệu trong luận ván là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Nếu sai tôi
xin loàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội ngày 28 tháng 10 nám 2004
Nguyễn Đức Quyển
MỤC LỤC
Mở đíìu
2
Chương 1: Năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó dối với hoạt động
lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở
nước ta hiện nay
1. 1- Năng lực tư duy lý luân
và nhưng yêu tố ảnh hương đến nó
1.2 - Năng lực lư duy lý luận với hoạt dộng lãnh đạo, quảnlý
của dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
8
24
Chương 2: Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện ở Lạng Sơn hiện nay: thực trạng và giải pháp
2.1. Thực trạng và nguyên nhân hạn chế năng lực tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn
40
2.2. Một số nguyên tắc cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ cán hộ chủ chốt cấp huyôn
68
2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyôn ở lỉnh Lạng Sơn
77
Kết luận
91
Danh mục tài liệu tham khảo
96
Phụ lục
103
2
MỎ ĐẨU
1. Tính cấp thiết cùa dề tài
Tư duy là một đặc tính căn bản của con người. Tư duy nói riêng và tư duy
!ý luận nói chung là cấp độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái
quát, tích cực và sáng tạo những mối quan hệ bản chất, những qui luật vận
động của thế giới. Nỏ đem lại cho con người sự hiểu biết sâu sắc, chính xác.
dầv đủ và có hệ thống về đôi tượng nhận thức, qua đó chủ Ihể không ngừng
nâng cao hiệu quả nhân thức và hoạt dộng thực tiền của minh. Ph.Ăng-ghen
từng khẳng định: “một dân tộc muốn dứng vững trên dính cao của khoa học thì
khổng thể không có tư duy lý luận” [50, tr. 489]. Nhận định khoa hục này, có
ý nghĩa to lứn đối với sự phát triổn đất nước ta trong hối cảnh hiện nay.
Đường lối, chủ trương của Đảng là dịnh hướng ử tầm vĩ mô, khi triển
khai ử các địa phương, đặc biôt là ở cấp huyện, đòi hỏi một sự năng dộng sáng
tạo thì mới đạt được kết quả cao. Để đổ đáp ứng những yêu cầu đó, dội ngũ
cán bô chủ chốt cấp huyôn phải có một năng lực tư duy lý luận nhất định mới
thực hiện tốt những nhiCm vụ đang đặt ra. NAng cao năng lực tư duy lý luận
cho dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện là vấn dồ có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi lẽ, tư duy lý luận đôi với cán bọ chủ chốt
cấp huyỌn như là "chìa khoá " mở cửa cho hoạt động nhận thức và thực tiỗn
của họ. Năng lực tư duy lý luận là co sở quan trọng để cán bộ chủ chốt nhận
thức một cách sâu sắc, dầy đủ các quan điểm, dường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, trên cơ sở đó mà vận dụng vào trong quá trình lãnh
dạo, quản lý đạt hiệu quả cao nhất.
Thực tiền sau hem 17 năm đổi mới cho thấy, độ ngũ cán bộ lãnh dạo,
quản lý nói chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyên nói riêng dã có những
chuyển biến mạnh mẽ vổ cơ cấu, trình độ, ngày càng được trẻ hoá, năng dộng
3
và hoạt động ngày càng đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong hối cảnh loàn cầu
hóa với nhiều cư hội và thách thức hiện nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ chù chốt
cấp huyện cần phải không ngừng nâng cao trình độ và năng lực tư duy lý luận
đổ ngang tầm với nhiệm vụ của mình.
Thực tố hiện nay, giữa lý luận và thực tiễn có một khoảng cách khá xa,
tình trạng giáo điều, sách vở, xa rời quần chúng, nói một đằng làm một nẻo
vẫn còn khá phổ biến. Do vậy, một số Nghị quvểt, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước khó đi vào đời sống, lhậm chí, không ít người, ít
nơi còn làm sai lệch dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Tinh trạng suy nghĩ và
hành động theo thói quen, kinh nghiệm chủ nghĩa và lối suy nghĩ thô thiển,
trực quan, cảm tính vẫn đang là lực cản trong bản thân đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện, nhất là ử miền núi. Tư tưửng Ihụ động trông chờ, ỷ lại sự chỉ
đạo, hướng dẫn của cấp trên, chưa dám mạnh dạn đề xuất những biên pháp
tích cực phù hựp với địa phương vẫn phổ biến, vì thế, nhiều vấn đề thực tiễn
nảy sinh chưa dược giải quyết kịp thời. Điều này chứng tỏ, năng lực tư duy lý
luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện chưa đáp ứng được yôu cầu của
thực tiễn đổi mới. Đây là một vấn dề hết sức quan trọng đối với chiến lược cán
hộ của Đảng ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiôn đại hoá dất nước. Nhận
thức như thế và với mong muốn góp một tiêng nói từ thực tiễn đối với công tác
cán bộ của Đảng trong giai đoạn hiộn nay, tồi chọn vấn đồ : " N â n g c a o n ă n g
tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn
hiện nay" làm đồ tài luân văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đê tài
Vấn đề tư duy lý luận từ lâu dã dược nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và
đã có nhiều cồng trình đưực công bố, trong đó, có những công trình liên quan
trực tiếp đến dề tài này như: "Yêu cầu mới vê nùng lực, trí tuệ của Đảng ta
4
trong íỊÌai đoạn hiện nay' của GS.TS Phạm Ngọc Ụuang (Tri ốt học, sổ 21994); "Nâng cao năng lực tư duy của đội /lịỊŨ cán bộ chủ cliốt cấp xã hiện
nay”, của Hổ Bá Thâm, Nxb Cliínli trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; "Nâng cao
năng lực tư d u \ lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở
nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang", luận văn thạc sĩ triết học của
Vũ Đình Chuyên; "Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy"
của GS.TS Nguyễn Ngọc Long (Cộng sản, số 10-1987); "l'ư tưởng Hồ Chí
Minh vê vai trò của năng lực trí tuệ vù lý luận" của PGS Trần Đinh Huỳnh
(Xây dựng Đảng, số 2-1995); "Nâng cao nũng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở trường chính trị tỉnh", luận án Tiến sĩ
triết học của Nguyễn Đình Trãi; "Vai trò của đổi mới tư duy'XCộng sản số 21987) của GS. Đặng Xuân Kỳ và ,v.v..
Cùng với những công trình nghiôn cứu chuyên sâu về tư duy và năng lực
tư duy của cán bộ, đảng viên còn có những bài viết, những công trình nghiên
cứu và đánh giá về những hạn chế, yếu kém trong tư duy lý luân cùa cán bộ,
đảng viên như: ''Mấy vấn đ ề về đổi mới tư duy” của học viện Nguyễn Ái Quốc,
Hà Nội, 1998; “Tliực trạng tư duy của cán bộ Đảng viên ta và căn nguyên của
nó” (Triết học, số 4-1988) và "Đổi mới tư duy - xây dựng tư duy khoa học”
(Triết học, số 1-1987) của LO Thi; “Một s ổ căn bệnh trong phương pháp tư
duy của cán bộ ta” (Triết học, số 2-1988) của Lô Hữu Nghĩa...
Tuy nhiôn, vấn đề năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó đối với hoạt
động lãnh đạo, quản lý của dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyỌn ở tỉnh Lạng
Sơn đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào thực hiện. Mặt khác, việc đánh giá
thực trạng năng lực tư duy lý luận của dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện còn
rất mới mẻ. Vì thế, việc nghiên cứu tìm hiểu thực trạng, đồ xuất những giải
pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này
5
còn ít dược quan tâm, nhất là dôi với các huyện miền núi. Vì vậy, vấn dề nang
cao năng lực lư duy lý luận cho dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện nói chung
và ở tỉnh Lạng Sơn nói riêng là một vấn đồ có có vai trò quan trọng nhưng
chưa được quan tâm đúng mức trong quá trình đổi mới đất nước.
3.Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
+Mục đích:
Trên co sở làm rõ vai trò của lư dưy lý luận đối với hoạt động lãnh dạo,
quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện và Ihực trạng năng lực tư duy
lý luận của đội ngũ cán bộ này ử tỉnh Lạng Sơn, đề xuất một số nguyên tắc và
giải pháp chủ yếu "nhằm góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tỉnh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiộp đổi mới đất nước..
+ Nhiệm vụ :
- Làm rõ bản chất, đặc trưng của lư duy lý luân và vai trò của nó đối với
hoạt động lãnh đạo, quản lý của dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện; những
yêu cầu nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này hiện nay.
- Đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp liuyôn ử tỉnh Lạng Sơn hiện nay và chỉ ra những nguyên nhân hạn
chế năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này.
- Đề xuất một số nguyên lắc, giải pháp chủ yếu để từng bước nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyộn tỉnh Lạng Sơn
hiện nay.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận vàn:
Luận văn tập trung nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận và vai trò của
nó dối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán hộ chủ chốt cấp huyện
ở lỉnh Lạng Sơn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương plĩáp nghiên cứu
Luận văn dược thực hiện trên cơ sử những quan điểm cơ bản của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hổ CỈ1Í Minh, quan diểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác cán bộ, về vai trò của tư duy lý luận trong việc nâng cao
hiệu quả hoạt động của cán bộ lãnh dạo, quản lý nói chung, cán bộ chủ chốt
cấp huyện nói riông.
Luận văn kế thừa kết quả của những công trình khoa học đã đưực công
bố những năm gần dây ở nước ta có liên quan trực tiếp đến đổ tài, sử dụng các
lài liệu của cấp uỷ Đảng, chính quyồn các huyên ử tỉnh Lạng Sơn qua thống
kô, tổng kết hàng năm.
Luận văn chủ yếu sử dụng phưưng pliáp phân tích và tổng hợp, lịch sử và
lôgíc. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như diều Ira
xã hội học, thống kê, so sánh,...
6. Đóng góp của luận văn
Góp phẩn làm rõ một số đặc trưng cư bản của tư (Juy lý luận, vai trò cùa
lư duy lý luận đối với hoạt dộng lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện ở nước ta hiện nay.
7
Góp phần làm rõ thực lrạng năng lực độ tư duy lý luận của dội ngũ cán
hộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn liiỌn nay.
Đổ xuất một sổ nguyên tắc, giải pháp chủ yếu nhằm liếp tục nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho dội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần nghicn cứu năng lực lư duy lý luận và vai trò của
nó dối với hoạt động lãnh đạo, quản lý nói chung và đối với hoạt động lãnh
đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ử nước ta hiện nay nói
riông.
Kêì quả của luân văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiôn cứu,
giảng dạy những vấn đề liên quan đến nội dung luân văn;
làm tài liệu tham
khảo cho việc xây dựng, hoạch định chính sách dào tạo, bổi dưỡng cán hộ
lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp huyện của tỉnh Lạng Sơn.
8. Kết cấu của luận vàn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn còn gồm 2 chương, 5 tiết.
s
Cìiiúínịị /
NĂNCỈ
Lực T ư DUYL Ý
LUẬN VẢ VAI T R Ò
C Ủ A N Ó
Đối
VỚI
HOẠT ĐỘNC, LẢNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN HỘ
CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Năng lực tư duy lý luận và những yếu tỏ ảnh hưởng đến nó
1.1.1. 1'ưduv và tư du V/v luận
Tư duy là một thuộc tính đặc biệt của con người, nó thể hiện trình độ
nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn của chủ thể. Tư duy bao giờ cũng là
vấn đề cư bản nhất cùa nhân thức luận. Chính vì vậy, từ xa xưa, tư duy dã thu
hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tư duy đưực tiếp cận nghiên cứu từ
nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Tâm lý học nghiôn cứu tư duy với tư cách
là hoạt động của não bộ, của hệ thần kinh cao cấp trong lương tác với môi
trường xung quanh. Sinh lý học nghiên cứu tư duy với tư cách là hoạt động
thuần túy của hệ thần kinh. Nhận thức luận nghiôn cứu tư duy trong quá trình
nhận thức với các mối quan họ giữa tri thức và hiện thực, giữa chù thổ và
khách thể. Lổgích học nghiôn cứu các quy luật cũng như các hình thức, thao
tác của tư duy.v.v..
Trong lịch sử triết học, khi dổ cập đốn lý luận nhận thức, các nhà triết
học hao giờ cũng trình bày quan điểm của mình vổ vấn đổ tư duy. Tuy nhiôn,
do xuất phát từ các lập trường triết học khác nhau nên cũng có rất nhiều quan
niộm khác nhau về tư duy. Song, dù theo lập trường duy tâm hay duy vật,
trong sự kế thừa lẫn nhau, các nhà triết học trước Mác đã đạt được những
thành quả nhất dịnh trong phân dịnh các giai đoạn của nhân thức, khẳng định
vai trò của cảm giác, kinh nghiệm hoặc lý tính, tư duy. Nhưng vẫn chưa có
quan điểm nào giải quyết một cách đúng đắn, khoa học về vai trò, tác dụng,
cách thức hoạt động của cảm tính, tư duy; vồ quan hệ biện chứng giữa cảm
l)
tính và lý tính theo lập trường duy vật. Mặc dù đã có nhiều cô gắng nhưng
nhận thức triết học đốn trước khi chù nghĩa Mác ra đời vẫn chưa xây dựng
dược một quan niôm đầy đủ vồ tư duy nói riông và một phương pháp nhận
thức khoa học nói chung cho nhận thức và hoạt dộng của con người.
Quan điổrn duy vật hiện chứng cùa Chủ nghĩa Mác -Lênin cho rằng, tư
duy là sản phẩm cao nhất của một dạng vất chất dưực tổ chức một cách đặc
biệt là bộ não, quá írình phàn ánh tích cục ihỗ giới khách quan trong các khái
niệm, phán đoán, lý luận,.v.v.. Tư duy xuất hiện irong quá trình hoạt động sản
xuất xã hội của con người và phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện
những mối liên hệ hựp quy luật của thực tại [82, tr. 634-635]. Ph. Ăng-ghen
từng khẳng định, “Nếu người ta đặl câu hỏi rằng lư (Juy và ý thức là gì, chúng
từ đâu đến, thì người ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc người” [50, tr.
55]...và, “Ý thức, cũng như tư duy của chúng ta có vẻ siêu cảm giác như thế
nào di chăng nữa, cũng chỉ là sản vật của một khí quan vật chất, nhục thể, tức
bộ ó c ”[51, tr. 408],
Tư duy là sự phản ánh klìái quái và gián tiếp hiện thực klĩáclì quan. Nói
cách khác, tư duy là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con
người một các khái quát và gián tiếp. Tư duy xuất hiện trong quá Irình lao
động sản xuất của xã hội con người và bảo đảm phản ánh thực tại một cách
gián tiếp, phát hiôn những mối quan hệ hợp quy luật của thực tại. Tư duy gắn
liền với quá trình hoạt động sinh lý của não hộ, song ngoài yếu tố cơ bản là
sinh học ra, nhân tô' có ý nghĩa quyết định dối với tư duy là yếu tố xã hội. Tư
duy là sản phẩm của xã hội cả về những đặc diểm xuất hiôn, phương thức hoạt
dộng mà cả kết quả của nó. Tư duy dù thế nào cũng không bao giờ tách rời
các hoạt động đặc trưng của xã hội loài người là lao động sản xuất và giao tiếp
ngôn ngữ.
10
Chính sự xuất hiện những khái niệm chung, các phạm trù cho thấy khả
năng phản ánh thực lại mang tính khái quát cao của tư duy con người. Từ việc
xây dựng các khái n i ệ m và phạm trù qua quá trình suy lý và phán đoán Iilìững thao tác cùa tư duy mà con người ta dã phát hiện ra các quy luật. Khả
năng phản ánh thực tại khách quan một cách khái quát và gián tiếp của tư duy
được biểu hiện ở khả năng phán đoán, suy lý, kết luận lôgíc và chứng minh
của con người. Bắt đầu lừ sự phàn tích những hiện tượng, sự kiện cụ thể tri
giác đưực một cách trực tiếp, cho phép con người ta nhận thức được những gì
không thể tri giác được nhờ các giác quan cụ thể. Như thế, xuất phát từ tri thức
có được từ sự nhận thức trực tiếp cảm tính hởi các giác quan, quá trình tư duy
cho phép con người có khả năng nhận thức đưực những đối tưựng một cách
gián tiếp mà không cần thông qua các giác quan cụ thể.
Tư duy là cấp độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh gián tiếp,
khái quát, tích cực và sáng tạo về thế giới khách quan. Sự phản ánh gián tiếp
của tư duy được biểu hiện ở khả năng suy lý, kết luân lôgíc, chứng minh của
con người. Đỏ là xuất phát từ chỗ phân tích những sự kiện có thể tri giác Irực
tiếp, nó cho phép nhân thức được những gì không thể tri giác trực tiếp bởi các
giác quan cụ thổ. Khả năng phản ánh thực tại một cách khái quát của tư duy
được biổu hiện ử khả nâng con người có ihể xây dựng những khái niệm chung
gắn liền với sự trình bày những quy luât tương ứng. Tính tính tích cực của tư
duy thể hiện ở chỗ nó vưựt lẽn nhận thức cảm tính, trôn cơ sở vật liệu của
nhận thức cảm tính, nó xAy dựng nên hệ thống tri thức mới về thố giới khách
quan trong tính toàn vẹn và vì thố mà phản ánh dưực bản chất của sự vật.
Ngoài ra, tư duy còn mang tính sáng tạo sâu sắc. Khả năng xây dựng các khái
niệm, phạm trù, liên kết chúng lại với nhau, hệ thống hóa tri thức, vạch ra
những mối quan hệ, liên Ỉ1Ộ giữa chúng, khái quát được các quy luật chi phối
tư nhiên xã hội và bản thân chính là quá trình tư duy khám phá, sáng tạo ra
những tri thức mới. Mặc dù năng lực sáng tạo của tư duy ử mỗi con người là
11
hạn chê và phụ thuộc vào nhiều yêu lô clnì quan và khách quan nhưng năng
lực sáng tạo của tư duy nhân loại là vồ lận. Tư duy của con người như vây, rõ
ràng mang bản chất người, thuộc phạm trù trí tuệ người, giúp cho con người
khám phá các thuộc tính, các mặt, các mối liên hệ của sự vật, hiện iưựng, di
sâu vào bản chất, phát hiện ra những quy luật vận động và phát triển của thực
tại khách quan [82, tr. 634-6351.
Thực tế cho thấy, quá tiình tư duy cũng chính là quá irìnli vận dụng tri
thức vào đời sống hiện thực. Tu duy bị qui dịnh hởi hoạt động thực liễn lịch sử
cụ thể của con người. Đổng thời, với quá trình cải tạo giới lự nhiôn và cải tạo
xã hội, con người cũng cải tạo chính bản thân mình, biến đổi và phát triển tư
duy của bản thân, v ề điều này, Ph. Ăng-ghen khẳng định: "... chính việc
người ta biến dổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính
cách giới tự nhiên, là cư sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con
người, và trí tuệ con người phát triển song song với việc người ta đã hục cải
biến tự nhiôn" [50, tr. 720].
Như vậy, hoạt động thực tiễn của con người là nguồn gốc, động lực chủ
yếu của tư duy, và vì thế, thực tiễn trở thành tiôu chuẩn cao nhất của tư duy
con người. Chính nó sẽ khẳng định và điều chỉnh tư duy. V.I. Lônin khẳng
định, “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan dicm thứ nhất và cơ
bản'của lý luận về nhận thức” [38, tr. 167Ị. c . Mác cũng từng nói rằng, “Vấn
đổ tìm hiổu xem tư duy của con người có thổ đạt tới chAn lý khách quan
không, hoàn toàn không phải là mội vấn đề lý luận, mà là một vấn dề thực
tiễn. Chính trong thực tiền mà con người phải chứng minh chân lý...”
(47, tr. 9-10]. Tuy nhiên, nhận thức khoa học không phải chỉ có tiêu chuẩn
thực tiễn là tiôu chuẩn duy nhất, nó còn có tiêu chuẩn riêng là tiêu chuẩn
lôgíc. Dĩ nhiên, tiêu chẩn lôgíc dù quan trọng đến mấy cũng không thổ thay
12
thế tiêu chuẩn thực tiền, và xét đốn cùng thì, tiêu chuẩn lôgíc cũng phụ thuộc
vào liêu chuẩn thực tiền.
V.I. Lên in đã khái quát một cách sáng rõ mối quan hệ giữa lư duy và
thực tiền cũng như hiện chứng của quá trình nhân thức là: "Từ trực quan sinh
động đốn tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tưựng đến thực tiễn - đó là con
dường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách
quan" (40, tr.120]. Như thố, xuất phát lừ thực tiỗn, tư duy khòng dừng lại ở
trừu tượng, mà nó còn quay trở lại thực tiễn dể kiểm tra các tri thức mới thu
được. Bằng cách quay trở lại thực tiễn, con người chứng minh tính đúng đắn,
chân thực của lư duy, nghĩa là chứng minh tính hiện thực, tính trần tục và sức
mạnh của tư duy của mình.
Tư duy bao giờ cũng gắn liền với ngôn ngữ, chúng luôn luôn thống nhất
với nhau. Ill co c . Mác, ngôn ngữ là cái vó vật chất của tư duy, là hiện thực
trực tiếp của tư tưởng. Tư duy khổng thể tồn tại thiếu ngôn ngữ. Tư tưửng chỉ
có thổ đưực diỗn đạt bằng ngôn ngữ, ngôn ngữ là phưưng tiện tổn tại của tư
tường, khổng cố) ngốn ngữ, tư duy của con người cũng khổng tổn tại dược. Tư
duy phản ánh siự vật khách quan còn ngổn ngữ thể hiộn, biổu đạt sự vât. Tư
duy có chức năng khái quát, tổng hợp, sáng tạo thông tin mới, còn ngôn ngữ là
cổng cụ chuyổn tải thông tin. Với ý nghĩa này, ngồn ngữ mới mang chức năng
nhân thức.
Từ sự trình bày trôn, ta có thổ nôu một số đặc trưng cơ bản của tư duy
sau:
Tư duy pliản ánh cái chung. Cái chung ử đây được hiểu là những dấu
hiệu, những thuộc tính chung của sự vật hiện tượng. Tư duy là trình dộ cao của
quá trình nhận thức. Đó là quá trình phản ánh khái quát hóa chỉ cổ ở trình dộ
nhận thức này mới phản ánh dược những thuộc tính chung mang tính phổ biến
13
và cơ bản của sự vật khách quan. Cái chung trong thê giới hiện thực kliông
bao giờ tổn tại một cách cụ thể, độc lạp mà cùng tồn tại ở nhiều sự vật, hiện
lưựng khác nhau, vì thê, nỏ không lách rời khỏi cái riêng, cái đặc ihù, nlurng
trong lư duy cái chung lại dược khu biệt ra một cách độc lập, được trừu tưựng
hỏa tách ra khỏi mọi cái riông cảm tính.
Trừu tượng hỏa. Khi tách cái chung ra khỏi mọi cái riêng trong tư duy là
một sự trừu tượng hóa. Trừu tượng hòa chính íà một đạc trưng CƯ bản của tư
duy. V.I. Lênin nói về sự ưu việt của sự trừu tượng hóa của tư duy là: những sự
trừu tượng về vất chất, về quy ỉuật lự nhiên, sự trừu lượng hóa về giá lrị,v.v..
phản ánh giới tự nhiên sâu sắc hem, Irung thành hơn.
Tư duy phản ánh thê giới khách quan một cách gián tiếp. Tư duy phản
ánh sự vật không phải từ những cảm giác trong tiếp xúc trực tiếp với sự vật,
hiện tưựng mà là trôn CƯ sở các hình thức cùa nhân thức cảm tính như cảm
giác, tri giác và hiểu tượng - nghĩa là nó mang tính gián tiếp. Chính vì phản
ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp mà tư duy có khả năng tách rời
nhất định với sự vật, không bị sự vật, hiện tượng chi phối nên nó có một sự
độc lập tưưng dối. Do sự độc lập này mà lư duy có một sức mạnh to lỏn trong
sự phản ánh thế giới khách quan.
Tư duy phản ánh th ế giới khách quan một cách lích cực, sáng tạo. Bản
chất của con người là một thực thổ năng dộng, sáng tạo luôn muốn vươn tới
nhận thức và cải tạo thế giới, do đỏ, xuất phát từ cư sở hoạt động thực tiỗn ncn
tư duy của con người cũng phản ánh thế giới một cách sáng tạo và tích cực. Tư
duy, mặc dù diễn ra trong đầu óc của con người nhưng nó có xu hướng vươn
ra đời sống, quay về thực tiền để chỉ dạo hành động của con người. V.I. Lênin
cho rằng, sự chuyển hóa từ tư duy đến thực tại là rất quan trọng đối với tiến
trình phát triển cùa lịch sử. Chính bằng tư duy mà con người có thể xây dựng
14
các già tliuyêì khoa học, các lý ihuyốt liìru lượng, các mô hình lý tưởng cho
hiện tliực và dự háo tương lai.
Tư duy cỏ nhiều đặc trưng tùy llieo các cácli liếp cận khác nhau. Trên
đây chỉ là sự trình bày một cách hốt sức cô đọng 4 đặc trưng cơ bản của tư
duy. Sự phân chia chúng thành các đặc trưng liêng chỉ mang tính tương đối,
hởi thực ra chúng tổn tại, gắn bổ, liên hệ với nhau hết sức chặt chẽ, chúng làm
giả dinh lẫn nhau, làm tiền dề cho nhau.
Cũng tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà người ta có thể có các cách
phân loại tư duy khác nhau. Chẳng hạn, vồ phương pháp tư duy, có tư duy biộn
chứng và tư duy siêu hình; về loại hình tư duy, có tư duy logic và tư duy hình
tưựng, tư duy khoa học và tư duy tiền khoa học; về lĩnh vực tư duy, có tư duy
triết học, tư duy toán học, tư duy chính trị, lư duy kinh tế, tư duy văn hóa, tư
duy nghộ thuật; về cấp độ tư duy, có tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận,...
Mỗi cấp độ, mỗi loại hình tư duy có chức năng, đối tưưng, phương pháp,
vị trí và vai trò khác nhau. Tư duy kinh nghiêm có chức năng, có dối tưựng và
phương pháp khác với tư duy ]ý luận. Đối tượng cùa lư duy kinli nghiộm là
những khách thể hiện thực tổn tại trong không gian, thời gian với sự thống
nhất giữa chung và riông, đặc ihù và phổ biến...Tư duy kinh nghiệm sản sinh
ra những tri thức dơn nhất, còn tư duy lý luận sản sinh ra những tri thức phổ
biến. Tư (Juy kinh nghiệm mang tính chất tác động trực tiếp cải biến khách thổ
hiện thực, thiên về phản ánh mặt hiện iưựng, nặng vổ mồ tả các sự kiện. Khác
với tư duy kinh nghiệm, trên cơ sử hệ thống tri thức tích lũy được từ tư duy
kinh nghiệm, lư duy lý luận phản ánh thố giới khách quan ử trình độ khách
quát và trừu tượng với các khái niệm, phán đoán và suy luận. Tư duy lý luận
phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan nhờ các phương pháp phân tích, tổng
hợp, khái quát hỏa, trừu tượng hóa. Chính nó tạo nên hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan. Do tính chất gián tiếp của sự phản ánh hiện thực nên, tư
IS
duy lý luận inang tính chất tác dộng gián liếp đôi với khách thổ hiện thực và
ihường nặng vổ sự định hướng, vổ trình độ phản ánh thì nếu tư duy kinh
nghiêm chỉ dừng lại ở sự mô tả các môi quan hệ bề ngoài, liệt kê các sự kiện,
hiện tượng rời rạc thì tư duy lý luận phán ánh sâu sắc các mối quan hệ nội tại
mang tính quy luật, các cấp đô bản chất của sự vật và hiện tượng của thế giới
khách quan.
Tư duy ỉý luận piiản ánh hiện thục khách quan bằng hệ thống khái niệm,
phạm trù, quy luặt vi thế nó dem lại những hiểu biết sâu sắc về bản chất,
những quy luật vận động và phát triển của sự vật và hiện tưựng khách quan.
Tư duy lý luận, xét về bản chất là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng
tinh thần, theo con đường trừu tượng hỏa, khái quát hoá, đi sâu vào nhận thức
những mối quan hệ nội tại, bản chất, qui luật của sự vật và hiện tưựng. Vì vậy,
tư (Juy lý luận có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vân động, phát triển
của sự vật, hiện tưựng. Cũng chính vì vây, lư duy lý luân đóng vai trò rất quan
trọng trong sự phát triển của khoa học cũng trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn
xã hội của con người.
Tư duy lý luận giúp chủ thể nhận thức đạt được những kết quả nhận thức
về đối tượng khách quan mộl cách sâu sắc hơn, chính xác hem, hệ thống hơn
và mang tính phổ quát, vì thế, khả năng ứng dụng các tri thức có được từ tư
duy lý luận ihường mang tính chung, tính phổ biến. Dĩ nhiên, cũng cần lưu ý
rằng do tính gián tiếp và tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực
khách quan nên các kết quả của tư duy lý luận cổ nhiổu khả năng xa rời thực
tiễn và có nguy cơ trở thành không tưởng.
Tư duy lý luận là biểu hiện trình dộ phát triển cao của năng lực tư duy
của chủ thể nhận thức, hởi lẽ, năng lực là toàn bộ những đặc tính tâm lý của
con người khiến cho nó thích hợp với một hình thức hoạt động nghề nghiệp
nhất định dã hình thành trong lịch sử. Năng lực của con người là sản phẩm của
16
sự phát triển lịch sử. Nó khổng những do hoại dộng của hộ não quyếl định, mà
trước hốt, là do trình độ phát triển lịch sử mà loài người dã đạt dược. Như thế,
năng lực của con người gắn liền khổng ihổ tách rời với tổ chức lao dộng xã hội
và với hệ thống giáo dục tưcmg ứng.
7.7.2. M ột sỏ yếu tố ảnh hường đến ntĩHỊỊ lực tư duy lý luận
- Năng lực tư duy lý luận
Năng lực lư duy lý luận là một vấn dề Ihu hút sự quan tâm cùa nhiều nhà
lý luận trong quá trình đổi mới tư duy thòi gian qua. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu một cách khá sâu sắc về khái niệm, cấu trúc và vai trò của năng
lực tư duy đưực công bố và dã góp phần làm cơ sở khoa học cho viôc nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho con người Việt Nam trong quá trình đổi mới đất
nước và hòa nhập quớc tế. Có thể nêu một số ý kiến về vấn đề này như sau: có
tác giả khẳng định, năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ đáp
ứng yôu cầu nhận thức thế giới và đảm bảo cho hành dộng sáng tạo của con
người. Năng lực đó đưực biểu hiện ở khuynh hướng nhận thức và vận động, ử
kết quả xử lý thông tin và nhất là kết quả hoạt đổng. Phương pháp tiếp cân vấn
dề khác nhau chính là biểu hiện trình độ khác nhau của năng lực lư duy. Có
tác giả lại cho rằng, năng lực tư duy là một phẩm chất, một sức mạnh thật sự
của con người, năng lực tư duy là sức mạnh đổ sáng tạo tinh thần, phát triổn và
vận dụng tri thức vào cuộc sống. Tác giả này còn chỉ rõ 3 yếu tố cơ bản cấu
thành năng lực tư duy là: Năng lực ghi nhớ, tái hiộn bằng ngôn ngữ, hình ảnh
(Jo nhận thức cảm tính đưa lại; năng lực trừu tượng hoá, khái quát hoá thông
qua phân tích, tổng hợp; và năng lực tưởng tượng, suy luận, liên tưởng, đổ
phân biệt, phát hiện, lựa chọn, xử lý (rong nhận thức và hành động.
Tư duy, như chúng ta biết, không tồn tại một cách trừu tượng ở đâu đó
mà bao giờ cũng gắn với các chủ thể nhất định. Vì lõ đó, nói vồ tư duy, không
17
thể nói một cách chung chung, mơ hồ mà bao giờ cũng nói một cách cụ thổ về
năng lực và trình độ tư duy của các chủ thổ cụ thê.
Năng lực tư duy của chủ thổ, trước hết, gắn liền với yếu tô di truyền sinh
học. Tuy nhiôn, đó mới chỉ là cư sử ban đầu, chính nhân tô xã hội quyết định
tư
- Xem thêm -